Tiền giấy xuất hiện đầu tiên ở nước nào

Tiền [money] là tài sản được chấp nhận rộng rãi làm phương tiện trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các tài sản hiện vật khác được định giá bằng tiền và trao đổi nhau thông qua việc sử dụng tiền làm ước số chung, nghĩa là mọi thứ [hiện có, nhưng không có nhu cầu], được đổi ra tiền, sau đó mới được đổi sang thứ khác chứ không trao đổi trực tiếp như hình thức trao đổi hiện vật.

Việc sử dụng tiền làm phương tiện thanh toán cho phép nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn, vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên môn hóa trong sản xuất, giảm bớt thời gian và nỗ lực mà người bán và người mua phải sử dụng để tiến hành trao đổi với nhau [tức giảm thời gian và chi phí giao dịch].

Các chức năng quan trọng khác của tiền là phương tiện cất giữ giá trị hay sức mua - tức tiền có thể giữ trong một thời gian và sử dụng để thanh toán các khoản mua hàng tương lai - và đơn vị tính toán, tức tiền được sử dụng để tính toán và ghi chép giá trị của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong một thời kỳ, chẳng hạn GDP.

[Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân]

Nguồn gốc và lịch sử của tiền

Ngày nay, chúng ta sử dụng cả tiền xu và tiền giấy, nhưng thực tế không phải lúc nào cũng vậy. Trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy có mặt, con người đã sử dụng nhiều thứ khác thường để mua thứ họ cần.

Chẳng hạn, ở một nơi nọ trên thế giới, người ta sử dụng răng cá mập như là tiền. Ở nhiều nơi khác, tiền có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Có nơi người ta còn dùng cọng lông cứng trên đuôi voi để làm tiền. Lông chim là loại tiền nhẹ nhất từ trước đến nay. Chúng được sử dụng trên đảo Santa Cruz. Đá là loại tiền nặng nhất từ trước đền giờ. Chúng được sử dụng trên đảo Yap ở Thái Bình Dương. Có hòn nặng trên 500 cân Anh [1 cân Anh = 0,4536 kg].

Loại tiền nhỏ nhất từ trước đến nay được phát hiện ở Hy Lạp. Tiền được làm bằng kim loại, nhưng có kích thước nhỏ hơn hạt táo. Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại quý như vàng và bạc để tạo tiền xu. Họ in hình người hoặc [con] thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt.

Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng. Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên chính phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến ngân hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát hành và sử dụng tiền giấy.

Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau như tiền giấy hiện đang được lưu hành ở Việt Nam. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn. Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể xác định được giá trị của chúng. Tất cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ trở thành một công cuộc nghiên cứu lý thú.

Tiền Việt Nam được phát hành lần đầu tiên vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Thời phong kiến, hầu như cứ mỗi đời vua lại cho phát hành loại tiền mới. Có khi, mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại tiền mới khác. Tiền giấy được xem là xuất hiện ở Việt Nam khá sớm so với thế giới, vào năm 1396.

Chất liệu tiền giấy Việt Nam

Tiền giấy hay tiền cotton không phải được làm từ loại giấy thông thường vì khả năng hấp thụ nước dễ dàng, nhanh hỏng. Thay vào đó, người ta sẽ sử dụng khoảng 80% cotton [hay sợi bông], đôi khi được trộn cùng với sợi dệt để làm nên tiền giấy.

Chất liệu tiền giấy Việt Nam

Tiền Polymer mà chúng ta sử dụng chủ yếu ngày nay cũng là một dạng tiền giấy. Cấu tạo tờ tiền Polymer gồm 3 lớp: lớp phim, lớp giấy nền, phủ mờ và vecni. Hiện nay, tiền polymer được xem là loại tiền duy nhất có yếu tố chống giả đặc trưng sử dụng công nghệ cao để cài hình ẩn.

Tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Ít ai biết rằng, những tờ tiền giấy mà chúng ta lưu giữ trong ví hay dùng để chi tiêu hằng ngày lại có một lịch sử hết sức thú vị.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tôc, tiền giấy Việt Nam đã trải qua những “thăng trầm” và biến động lớn.

