Thâm hụt ngân sách là tốt hay xấu

Thâm hụt ngân sách [tiếng Anh: Budget deficit] là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước vượt quá các nguồn thu ngân sách Nhà nước.

Hình minh họa. Nguồn: Investopedia

Định nghĩa

Thâm hụt ngân sách trong tiếng Anh gọi là Budget deficit. Thâm hụt ngân sách Nhà nước là tình trạng chi tiêu vượt quá nguồn thu ngân sách Nhà nước, phần chênh lệch gọi là thâm hụt ngân sách Nhà nước.

Các thuật ngữ liên quan

Ngân sách Nhà nước là tổng các kế hoạch hàng năm về chi tiêu và thu nhập của Chính phủ.

Thặng dư ngân sách Nhà nước là khi tất cả các loại thuế và các nguồn thu khác lớn hơn chi tiêu chính phủ trong một năm.

Ngân sách cân bằng khi số thu và số chi của chính phủ bằng nhau trong một giai đoạn nhất định.

Nợ chính phủ [nợ công] là tổng những khoản vay hay tổng các khoản nợ tồn của chính phủ. Nợ trong nước là nợ của chính phủ một nước đối với công dân của nước đó. Nợ nước ngoài là nợ của chính phủ đối với người nước ngoài.

Cách xác định

Nếu ta kí hiệu T là thu ngân sách Nhà nước, G là chi tiêu của chính phủ, B là hiệu số giữa thu ngân sách Nhà nước và chi ngân sách Nhà nước thì ta có:

B = G - T

B < 0: Thặng dư ngân sách Nhà nước

B = 0: Ngân sách Nhà nước cân bằng

B > 0: Thâm hụt ngân sách Nhà nước

Tùy vào tình hình kinh tế và các sự kiện khác nhau, thu và chi thực tế có thể lớn hoặc nhỏ hơn so với dự kiến. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì chính phủ phải đi vay công chúng để trả cho những khoản nợ của mình.

Ý nghĩa

Các lí thuyết kinh tế học hiện đại cho rằng: NSNN không nhất thiết lúc nào cũng phải thăng bằng. Vấn đề là quản lí thu chi sao cho ngân sách không bị thâm hụt quá lớn và kéo dài.

Khi nền kinh tế vận động theo chu kì thì chính chu kì kinh doanh tác động không nhỏ đến thâm hụt ngân sách Nhà nước. Thường thì thu ngân sách Nhà nước tăng lên trong thời kì nền kinh tế phồn thịnh [giai đoạn mở rộng] và giảm đi trong thời kì suy thoái.

Ngược lại chi ngân sách Nhà nước tăng trong thời kì suy thoái và giảm trong thời kì phồn thịnh. Chính vì vậy mà thâm hụt ngân sách Nhà nước càng trầm trọng trong thời kì suy thoái, bất chấp mọi cố gắng của chính phủ.

Phân biệt

Để hiểu sâu hơn về vấn đề thâm hụt, chúng ta cần phân biệt các khái niệm sau:

[1] Thâm hụt ngân sách thực tế: là thâm hụt khi số chi vượt quá số thu thực tế trong một thời kì nhất định.

[2] Thâm hụt ngân sách cơ cấu: là thâm hụt tính toán trong trường hợp nếu nền kinh tế đang hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.

[3] Thâm hụt ngân sách chu kì: là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng chu kì kinh doanh. Thâm hụt chu kì bằng hiệu số của thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu.

Trong ba loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của chính sách tài khóa như: định ra thuế suất, các chương trình thanh toán chuyển nhượng. Vì vậy, để đánh giá kết quả của chính sách tài khóa người ta sử dụng thâm hụt này.

[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính]

Minh Lan

Bội chi NSNN năm 2021 ở mức 4% GDP

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, Bộ Tài chính đã điều hành linh hoạt chính sách tài khóa, hỗ trợ tăng trưởng và đảm bảo nguồn chi cho công tác phòng, chống dịch. Tổng số tiền thuế và thu ngân sách Nhà nước [NSNN] đã gia hạn, miễn, giảm theo các chính sách đã ban hành thực hiện năm 2020 đạt khoảng 129.000 tỷ đồng. Năm 2021, tiếp tục thực hiện một số chính sách đã ban hành trong năm 2020 và ban hành thêm nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế và các khoản thu NSNN để hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh tháo gỡ khó khăn, với quy mô dự kiến khoảng 140.000 tỷ đồng. 

