Tiểu luận vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam

1. Sáng tạo lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc là đã tìm ra con đường và mục tiêu giải phóng dân tộc Việt Nam vào thời điểm đất nước đang đắm chìm trong nô lệ và trước sự bế tắc của các phong trào yêu nước. Mục tiêu cách mạng được nêu lên trong Chính cương vắn tắt là “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Để thực hiện mục tiêu đó, nhiệm vụ đề ra là phải có kế hoạch thực hiện việc thống nhất và thành lập tổ chức cách mạng để lãnh đạo, đó là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng [tháng 10/1930] đã thông qua “Luận cương chính trị” trong đó nêu rõ: “Làm cách mạng dân quyền tiến lên cách mạng vô sản… bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là mục tiêu chiến đấu của dân tộc ta. Trên con đường đi đến mục tiêu đó nhân dân ta đã trải qua biết bao chông gai thử thách, nhưng với bản lĩnh cách mạng và tư duy độc lập sáng tạo Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua tất cả để giành độc lập và vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đã có lúc đứng trước nguy cơ sống còn, chính quyền cách mạng “treo đầu sợi tóc”; đã có lúc “thà hy sinh tất cả”, nhưng vì mục tiêu độc lập dân tộc nhân dân ta đã không sợ hy sinh chiến đấu và chiến thắng; đã có lúc hệ thống xã hội chủ nghĩa và Liên Xô thành trì tan rã, nước ta bị bao vây cấm vận và đứng trước khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, nhưng kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã thể hiện sự bình tĩnh và sáng suốt đề ra đường lối đổi mới, tiếp tục đi theo con đường đã chọn. Có thể nói đường lối đổi mới của Đảng là một đóng góp quan trọng vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học mang tính thời đại.

2. Lý thuyết đổi mới thực sự là sự vận dụng sáng tạo với tư duy độc lập trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Đó là sự kết tinh của nhu cầu nội tại trong nước với xu thế phát triển của thời đại. Đổi mới thực sự là công cuộc giải phóng mình khỏi tư duy cũ về nhận thức, về hành động cũng như về mô hình của chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời nhằm thoát khỏi cơ chế bao cấp trì trệ, để đổi lại nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội như nó cần phải có, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng đã nhận thức được đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước, nhưng đổi mới không thể đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa. Đổi mới là tìm ra mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nhân loại phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Khi nhấn mạnh việc tuân thủ những quy luật phổ biến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã cân nhắc đặc điểm của dân tộc để xác lập hình thức, bước đi cụ thể trên cơ sở những đặc trưng cơ bản về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế diễn ra phức tạp. Đó là nét cơ bản nhất làm nên giá trị thời đại của lý thuyết đổi mới ở Việt Nam.

Thực tế 30 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết đổi mới. Đó là đổi mới nhưng phải giữ vững ổn định chính trị. Ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết của sự đổi mới và phát triển. Quá trình thực hiện đổi mới là quá trình tìm tòi để phát triển, quá trình phát huy dân chủ để có sáng tạo, nhưng phải kiên định mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước gắn với chăm lo hạnh phúc cho con người. Mục tiêu này phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội, của thế giới hiện nay. Đó là sự hài hoà giữa nhu cầu của con người với thiên nhiên, với cộng đồng, giữa lợi ích của từng dân tộc với các dân tộc. Chính vì vậy mở cửa và hội nhập đã trở thành một trong những vấn đề cơ bản của lý thuyết đổi mới ở Việt Nam. Đó cũng là quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang và sẽ tiếp tục tiến hành trong quá trình đổi mới.

3. Trước tình hình trong nước cũng như quốc tế đang diễn ra phức tạp, trong quá trình đổi mới đã xuất hiện nhiều quan điểm sai trái đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Lý thuyết đổi mới của Đảng bao hàm một hệ thống mở, với các luận điểm luôn phát triển và với phương pháp luận biện chứng, nhưng điều “bất biến” cần phải giữ đó là không để chệch hướng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề ở chỗ là xử lý mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo với kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, chứ không phải đổi mới để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Việc khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình tìm tòi cũng như tổ chức thực hiện sự nghiệp đổi mới không đồng nghĩa với việc để mất phương hướng và rời bỏ nguyên tắc, đây là mối quan hệ nghiệt ngã mà nếu không kiên định vững vàng thì sẽ chuốc lấy hậu quả nghiêm trọng đó là mất ổn định chính trị và dẫn đến mất luôn chế độ. Sự kiên định chính là giữ vững, kế thừa và bảo vệ các nguyên tắc lí luận và phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên tắc đã trở thành chân lý phổ biến mà Đảng ta đang vận dụng vào sự nghiệp đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô hình xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng, rồi bổ sung phát triển thành 8 đặc trưng mà vẫn chưa dừng lại, cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển. Nhưng sự bổ sung và phát triển không thể tách rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, không thể tách rời hiện thực của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Nói cách khác, đổi mới chính là một tiến trình thúc đẩy sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách phù hợp và hiệu quả chứ không phải giáo điều, rập khuôn, hay thực dụng, cơ hội, đều đã phải trả giá từ thực tế cải tổ đi đến sụp đổ và đánh mất chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu!

Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá trình tìm tòi và phát triển. Qua mỗi giai đoạn, từng chặng đường đều kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm thành công và chưa thành công để phát huy, để bổ cứu, để vượt qua. Có thể nói chúng ta đã chủ động vừa làm vừa rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, bổ sung, điều chỉnh kịp thời nhằm đưa đất nước phát triển đúng hướng và mang lại hiệu quả cao. Càng ở vào những thời điểm khó khăn, càng độc lập sáng tạo và bám sát cuộc sống sinh động trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; càng thận trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân. Thực tế đã chứng minh phương châm xuyên suốt đối với những quyết sách chính trị và tổ chức thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng là hợp quy luật và hợp lòng dân. Nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong lí luận đổi mới là kế thừa, phát huy những thành quả, những bài học đã qua, phát huy truyền thống và sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam với tinh thần độc lập, sáng tạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ độc lập dân tộc.

4. Sự nghiệp đổi mới phải gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, then chốt nhất, tập trung nhất của việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là một tất yếu lịch sử, một đòi hỏi có tính quyết định đến sự tồn vong của chế độ ta trong thời đại ngày nay. Sở dĩ nói như vậy bởi các thế lực thù địch luôn âm mưu phá hoại nền tảng chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, phá hoại sự đoàn kết thống nhất của Đảng từ bên trong và mối quan hệ giữa Đảng với dân, hòng làm cho Đảng ta suy yếu đi đến tan rã. Họ lợi dụng các diễn đàn dân chủ, tìm cách tuyên truyền, phát tán các tài liệu bằng các thủ đoạn “mềm” và “hiểm” gây hoang mang dao động, đòi đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập hòng tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, với ý đồ đưa đất nước và chế độ ta vào thảm họa diệt vong bắt đầu từ việc lật đổ Đảng. Khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không chỉ là vấn đề thuộc về nguyên tắc của lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn là kết luận được rút ra từ tình cảm sâu nặng và lý trí sáng suốt theo dòng lịch sử của dân tộc ta. Để giữ vững và phát huy được vai trò lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng thì Đảng phải tiến hành tự đổi mới và tự chỉnh đốn mình, xem đây là vấn đề cốt lõi của công cuộc đổi mới. Bên cạnh sự nỗ lực rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, học tập toàn diện để nâng cao kiến thức, cần nghiêm túc tự phê bình những non kém, tiêu cực, ngăn chặn những mầm họa khủng hoảng từ trong Đảng đó là sự thoái hóa về chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên làm ảnh hưởng đến niềm tin, đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng như nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI đã nêu ra.

Tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và Đại hội lần thứ XII của Đảng, để tiếp tục khẳng định và giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cần hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức dẫn dắt đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn trong sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và tổ chức thực hiện.

TS. Đặng Duy Báu

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những bước ngoặt lịch sử

[ĐCSVN] - Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới.

Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII



1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.

Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1]. Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độclập"[2].

Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời [2/9/1945] mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"[3].

3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng [10/5 - 19/5/1941] đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng [7/1945], Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"[4].

Ngay sau ngày giành được độc lập [02/9/1945], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miềnNamvẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội"[5]. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng ViệtNam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam.Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại.Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.

Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới,Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ8 phương hướng cơ bảnđểtoàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện:Một là,đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Hai là,phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Ba là,xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Bốn là,bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.Năm là,thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.Sáu là,xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.Bảy là,xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.Tám là,xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước./.

-------------------------------------

[1]Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 314.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 2.

[3]Hồ Chí MinhToàn tập, tập 10,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr9.

[4]Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1977, tr 203.

[5]Hồ Chí MinhToàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 248-249.

Ban Xây dựng Đảng

Video liên quan

Chủ Đề