Tại sao gọi hổ là ông ba mươi

Đáp án và lời giải chính xác nhất cho câu hỏi “Tại sao gọi hổ là ông ba mươi” cùng với kiến thức mở rộng về hổ là những tài liệu sống hay và hữu ích nhất dành cho mọi người.

Trả lời câu hỏi: Tại sao gọi hổ là “ông ba mươi”?

- Hổ được gọi là ông ba mươi vì:

+ Ông Ba Mươi với tên gọi trại do tín ngưỡng để gọi hổ, cọp, khái, hùm… có chứng tích ghi chép sớm nhất là từ Lĩnh Nam Chích Quái, một tác phẩm khởi thảo từ thời Trần, biên soạn lại từ thời Lê và tu bổ san định cho đến thời Nguyễn. Đến nay, đây là ý kiến khả tin nhất.

+ Cuối đời Lê, có chuyện Ma Trành [Trành cũng có âm là Xương như đã nói] do Phạm Đình Hổ chép lại [Trành quỷ hiển linh] cũng nói Trành là tinh của người chết vì hổ, biến thành hổ về bắt người ăn thịt cũng đúng như chú giải của Thiều Chửu trong từ điển. Hơn nữa, Phạm Đình Hổ còn nhắc lại ở đây, việc Ma Trành vật chết Nhâm Ngao.

+ Lĩnh Nam Chích Quái chép rằng “dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống đến nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là Xương Cuồng” thì rõ ràng đây là tục cúng hổ vào ba mươi tết. Và vì thế hổ, cọp, khái, hùm… được gọi là Ông Ba Mươi".

Tiếp theo đây, hãy cùng Top lời giải đi tìm hiểu thêm những kiến thức bổ ích về hổ nhé!

Kiến thức tham khảo về hổ

1. Hổ là gì?

- Hổhay còn gọi làcọphoặchùm[và các tên gọi khác nhưÔng ba mươi,kễnh,khái] là một loài động vật có vú thuộcHọ Mèođược xếp vào một trong năm loài "mèo lớn" thuộc chiPanthera.

- Hổ là một loàithú ăn thịt, chúng dễ nhận biết nhất bởi các sọc vằn dọc sẫm màu trên bộ lông màu đỏ cam với phần bụng trắng. Hổlà loài thú lớn nhất trong họ Mèovà là động vật lớn thứ ba trong các loàithú ăn thịt[saugấu Bắc Cựcvàgấu nâu].

- Hổ là một trong những loài động vật có biểu tượng lôi cuốn và dễ nhận biết nhất trên thế giới với những sọc vằn vện không lẫn vào đâu được.

2. Hình dạng của hổ

- Về kích thước, những cá thể đực sẽ to lớn hơn con cái. Thậm chí, những con đực có thể nặng gấp 1.7 lần hổ cái.

- Thông thường, những hổ đực sẽ có kích thước từ 250 – 390cm và nặng từ 90 – 306kg. Trong khi đó, con cái thường dài 200 – 275cm và trọng lượng khoảng 65 – 167kg. Phần đuôi của chúng thường dài 60 – 110cm. Ngoài tự nhiên, hổ Siberia là loài có kích thước lớn nhất với chiều dài có thể lên đến 3.5m và cân nặng lên đến 300kg.

- Miệng của loài động vật này có những răng nanh dài [có thể lên đến 90mm], sắc nhọn và hơi cong, xung quanh có những chiếc râu dài, đặc điểm này nổi bật hơn ở những cá thể hổ đực. Phần lông ở cổ của chúng mọc dài hơn các bộ phận khác giống như chiếc bờm.

3. Phân loại và phân bố hổ trên Thế giới

- Theo thống kê, có 9 loài hổ khác nhau trên thế giới trong đó có 3 loài đã tuyệt chủng.

- Các loài hổ đã tuyệt chủng bao gồm:

+ Hổ Bali [Panthera tigris balica]

+ Hổ Java [Panthera tigris sondaica]

+ Hổ Ba Tư hay hổ Caspi [Panthera tigris virgata]

- 6 loài hổ còn tồn tại gồm có:

+ Hổ hoa nam [Panthera tigris amoyensis]: Còn 59 cá thể đang được nuôi nhốt tại Trung Quốc và có nguy cơ tuyệt chủng cao vì số lượng con non được sinh ra khá ít [6 con].

+ Hổ Sumatra [Panthera tigris sumatrae]: Sinh sống ở đảo Sumatra – Indonesia. Quần thể hoang dã tồn tại với số lượng từ 400 – 500 con ở 5 vườn quốc gia trên đảo.

+ Hổ Siberia [Panthera tigris altaica]: Còn được gọi là hổ Amur, hổ Mãn Châu. Số lượng của loài này còn khoảng 540 con và tồn tại ở Nga và Đông Bắc Trung Quốc.