Đồng tiền giấy đầu tiên – “Thông bảo hội sao”

Đây được xem là đồng tiền giấy Việt Nam đầu tiên trong lịch sử, ra đời thời nhà Hồ, do Hồ Quý Ly phát hành năm 1396. Tuy nhiên, thời điểm bấy giờ điều kiện kinh tế xã hội chưa phù hợp nên chính sách tiền giấy đã bị thất bại.

Giấy bạc Đông Dương

Nếu không kể đến tờ tiền giấy “Thông bảo hội sao” thất bại của Hồ Quý Ly phía trên thì đây được xem là tờ tiền đầu tiên của Việt Nam. Đến khi Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp, giấy bạc Đông Dương ra đời và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954 với mệnh giá 100 đồng bạc. Trên mặt tiền có in hình 3 thiếu nữ mặc trang phục truyền thống thể hiện tình hữu nghị 3 nước Lào, Campuchia và Việt Nam.

Giấy bạc Đông Dương được xem là tờ tiền đầu tiên của Việt Nam

Giấy bạc Cụ Hồ

Sau thành công của cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, tiền đồng cũng chính thức được in và lưu hành để khẳng định chủ quyền của dân tộc tự do. Bắt đầu từ thời điểm đó cho đến nay, chúng ta đã trải qua 7 lần thay đổi tiền cả về hình thức, chất liệu đến mệnh giá. Trước khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời, trên mỗi mặt trước của tờ tiền đều in dòng chữ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau của tờ tiền in hình giai cấp Nông – Công – Binh. Các con số ghi mệnh giá đều được dùng số Ả- Rập hoặc bằng chữ Hán, Lào, Campuchia. Người Việt Nam thời bấy giờ luôn gọi tiền giấy là “giấy bạc Cụ Hồ”.

Mệnh giá tiền thời kỳ này gồm giấy bạc 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng.

Giấy bạc Cụ Hồ sau Cách mạng Tháng tám năm 1945

Đồng tiền giấy Ngân hàng Quốc gia

Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam miền bắc. Đây là đơn vị chính thức nhận các nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý dòng tiền, kho bạc, kiêm thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, đồng thời phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.

Từ đó tiền giấy do Ngân hàng quốc gia Việt Nam phát hành chính thức được đưa vào sử dụng và bắt đầu công cuộc đổi tiền. Dùng 1 đồng đến ngân hàng để đổi 10 đồng tài chính [đồng Cụ Hồ] nhằm thu hồi loại tiền cũ và lưu thông hoàn toàn tiền giấy mới. Đồng tiền giấy này có nhiều mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1000, 5000. Hình thức tiền ngân hàng khá giống với đồng tiền cũ trước đây và chỉ thay đổi về các bức hình in ở mặt sau cũng như màu sắc ở mỗi mệnh giá tiền.

Đặc biệt, với sự thay đổi ngoạn mục từ tháng 2 năm 1959 đến tháng 10 năm 1960, tỉ giá 1 đồng Ngân hàng Quốc gia đổi được 1.36 rúp [Liên Xô] và tương đương với 1.2 USD [Mỹ].

Vào năm 1958, tại miền bắc đồng tiền Ngân hàng Quốc gia được tiếp tục đổi và cũng trong giai đoạn này nạn in tiền giả bắt đầu xuất hiện trên thị trường.

Đồng tiền giấy Ngân hàng Quốc gia

Tiền đồng những năm 1975

Giai đoạn từ 1954 đến 1975, nước ta bị phân chia thành hai miền Nam – Bắc, mỗi miền lại sở hữu một loại tiền riêng nhưng đều gọi chung là “tiền đồng”. Cũng trong thời kỳ này, Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức chuyên in tiền giả nên trên tờ bạc 200 phải ghi thêm dòng chữ nhằm mục đích răn đe “Hình phạt khổ sai những kẻ nào giả mạo giấy bạc do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành ra”.

Tờ bạc 200 đồng năm 1975

Tiền giải phóng sau năm 1975

Sau khi giải phóng đất nước ngày 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam bị mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, sau khi đất nước ổn định và thống nhất về tài chính, tiền Việt Nam tiếp tục được thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng đổi được 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi được 8 hào thống nhất. Đồng thời nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, và 100 đồng.

