Thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

I. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự có quy định khác.

1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

a] Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan.

b] Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

a] Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản b dưới đây.

b] Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản a mục 3 không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

– Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

– Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

a] Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản b Điều này.

b] Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

a] Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

b] Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

8. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần

Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

II. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định.

III. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm, kể từ ngày:

a] Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

b] Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c] Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d] Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ] Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

2. Hết thời hiệu quy định mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

3. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

IV. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

3. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

4. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 trên nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Hiện nay, trong thực tiễn xét xử tranh chấp dân sự ở Việt Nam, số lượng các vụ án giải quyết tranh chấp hợp đồng lao động vô hiệu cao gấp nhiều lần so với các vụ án tranh chấp hợp đồng lao động có hiệu lực. Hợp đồng vô hiệu được hiểu đơn giản đó là giữa các bên có hợp đồng nhưng các thỏa thuận trong hợp đồng bị vô hiệu và hợp đồng đó không phát sinh nghĩa vụ với các bên giao kết hợp đồng. Hiểu được bản chất của hợp đồng lao động vô hiệu sẽ giúp doanh nghiệp cũng như các chủ thể là người lao động không bị nhầm lẫn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Đặc biệt là vấn đề thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu vẫn còn có những tranh cãi.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Quy định về tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong Bộ luật dân sự năm 2015:

1.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu:

Trên thực tế và căn cứ theo quy định pháp luật thì chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Một giao dịch dân sự được coi là hợp pháp thì cần phải tuân thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự [trong một số trường hợp cụ thể thì giao dịch đó còn phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức].

Do đó, theo nguyên tắc của pháp luật dân sự thì nếu giao dịch không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì sẽ bị vô hiệu. Hiện nay, những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỉ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lí cho các chủ thể trong quá trình giao lưu dân sự.

Như vậy, theo quy định pháp luật thì một giao dịch dân sự hợp pháp khi đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 trong đó có ba điều kiện bắt buộc đó là về chủ thể, nội dung và mục đích. Đối với điều kiện về hình thức của giao dịch, điều kiện này chỉ đặt ra khi pháp luật có quy định. Khi giao dịch dân sự không đáp ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể bị vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể trong giao dịch.

Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu được hiểu là giao dịch không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015.

Như vậy, theo quy định luật, giao dịch dân sự chỉ cần không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực do luật định đã có thể bị vô hiệu. Chính bởi vì thế mà một giao dịch dân sự có thể vô hiệu do vi phạm một điều kiện hoặc bị vô hiệu do vi phạm đồng thời nhiều điều kiện có hiệu lực do luật định.

1.2. Quy định về tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015 với một số nội dung sau đây:

Xem thêm: Tuyên bố doanh nghiệp phá sản theo quy định mới nhất

– Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu được áp dụng cho hợp đồng vô hiệu theo Điều 407 Bộ luật dân sự năm 2015. Chính vì thế mà đối với hợp đồng vô hiệu thì cũng phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Một số bản án cần tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà lại tuyên hủy hợp đồng vô hiệu là không đúng vì việc hủy hợp đồng hay chấm dứt hợp đồng là chế tài dành cho tranh chấp hợp đồng có hiệu lực.

– Thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

Theo quy định của pháp luật thì thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là Toà án.

– Quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

+ Quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cũng được áp dụng cho hợp đồng vô hiệu. Theo quy định của điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì các giao dịch được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thì:

“Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”.

Do đó, đối với việc xác định thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu thì không phải áp dụng pháp luật ở thời điểm xác lập mà chỉ áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.

+ Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015, trong đó có một quy định rất quan trọng đó là:

Xem thêm: Tuyên bố mất tích là gì? Tuyên bố mất tích theo Bộ luật Dân sự?

“Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”.

Như vậy, một hợp đồng chỉ vô hiệu về hình thức, sau hai năm kể từ ngày giao kết không có yêu cầu tuyên bố vô hiệu thì sẽ có hiệu lực mà không cần phải tiếp tục hoàn thiện về hình thức. Chỉ có hai trường hợp quy định ở khoản 3 Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự không bị hạn chế, đó là trường hợp vô hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015 và trường hợp vô hiệu do có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015.

1.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:

Như đã phân tích ở trên, về nguyên tắc chung, giao dịch dân sự khi bị tuyên bố vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập.

Các bên khi giao dịch dân sự khi bị tuyên bố vô hiệu sẽ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu [hoàn nguyên] như khi chưa xác lập giao dịch, cho nên nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện giao dịch đó. Nếu giao dịch đã được thực hiện toàn bộ hay một phần thì các bên không được tiếp tục thực hiện giao dịch và phải hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận của nhau. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại sẽ có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015.

Thời hạn các chủ thể yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập đối với các giao dịch dân sự được xác lập do các chủ thể là người không đủ năng lực hành vi, do nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối, do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức. Còn đối với những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế.

2. Quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu:

Theo Điều 51 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu có nội dung như sau:

“1. Thanh tra lao động, Tòa án nhân dân có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

2. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thanh tra lao động tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.”

Xem thêm: Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định mới

Như vậy, Bộ luật lao động năm 2012 quy định thanh tra lao động, Tòa án nhân dân có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Tuy nhiên, Bộ luật lao động năm 2019 ra đời thay thế cho thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu không đưa ra quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Do vậy, thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành. Về bản chất, hợp đồng lao động là một giao dịch dân sự. Chính vì thế mà Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Các chủ thể là người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động, cơ quan nhà nước có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu khi có căn cứ theo quy định của pháp luật lao động. Sau khi Tòa án có thẩm quyền thụ lí đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, Tòa án sẽ có trách nhiệm gửi thông báo thụ lí cho người có đơn yêu cầu, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động và viện kiểm sát cùng cấp.

Theo quy định của pháp luật thì thời hạn chuẩn bị xét xử tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu là mười ngày kể từ ngày Tòa án thụ lí đơn yêu cầu của các cá nhân, tổ chức có yêu cầu. Trong thời hạn này, nếu các chủ thể là người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn, văn bản yêu cầu.

Cũng theo quy định của pháp luật hiện hành, thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án sẽ phải mở phiên họp để xét yêu cầu tuyên bố họp đồng lao động vô hiệu. Trong trường hợp nếu cơ quan có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán ra quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Trong quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu, Tòa án sẽ phải giải quyết hậu quả pháp lí của việc tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu phải gửi đến cho các chủ thể là người có đơn hoặc văn bản yêu cầu, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động và cơ quan quản lí nhà nước về lao động nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính, cơ quan quản lí nhà nước về lao động cùng cấp trong trường hợp có liên quan đến doanh nghiệp không có trụ sở chính tại Việt Nam theo quy định cụ thể tại Điều 401 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 402 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Video liên quan

Chủ Đề