+ Hổ Mã Lai [Panthera tigris jacksoni]: Số lượng cá thể trên thế giới là khoảng 600 – 800 và xuất hiện chủ yếu ở bán đảo Mã Lai.

+ Hổ Đông Dương [Panthera tigris corbetti]: Quần thể của loài này ước tính vào khoảng 1.200 – 1.800 cá thể. Phân bố chủ yếu ở các nước Việt Nam, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Myanmar.

+ Hổ Bengal [Panthera tigris tigris]: Số lượng loài khoảng 2.000 con sinh sống rải rác ở Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và Trung Quốc.

- Như vậy, mặc dù là một loài thú dữ nhưng số lượng của hổ trên thế giới không còn nhiều và đối mặt với nguy cơ bị đe dọa.

4. Hình tượng con hổ trong văn hóa Việt Nam

- Hình tượng conhổhayChúa sơn lâmđã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó vớilịch sửcủaloài người. Trong nhiều nềnvăn hóakhác nhauthế giới, hình ảnh con hổ gợi lên những liên tưởng về sức mạnh, sự thanh thế, oai linh, vẻ đẹp rực rỡ nhưng đầy bí hiểm, sự uyển chuyển với cơ thể vằn vện thấp thoáng lượn sóng cũng như tính hung hãn, thú tính của một dã thú làđộng vật săn mồihàng đầuvà cũng là mộtbiểu tượngcủa đẳng cấpchiến binh [1]đồng thời toát lên vẻ đẹp khôi vĩ và sức mạnh.

- Các triều đại phong kiến ở các nước Phương Đông coi hổ cùng với rồng là biểu trưng cho vương quyền, trong quân sự, võ học và cho những thành đạt trong khoa cử, chính vì vậy mà hình ảnh con hổ xuất hiện khá phổ biến trong cung cấm, doanh trại và trong trường thi Đứng hàng thứ ba trong thập nhị địa chi, hổ là vị vua mang nhiều ẩn dụ nhất trong các loài dã thú.

- Trong dân gian Việt Nam, hình ảnh con hổ phổ biến trong các kiến trúc đình, miếu, dưới chế độ quân chủ của triều đình phong kiến, hình ảnh Hổ được biểu tượng cho sức mạnh quân sự, cho các vị võ tướng và thường được thêu trên áo các võ quan hàng tứ phẩm [nên dân gian mới ví von là "văn cò, võ cọp"].

Cách giải thích phổ biến hiện nay là nương theo truyện cổ tích đã được Nguyễn Đổng Chi kể lại trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam mà ông ghi rõ là “theo Sơn Nam… và theo lời kể của người Hà Tĩnh”. Có thể tóm tắt truyện như sau:

Phạm Nhĩ là người sống ở Thiên cung, có sức khỏe phi thường. Ông có vành tai rách nên gọi tên như vậy. Phạm Nhĩ cậy có sức át cả thiên binh thiên tướng. Qua nhiều lần giao chiến, ông định lật đổ cả Ngọc Hoàng để lên ngôi Thiên Đế. Ngọc Hoàng yếu thế bèn cầu Phật. Đức Phật tự thân đi bắt Phạm Nhĩ nhốt vào túi thần giao cho Ngọc Hoàng xử lí.

Ngọc Hoàng đày Phạm Nhĩ xuống trần gian nhưng cắt đôi cánh đi để khỏi bay về trời làm loạn, đồng thời hóa phép làm cho tai Phạm Nhĩ, vốn rất thính, nghe được ngàn dặm, phải cụp lại khi tỉnh. Nói chung là làm giảm sức mạnh của ông. Nể lời Phật dạy, Ngọc Hoàng giao cho Phạm Nhĩ làm chúa tể sơn lâm, đời đời gọi là Hổ. Còn việc gọi Hổ là Ông Ba mươi là theo lệ khi có người nào săn được hổ thì được vua thưởng 30 quan tiền vì trừ được tai họa cho dân nhưng đồng thời cũng phạt 30 hèo vì sợ vong hồn Phạm Nhĩ giận mà tác quái.

Ở miền Nam cũng có câu chuyện giải thích nhưng sự việc vào đời Nguyễn với các nhân vật vua Gia Long nhờ hổ mà sống sót, sau này ra lệnh ai bắt được hổ thì thưởng 30 quan nhưng cũng đánh 30 gậy. Vì thế có tên là Ông Ba mươi.

Đó là những câu chuyện dân gian được sưu tầm muộn. Còn có những câu chuyện khác sớm hơn, liên quan đến danh xưng Ông Ba mươi và từ đó, chúng ta có thể giải thích tên gọi này có chiều sâu hơn.

Chúng tôi, bắt đầu từ 1978, khi được giao dạy phần Văn học dân gian các dân tộc ít người ở khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, bài đầu tiên là về tác phẩm “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường, đã tiến hành so sánh tác phẩm này với truyền thuyết dựng nước của người Việt.

