Tự nhân vật lão Hạc hay bán về lòng tự trọng trong cuộc sống

Giải thích các bước giải: Nam Cao là một nhà văn rất có tài trong việc dựng chân dung nhân vật. Đặc biệt là người nông dân, trong đó nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một ví dụ tiêu biểu. Khi phân tích truyện ngắn này có người đã nhận xét rất đúng là: lão Hạc đáng kính bởi đó là một con người có một nhân cách đẹp. Nhân cách đẹp này ở lão được Nam Cao thể hiện ở ba khía cạnh: nhân hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc sống của lão Hạc cũng nghèo khổ như cuộc sống của bao người nông dân khác trong xã hội bấy giờ. Lão rất hiền lành thật thà và chăm chỉ, những phẩm chất này được nhà văn miêu tả suốt câu chuyện, khi là lời tâm sự của lão với ông giáo về nỗi nhớ con, về nỗi ân hận vì đã bán con Vàng, khi là chuyện lão tần tảo, dành dụm, chắt bóp từng tí một để dành tiền cho con... Nhưng tấm lòng nhân hậu của lão được biểu hiện cảm dộng nhất là ở việc lão chăm sóc con Vàng như chăm sóc một đứa trẻ. Lão ăn gì cũng cho con Vàng ăn và cho nó ăn bằng bát. “Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ”. Lão bắt rận rồi tắm cho nó, mắng yêu nó. Lão cưng chiều con Vàng như cưng chiều một đứa trẻ yêu: “lão vội nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó...”. Chính vì yêu con Vàng mà lão cứ đắn đo mãi chưa muốn bán nó. Bán rồi, lão khóc vì thương nó: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”. Lão ân hận vì đã trót lừa một con chó: “Khi ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Đọc đến đây chúng ta càng thương lão Hạc hơn, thương vì lão quá nghèo, càng kính trọng lão Hạc hơn, kính trọng vì lão thật nhân ái.

Không những thế, lão Hạc còn là một người rất giàu lòng tự trọng. Cuộc sống của lão quá cùng quẫn: “... lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai bữa ốc”. Nhưng không phải vì thế mà lão hạ thấp nhân cách mình để xin xỏ ai. Lão chịu nghèo nhưng không chịu hèn, không chịu hèn đến mức hơi cố chấp: “Lão từ chối tất cả những cái gì tôi (tức nhân vật “ông giáo”) cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch”. Lão không muốn phiền lụy đến ai, đến ngay cả sau khi mình chết. Lão đã lo xa dành dụm ít tiền rồi gửi ông giáo lo chuyện ma chay, kẻo “để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt”. Láng giềng của lão - Binh Tư, làm nghề ăn trộm nên không ưa lão vì “lão lương thiện quá”. Lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, không phải để bẫy chó như Binh Tư hiểu, mà để tự mình tìm đến cái chết. Lão chết để được làm “con người đáng kính” chứ không chịu sống hèn mà “theo gót Binh Tư để có ăn...”.

Phẩm chất đẹp nhất của lão Hạc có lẽ là ở tình thương vô bờ đối với con. Lão hiểu và thương con vì nhà nghèo quá mà không lấy được vợ. Thằng con lão định bán vườn. Lão không dám xẵng chỉ nhẹ nhàng khuyên giải. “Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này để dùi giắng lại ít lâu xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu...”. Con lão nghe lời lão nhưng “có vẻ buồn”, lão càng thương con hơn. Con lão phẫn chí “xin đi làm đồn điền”, lão chỉ biết khóc trong nỗi xót xa. Lời kể của lão không còn là lời kể thông thường mà là tiếng nói của con tim người cha đau đớn vì mất con: “Tôi chỉ còn biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa. Thẻ của nó người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi?...”. Con lão đi xa, lão tính từng ngày. Lão “thổ lộ” nỗi nhớ con với con Vàng: “Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về. Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy...”, cả đời lão tằn tiện chắt chịu là để vun vén cho con Lão “bòn vườn” là cũng để cho con: “Cái vườn là của con ta... lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để cho ta ăn đâu!... Ta làm vườn của nó, cũng nên để ra cho nó...”. Lão đi làm thuê kiếm ăn chứ quyết không ăn lạm vào tiền vườn của con. Thế rồi, đói kém, bão lụt, ốm đau, lão không có việc làm. Một mình lão với con Vàng cứ “đói deo đói dắt”. Lão phải bán con Vàng vì “bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu”. Để không phải đụng một chút nào đến số tiền của con, để mảnh vườn cho con vẫn nguyên vẹn, lão Hạc đã tự mình tìm đến cái chết.