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Minh Tân, Phó Vụ trưởng Vụ Ngân sách Nhà nước [NSNN], Bộ Tài chính, hiện dư địa chính sách tài khóa, tiền tệ đã giảm đáng kể. Cụ thể, bội chi NSNN năm 2021 đang phấn đấu ở mức 4% GDP theo dự toán; dự kiến năm 2022 cũng ở mức 4% GDP [tương ứng khoảng 5,1% GDP chưa điều chỉnh], đang tạo áp lực lớn trong việc cân đối NSNN các năm tới để đảm bảo mức bội chi ngân sách bình quân giai đoạn 2021 - 2025 trong phạm vi 3,7% GDP theo Văn kiện Đại hội Đảng XIII và Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia, vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.

Đến ngày 31/10/2021, số tiền thuế, tiền thuê đất, phí và lệ phí được miễn, giảm, gia hạn đạt khoảng 96.900 tỷ đồng. [Ảnh minh họa: KT]

Bên cạnh đó, thu NSNN khó khăn cũng là một thách thức trong thời gian tới. Điều này có nguyên nhân một mặt do tác động của dịch Covid -19 là nghiêm trọng và có thể kéo dài, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng đòi hỏi phải có thời gian để kinh tế phục hồi [IMF dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 thấp hơn năm 2021]; mặt khác do việc tiếp tục thực hiện miễn, giảm, giãn một số chính sách thu để hỗ trợ nền kinh tế. Trong khi đó, nhu cầu chi phòng, chống dịch bệnh lớn, nên áp lực gia tăng đối với cân đối NSNN, nhất là ngân sách trung ương…

Dư địa mở rộng chính sách tài khóa còn khá lớn

Tuy nhiên, theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính, chính sách tài khóa của Việt Nam gần 2 năm qua được thể hiện qua việc tăng cường kỷ luật tài khóa, kiểm soát thâm hụt NSNN và nợ công. Theo đó, thâm hụt ngân sách/GDP, nợ công/GDP, nợ chính phủ/GDP năm 2020 lần lượt ở mức 3,5%, 43,5% và 38,6% [theo GDP điều chỉnh]. Cùng với đó, tăng cường các gói hỗ trợ tài khóa cùng với các gói hỗ trợ tiền tệ [miễn giảm, gia hạn thuế TNDN, TNCN, thuế GTGT, thuế sử dụng đất nông nghiệp, phí trước bạ ôtô sản xuất trong nước, tiền thuê đất...]

Ông Lực cũng thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, thách thức của chính sách tài khóa thời gian qua như: các gói hỗ trợ tài khóa chưa đủ lớn và rộng; thu ngân sách thiếu bền vững; phối hợp chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác cần tiếp tục cải thiện; kinh tế thế giới và Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn [nợ xấu tiềm ẩn, áp lực lạm phát tăng lên trong khi phải tiếp tục các chương trình phục hồi, gói hỗ trợ, ngân sách còn hạn hẹp...].

TS. Lực nhấn mạnh, có nhiều thách thức đối với chính sách tài khóa trong thời gian tới, một mặt phải đẩy mạnh hỗ trợ nền kinh tế, mặt khác phải kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, dư địa mở rộng chính sách tài khóa còn khá lớn và có phần thuận lợi hơn chính sách tiền tệ.

“Thâm hụt NSNN, nợ công được kiểm soát tốt trong giai đoạn trước, hiện vẫn trong tầm kiểm soát và thấp hơn các nước trong khu vực trong khi cơ hội tăng vay nợ trong nước [qua phát hành trái phiếu Chính phủ] với lãi suất thấp, rủi ro thấp, tạo dư địa gia tăng chi tiêu ngân sách cho phòng, chống dịch và phục hồi kinh tế; quy mô hỗ trợ tài khóa còn khá khiêm tốn; các cân đối lớn [thâm hụt ngân sách/GDP, nợ công/GDP, nghĩa vụ trả nợ/thu NSNN, lạm phát…] vẫn trong ngưỡng an toàn”, TS. Cấn Văn Lực cho biết.