Đồng tiền giải phóng sau năm 1975

Tiền đồng những năm 1985

Năm 1985, đứng trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế và tình hình khan hiếm nghiêm trọng tiền mặt trong thanh toán, Nhà nước đã công bố đổi tiền theo tỉ lệ 10 đồng thống nhất đổi lấy 1 đồng tiền mới phục vụ cho cuộc cách mạng về giá cả và tiền lương. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã ban hành các loại tiền 10, 20, và 50 đồng.

Tiền đồng năm 1985

Tiền giấy thế kỷ XX

Năm 1990 các tờ tiền giấy cotton có mệnh giá 10.000 và 20.000 được phát hành, tờ 50.000 được in từ 15/10/1994 còn tờ 100.000 từ ngày 1/9/2000. Trong khi đó, tiền xu có một vài năm xuất hiện trên thị trường nhưng do không phù hợp với phong cách tiêu tiền của người Việt Nam nên nhanh chóng trở thành loại vật dụng lưu niệm.

Tiền giấy thế kỷ XX

Tiền polymer hiện tại

Hiện nay trên thế giới đã có 23 nước lưu hành đồng tiền in trên chất liệu polymer, trong đó có 3 nước sử dụng toàn bộ tiền polymer trong hệ thống tiền tệ; một số nước dùng tiền giấy polymer cho một vài mệnh giá; 6 nước hiện đang thử nghiệm tiền polymer dưới hình thức tờ tiền lưu niệm.

Năm 2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tờ tiền polymer có giá trị lưu hành song song với các đồng tiền cũ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ về mặt cơ cấu mệnh giá [thêm loại tiền có mệnh giá lớn], chủng loại.

Tiền polymer có nhiều ưu điểm vượt trội như: khó làm giả, độ bền cao, không thấm nước, thích hợp để sử dụng trong các thiết bị hiện đại như ATM, máy đếm tiền.

Kể từ khi tiền polymer được đưa vào lưu hành, bắt đầu từ ngày 1/9/2007, tiền giấy mệnh giá 50.000 và 100.000 đã hết giá trị lưu hành và từ ngày 1/1/2013, các loại tiền cotton mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng cũng đã ngừng sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay trên thị trường chỉ còn các tờ tiền giấy mệnh giá nhỏ dưới 5.000 đồng [1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng …] còn giá trị lưu hành tại Việt Nam.

Tiền Polymer hiện tại

Kết luận

Giống như quá trình hình thành và phát triển của những đồng tiền khác trên thế giới, tiền giấy Việt Nam cũng đã trải qua những thăng trầm cùng lịch sử của đất nước. Hi vọng với những kiến thức mà 3Gang cung cấp phía trên, chúng ta sẽ hiểu hơn về tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ, qua đó hiểu rõ hơn và biết trân trọng những đồng tiền được làm ra từ chính sức lao động của mình.

Dòng tiền đầu tiền của Việt Nam xuất hiện khi nào?

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh cho phép in và phát hành giấy bạc Việt Nam [còn gọi là giấy bạc tài chính] để thay thế tiền giấy Đông Dương ngân hàng.

Ai là người đầu tiền phát minh ra tiền?

Hóa ra, loại tiền giấy ra đời đầu tiên trên thế giới là “giao tử” do người Trung Quốc phát minh ra và nguyên liệu làm ra nó chính là lá cây dâu tằm. Người phát minh ra "giao tử" chính là Trương Vịnh, được mệnh danh là một Thần Nhân.

Việt Nam sử dụng tiền giấy từ khi nào?

Lịch sử ra đời tiền giấy Việt Nam Thời phong kiến, hầu như cứ mỗi đời vua lại cho phát hành loại tiền mới. Có khi, mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại tiền mới khác. Tiền giấy được xem là xuất hiện ở Việt Nam khá sớm so với thế giới, vào năm 1396.

Thế nào là tiền giấy bắt khá hoàn?

– Tiền giấy bất khả hoán là thứ tiền giấy bắt buộc lưu hành, mọi người không thể đem tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.

Chủ Đề