Cái chết thương tâm của lão Hạc cứ ám ảnh người đọc về một số phận người nông dân bị bần cùng hóa trong xã hội bế tắc ngày xưa. Nhưng cũng chính cái chết của lão Hạc lại làm người ta tin vào sự trường tồn vĩnh cửu của tình người, mà ở đây là tình cha con sâu nặng. Lão Hạc tiêu biểu cho phẩm chất người nông dần Việt Nam: nhân hậu, giàu tình thương và đức hi sinh.

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Xem chi tiết

Nếu ai đã đọc truyện ngắn Lão Hặc của Nam Cao, dù chỉ một lần, cũng không khỏi bị ám ảnh bởi cái chết đầy thương tâm của nhân vật lão Hạc. Hình ảnh lão Hạc vật vã trong cái chết đau đớn, dữ dội cứ xoáy vào tâm trí người đọc, gợi lên trong lòng họ bao nỗi niềm trăn trở, day dứt khôn nguôi. Sinh rồi tử là quy luật muôn đời của tạo hóa, nào ai tránh được, âu đó cũng là chuyện bình thường. Trong cuộc sống của nhân loại, mỗi ngày có biết bao con người từ giã cõi đời để trở về nơi cát bụi! Phần lớn sự ra đi của họ là phù hợp với quy luật sinh tử của nhân gian. Song cuộc đời đâu chỉ là chuỗi êm đềm và phẳng lặng. Cuộc đời còn đầy đau thương và sóng gió, nên cũng có không ít những cái chết thương tâm. Đứng trước những cái chết bất bình thường, trái tim nhân hậu của các nhà văn không khỏi bùi ngùi thương xót. Dòng lệ trong tim nhà văn chảy xuống ngòi bút thành những trang văn nấc nở nghẹn ngào. Nam Cao cũng vậy. Trong những sáng tác của ông, ta bắt gặp không ít những cái chết đau thương khiến ta nhức nhối. Từ cái chết của một lão già tự treo cổ mình, lưỡi thè ra ngoài (Lang Rận), đến cái chết lênh láng máu của Chí Phèo (Chí Phèo), từ cái chết bội thực sau một bữa no của một bà lão nhịn ăn đã lâu ngày (Một bữa no), đến cái chết vật vã: "đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc" của Lão Hạc. Tại sao họ khốn khổ đến như vậy? Sống không yên mà chết cũng chẳng bình thường! Ta hãy đọc lại đoạn văn Nam Cao mô tả cái chết của lão Hạc: "Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình đến như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu". Đâu phải chỉ có ông giáo và Binh Tư mới hiểu vì sao lão Hạc lại chết đau đớn và bất thình lình như vậy. Chúng ta cũng hiểu. Nhưng tại sao lão Hạc phải tự mình tìm đến cái chết? Phải chăng lão Hạc đã tuyệt vọng với cuộc đời, phải tự mình giải thoát cho mình? Lật giở lại những trang văn của truyện ngắn Lão Hạc, ta càng thấm thía điều đó. Cả đời lão Hạc chưa một lần sung sướng. Cả kiếp người lam lũ, cực nhọc, nghèo khổ, lão cũng chẳng dám kêu ca, phàn nàn, chỉ ngậm ngùi: kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn. Sau cả một chuỗi ngày dài cay đắng và bất hạnh, lão Hạc đã thực sự lâm vào cảnh cùng đường, không còn kế sinh nhai. Cái chết mà lão phải lựa chọn là tất điều tất yếu. Chính cuộc đời và xã hội đã xô đẩy lão tới cái chết. Vì thế cái chết của lão Hạc có ý nghĩa phê