Do đó, ông Lực cho rằng, nên chấp nhận tăng nợ công, thâm hụt ngân sách để bổ sung các gói hỗ trợ; tập trung nhiều vào hỗ trợ tiền mặt, giảm phí/chi phí, bảo lãnh tín dụng, cho vay ưu đãi [hỗ trợ lãi suất] hơn là giãn hoãn thuế, nghĩa vụ trả nợ.

“Chính sách tài khóa cần phải được triển khai nhanh, gọn, hiệu quả trên cơ sở ứng dụng mạnh công nghệ thông tin, dữ liệu, đồng thời, gắn chương trình phục hồi kinh tế với chiến lược phòng, chống dịch bệnh, đề án cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…”, TS. Lực nêu ý kiến.

Cùng với đó, cần triển khai thêm hỗ trợ tài khóa và hỗ trợ khác như: tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng [GTGT], thúc đẩy bảo lãnh vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa [DNNVV] qua các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV tại các địa phương; hỗ trợ 1 phần chi phí đầu vào cho DN [như giảm phí bảo hiểm xã hội, phí công đoàn, hỗ trợ chí phí xét nghiệm, chi phí “3 tại chỗ",...]; đầu tư nâng cao năng lực y tế, thiết lập quỹ phòng chống dịch bệnh, tiến tới có quỹ khẩn cấp quốc gia; xem xét giảm 10% tiền điện, cước viễn thông trong năm 2022; tài trợ [20-30%] cho các dự án nâng cấp đổi mới công nghệ của DN trong một số lĩnh vực ưu tiên…

“Tổng các gói hỗ trợ tài khóa mới ước tính khoảng 400.000 tỷ đồng, trong đó ước thực chi khoảng 240.000 tỷ đồng [tương đương 3% GDP]”, TS. Cấn Văn Lực nói.

Còn theo bà Nguyễn Thị Mùi, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, việc giãn, giảm, miễn thuế Bộ Tài chính thực hiện thời gian qua như thế là đủ rồi. Không nên tiếp tục thực hiện miễn, giảm thuế. Bà Mùi cho rằng, trong điều hành chính sách tài khóa thời gian tới, cần mạnh dạn bội chi ngân sách. Bởi trên thực tế, lạm phát của chúng ta hiện thấp, trần nợ công an toàn và bội chi cũng ở ngưỡng an toàn. Trong bối cảnh đó, tăng chi cho đầu tư phát triển là đúng hướng.

“Tuy nhiên, điều chỉnh tăng bội chi cần phải chú ý khối lượng tiền lưu thông nhiều lên phải phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và tiền tệ; tăng bội chi ngân sách, cái đáng quan tâm đó là năng lực trả nợ của nền kinh tế”, bà Nguyễn Thị Mùi lưu ý./.

Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước [ngân sách chính phủ] lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Thu của chính phủ không bao gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một cách mà chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là một cách tài trợ cho thâm hụt ngân sách, nhưng do hậu quả nghiêm trọng của nó là dẫn đến lạm phát ở mức cao nên ngày nay cách này hầu như không được chính phủ của bất cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Do chính phủ bù đắp cho thâm hụt ngân sách bằng cách đi vay, nên lũy kế các khoản thâm hụt ngân sách chính phủ đến một thời điểm nào đó chính là nợ chính phủ.

Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.

  • Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
  • Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.

Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:

  • Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định [thường là một quý hoặc một năm].
  • Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
  • Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.

Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.

Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế

Xem thêm thông tin: Chính sách tài chính, Nợ chính phủ, và Ngân sách Nhà nước

Samuelson, Paul A. and Nordhaus, Wiliam D. [2007], Kinh tế học, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thâm_hụt_ngân_sách&oldid=64204459”

Video liên quan

Chủ Đề