Vì sao việt nam có thể sản xuất nông nghiệp quanh năm, nhiều vụ trong 1 năm ?

Mục lục

Lịch sửSửa đổi

Nông thôn Việt Nam: Chuồng bò tại vùng đồng bằng sông Cửu Long
Cấy lúa
Dùng trâu cày ruộng tại Mai Châu
Một cảnh thôn quê
Vườn ươm cây giống tại Cái Mơn, tỉnh Bến Tre
Cánh đồng lúa chín ở Mường Lò, Nghĩa Lộ, Yên Bái
Cau được trồng bên đường ở phường Thường Thạnh, thuộc quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
Ruộng bậc thang Mù Cang Chải ở xã Cao Phạ bên đèo Khau Phạ

Sản xuất nông nghiệp, là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất đối với sự phát triển của Việt Nam, nhiều biến đổi thăng trầm từ những năm tháng thống nhất đất nước vào năm 1975. Sự tăng trưởng mạnh được ghi nhận vào năm 1976—tăng đến 10% so với năm 1975—nhưng sản xuất lại giảm khoảng đến còn 95% trong những năm 1976, 1977 và 1978 và sự phục hồi đáng kể trong năm 1979.[9]

Trồng trọt và chăn nuôi đã bù đắp lại sự thiếu hụt của nông nghiệp trong thời kỳ này. Ví dụ, khoảng 8% tăng trong sản lượng gia súc trong năm 1977 làm cân bằng 8% sụt giảm của sản lượng cây trồng [chủ yếu là kết quả của 1 triệu tấn sụt gạo giảm trong các vụ mùa]. Trong năm 1978 kết quả đã đảo ngược: hiện tượng sản lượng gia súc sụt giảm mạnh đi với dấu hiệu sản lượng của thóc lúa bắt đầu tăng. Giá trị sản lượng cây trồng đã vượt hơn gấp bốn lần so với sản lượng gia súc lúc bấy giờ.[9]

Trên hết vấn đề khó khăn nhất đối với ngành nông nghiệp Việt Nam là thời tiết thất thường, như trận hạn hán diễn ra năm 1977 và những trận bão và lũ lụt trong những năm 1978. Trận hạn hán làm lượng nước vượt quá tiêu chuẩn cần thiết cây trồng, điều đó làm chúng chết dần. Và thêm những trận lũ lụt giảm số lượng gia súc xuống tới 20%. Các thống kê của Việt Nam không được công bố rộng rãi về báo cáo số lượng gia súc giảm cho với mục tiêu chỉ định đặt ra những năm 1978 và 1980. Qua những kế hoạch sai lầm nghiêm trọng vào khoảng cuối năm 1970s đã làm chậm và suy giảm ngành nông nghiệp. Và còn vấn đề phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, và một số dụng cụ cơ khí vẫn còn thiếu ở Việt Nam.[9]

Bỏ mặc sự thiếu lương thực lẫn vật liệu trong những thời kỳ đầu chính phủ vẫn quyết định thi hành những chính sách đã dự kiến, với niềm hy vọng sản xuất lương thực đủ để dùng [đủ lương thực cho cần thiết cho mỗi người] không được khả thi cho lắm trong những thập niên 1980. Năm 1980, dự kiến sẽ đạt khoảng trên 15 tấn nhưng không quá 21 triệu tấn, nhưng sản lượng đã không đạt được như mong muốn.[9]

Chính sách nông nghiệp được công bố từ năm 1976 đến 1980 đã có những kết quả tốt, xấu. Dựa trên tiêu chuẩn khuyến khích trồng trọt thêm những loại cây lương thực có năng suất cao như [cà chua, sắn, đậu, và bắp] dẫn tới số lượng tăng trưởng thấp hơn 10% trong năm 1975 và tiếp tục tăng đến thêm 20% vào cuối thập niên 1970. Những kế hoạch khuyến khích nông nhân trong những năm 1978 và 1979 bao gồm cố gắng tăng số lượng người tiêu dùng vật phẩm trong các vùng nông thôn và cố gắng năng giá thành. Chính phủ đã thi hành chính sách bằng cách lập nhiều hợp đồng hứa hẹn chắc chắn có lợi nhuận cho những người tham gia sản xuất đầu tư nông nghiệp. Tuy nhiên, các quan chức cao không có khả năng và còn thiếu nguồn cung cấp cho nông nghiệp nên chính sách đã bị thất bại.[9]

Kế hoạch được khai triển vào khoảng giữa năm 1977 nhằm xúc tiến sự hợp nhất nông nghiệp Bắc và Nam nhưng đã gặp phải cản trở quyết liệt từ miền Nam. Theo báo cáo về kế hoạch do người dân tự nguyện được thiết kế và được thi hành bởi các chủ tịch địa phương, nhưng nông dân miền Nam chủ yếu là người làm chủ ruộng đồng—nhưng không phải là tá điền—và, bên cạnh đó từ việc lập ra đội sản xuất chung nhằm để chống đối chính sách nhà nước [một ý kiến được nông dân miền Nam chấp nhận ngay lập tức], Họ từ chối hợp tác trong bất cứ kế hoạch hợp tác nào làm không đúng với chủ quyền tài sản.[9]