phán và phủ nhận xã hội một cách sâu sắc. Một câu hỏi nữa lại đặt ra trong óc người đọc: nhưng tại sao lão Hạc lại phải chết khi trong tay có tới những 30 đồng bạc và ba sào vườn bán được giá? Phải chăng vì lão gàn dở và ngu ngốc? Không! Lão Hạc không ngu ngốc, càng không gàn dở! Cái chết của lão Hạc xuất phát từ lòng tự trọng của một người cha, của một con người, từ trái tim đầy cao thượng, và đức hi sinh của lão. Là một con người sớm từng trải, có suy nghĩ nội tâm sâu xa, hơn ai hết, lão Hạc hiểu rất rõ giá trị của 30 đồng bạc mà mình đã chắt chiu dành dụm kia: ăn mãi hết đi thì đến lúc chết thì lấy gì mà lo liệu? Sống, lão đã không muốn phiền lụy đến mọi người, thì chết lão không thể làm phiền lụy đến họ. Có thể có những suy nghĩ ở người này, người khác: Ôi dào, cần gì phải lo xa, chết hãy hay, hoặc chết là hết, còn biết gì đâu mà cần. Lão Hạc không nghĩ như vậy, lão hiểu rõ cái tình của người Việt Nam: Nghĩa tử là nghĩa tận. Lão biết là dù lão chẳng có đến một xu thì khi lão nằm xuống, bà con chòm xóm vẫn lo liệu cho lão chu đáo. Mà họ nào có giàu có gì, họ cũng nghèo khổ như lão. Lão không thể cho phép mình là gánh nặng cho mọi người. Chao ôi, sự tự trọng và tấm lòng vị tha, cao thượng của một con người, sao mà đẹp thế, xúc động đến thế! Vậy còn ba sào vườn? Đó là tấm lòng, là tình cảm của người vợ quá cố dành cho con. Đó cũng là ước nguyện và tình yêu của lão đối với con. Lão không thể xâm phạm. Lòng tự trọng và đức hi sinh của người cha đã đưa lão đến một quyết định hệ trọng: Chọn cái chết để giữ được mảnh vườn cho con. Tấm lòng ấy của lão đã tác động mạnh mẽ đến nhân vật ông giáo, trở thành một lời hứa thiêng liêng: Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào… Lão Hạc vẫn có thể còn một kế sinh nhai khác là theo gót Binh Tư để kiếm ăn". Liệu một người trong sạch và lương thiện như lão Hạc có thể bán linh hồn của mình cho quỷ dữ để có miếng ăn? Là một người có bản tính trong sạch và lương thiện, lại rất tự trọng, lão Hạc hiểu rõ miếng ăn là miếng nhục. Lão thà chết chứ không chịu sống mà tiếng xấu để đời. Càng suy ngẫm, ta càng hiểu rõ quả thực lão Hạc không còn giải pháp nào khác ngoài việc phải lựa chọn cái chết. Cái chết ấy làm ngời lên bao phẩm chất của một con người đáng kính. Tưởng như không còn cần bàn thêm gì cái chết của lão Hạc. Nhưng chúng ta cũng nên đặt thêm một câu hỏi nhỏ: Tại sao lão Hạc không chọn cái chết nhẹ nhàng hơn, lặng lẽ hơn? Phải chăng lão muốn chọn một cái chết đau đớn và dữ dội để tự trừng phạt mình vì đã trót lừa một con chó? Rất có thể như vậy. Thêm một lần nữa ta hiểu thêm về tấm lòng nhân hậu của lão Hạc. Lão Hạc đã chết! Một cuộc đời đã kết thúc, khép lại bao lo buồn, đau khổ! Nhưng trang văn của Nam Cao chẳng bao giờ khép lại, mà cứ mở ra trong tâm hồn bạn đọc bao trăn trở, suy ngẫm về con người, về cuộc đời.