Qua so sánh đó, chúng tôi bước đầu nhận ra sự tương hợp giữa các typ, motip khởi nguyên giữa chúng, trong đó có sự tương đồng nhiều mặt giữa truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam chích quái với chương Chặt cây Chu trong sử thi thần thoại Mường, đặc biệt nhận ra rằng, chi tiết đánh Quỷ Xương Cuồng chính là mô típ săn Moong Lồ [săn Hổ lớn] còn được kể ở đây. Từ đó, trong bài giảng của mình, tôi luôn luôn dùng dẫn chứng này khi nói về mối quan hệ Mường Việt trong văn học dân gian.

Năm 2006, khi tiếp cận tác phẩm Lĩnh Nam chích quái với tư cách là một kiểu tự sự trầm tích, trong bài Lĩnh Nam chích quái - Từ điểm nhìn văn hóa [Tạp chí Nghiên cứu Văn học - 2006], chúng tôi có dịp trình bày một số mối tương quan này giữa Mường và Việt, có nhắc tới Mộc tinh [nhưng vì bài dài, chúng tôi phân tích những ví dụ khác điển hình hơn]. Năm 2010, khi đọc bài Tại sao Hổ lại được gọi là ông Ba Mươi của Đặng Tiến in trên trang mạng Người hiếu cổ thì chúng tôi hoàn toàn đồng thuận với ông và coi đó như là những ý kiến tri âm.

Tuy nhiên, với sự dè dặt cần có của nhà khoa học, tác giả Đặng Tiến viết “Đây là giả thuyết, chúng tôi coi như một phát hiện, đưa ra để trao đổi”. Dựa trên việc mô tả hình ảnh Xương Cuồng trong truyện Mộc tinh, tác giả cho rằng “Xương Cuồng là thần cây chiên đàn”, “Lời mô tả gợi ý: Mộc Tinh có thể là thú dữ, chủ yếu là hổ”.

Và với việc truyện Mộc Tinh ghi lại tục tế thần hàng năm, vào ba mươi Tết, phải tế thần Xương Cuồng, tác giả đề xuất: “Thần Xương Cuồng ấy phải chăng là thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hàng năm vào ngày ba mươi Tết? Rồi chăng từ phong tục cổ sơ này, đã có từ thời các vua Hùng, mà con hổ, con cọp được gọi là Ông Ba mươi cho đến ngày nay?”.

Chúng tôi viết bài này “trao đổi” trên tinh thần đồng thuận với tác giả dựa trên những tra cứu của chính mình và góp phần khẳng định giả thuyết trên của bác Đặng Tiến.

Cuối đời Lê, có chuyện Ma Trành [Trành cũng có âm là Xương như đã nói] do Phạm Đình Hổ chép lại [Trành quỷ hiển linh] cũng nói Trành là tinh của người chết vì Hổ, thành Hổ về bắt người ăn thịt cũng đúng như chú giải của Thiều Chửu trong từ điển. Hơn nữa, Phạm Đình Hổ còn nhắc lại ở đây, việc Ma Trành vật chết Nhâm Ngao.

Lĩnh Nam chích quái chép rằng “dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống đến nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là Xương Cuồng”. Thì rõ ràng đây là tục thờ Hổ vào Ba mươi tết. Và vì thế hổ, cọp, khái, hùm… được gọi là Ông Ba mươi.

Tuy nhiên, mọi tục lệ, mọi truyền thuyết đều là những tích hợp. Tục thờ hổ, tục thờ cây, thờ thần rừng có thể có từ thời xa xưa, cái thời mà các sử gia trung đại vẫn xếp chung là thời Hùng Vương. Những lễ mở cửa rừng của người Thái, người Mường và cả người Kinh… thường kèm việc săn thú, lấy thành quả tế lễ và thụ hưởng chung, thường diễn ra vào mùa Xuân.

Sau khi tiếp biến văn hóa Trung Hoa, với tục “khu na” [xua trừ ma quỷ] vào đêm trừ tịch ba mươi Tết [Đốt trúc khu na đắng lỗ tai = Nguyễn Trãi] thì đêm ba mươi, dân đồng rừng, ven núi có thêm tục đốt pháo, khua phèng la, chũm chọe, vung đồng đuổi cọp về. Cái cũ và cái mới hòa đồng trong thời lịch hội nhập để tạo nên phong tục dân gian.

Vậy, Ông Ba mươi với tên gọi trại do tín ngưỡng để gọi hổ, cọp, khái, hùm… có chứng tích ghi chép sớm nhất là từ Lĩnh Nam chích quái, một tác phẩm khởi thảo từ thời Trần, biên soạn lại từ thời Lê và tu bổ san định cho đến thời Nguyễn. Đến nay, đây là ý kiến khả tin nhất.

Video liên quan

Chủ Đề