Thất bại từ việc không thể hợp nhất nông nghiệp dẫn tới phương án mới là dùng vũ lực để cưỡng ép nông dân phải hợp tác. chính sách đó dường như làm phản tác dụng. Vào cuối những năm 1978 và 1979 những nhà lãnh đạo chính quyền đã làm chủ được tình hình nông nghiệp dẫn tới tăng sản lượng còn thiếu.[9]

Trong miền Bắc, dạng làm việc chung [hợp tác] bởi các nông dân đã được hình thành vào khoảng năm 1959 và 1960, và vào năm 1965 khoảng 90% tài sản của nông dân đã trở thành của chung. Năm 1975, hơn 96% tài sản của nông dân đã thuộc về chính quyền nhà nước dùng để chia đều cho người dân, đồng nghĩa nông dân đã đóng góp đất, của cải, đồ dùng, gia súc để có được thu nhập.[9]

Khoảng năm 1976 và 1980, chính sách nông nghiệp ở miền Bắc được thi hành bởi chính quyền mới trong sự nỗ lực làm chủ kế hoạch trồng trọt và nông nghiệp. Sự kiểm soát không chặt chẽ của các chính sách trong những năm chiến tranh đã dẫn tới sự chặt chẽ hơn để nhằm tăng số lượng nhân công để nhận làm các nghĩa vụ khác. Dẫn tới năng suất nhân công giảm. Một người Việt ở nước ngoài khảo sát 10 hợp tác xã sản xuất gạo thì thấy rằng, mặc dù tăng nhân công và diện tích gieo trồng trong những năm 75, 76 và 77, nhưng sản lượng lại giảm trong khi chi phí lại tăng so với những các năm 72 đến 74. Mặc dù không tính đến thời tiết và các yếu tố khác, nhưng những phát hiện trên phù hợp với những kết luận của những người nghiên cứu về những ảnh hưởng của mô hình tập thể hóa ở các quốc gia khác.[9]

Vốn đầu tư từ quốc gia cho nông nghiệp trong năm thứ ba của kế hoạch 5 năm vẫn ở mức độ thấp, và các quận huyện gặp phải khó khăn lớn trong thời gian kế hoạch 5 năm và cho đến những 1986 và 1987. Chỉ có duy nhất thóc tăng 5% hàng năm. Tuy số lượng lương thực đủ để đáp ứng nhu cầu tăng dân số 2,3% trong những năm của thập niên 1980, nó vẫn không đủ để tăng số lượng trung bình tiêu thụ mỗi năm cho từng người là cao hơn nhiều so với số lượng 300 kg. Theo nguồn của chính quyền Việt Nam vào năm 1986 các gia đình nông dân phải cống hiến 80% thu nhập của họ để đổi lấy lương thực họ cần.[9]

Kết luận năm thứ ba trong quá trình kế hoạch 5 năm, sản lượng nông nghiệp vẫn còn thấp hơn mức cần thiết vì thế chính quyền Việt Nam chuyển sang hướng khai thác các tài nguyền khác để hỗ trợ thêm cho công nghiệp. Trong năm 1986, nông nghiệp thu nhập vững ở khoảng 44% của lợi tức quốc gia [số tiền dùng để cho tăng trưởng quốc gia cần gần tới 10%]. Nền nông nghiệp chiếm khoảng 66% nhân công toàn nước—cao hơn những năm 1976 và 1980. Tệ nhất vẫn là sản lượng trung bình mỗi nông nhân [thuộc nông nghiệp] sụt giảm trong thời gian đổi mới, xuống thấp hơn nhiều so với sự tăng trưởng của công nhân [thuộc công nghiệp]. Trong năm 1980, ba nhân công nông nghiệp chỉ nhận được thu nhập từ sản xuất bằng một công nhân và năm 1985 một công nhân sản xuất gấp 6 lần so với nông dân.[9]

Vào tháng 12 năm 1986, Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng Việt Nam, đã nhấn mạnh một trong những vấn đề chính của ngành nông nghiệp Việt Nam trong đoạn diễn văn của ông trong kỳ họp thứ mười hai của quốc hội khóa bảy. Trong khi nhắc tới thành tựu của thủy nghiệp và lâm nghiệp, ông đã lưu ý gần như toàn bộ nông nhân—khoảng 80% của cả ngành nông nghiệp—đã thất bại trong kế hoạch đạt mục tiêu cho năm 1986. Ông đã trách những Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Bộ ngoại thương về thất bại của về việc bảo đảm về vấn đề "nguyên liệu" [Căn bản phải đảm bảo có đủ phân bón và thuốc trừ sâu] cho sự phát triển của nông nghiệp. Ông trách các hệ thống giá cả về sự sản xuất dưới mức cho phép thuộc "cây trồng công nghiệp" xuất khẩu của Việt Nam bao gồm cây đay, đường, đậu phộng, trà, cà phê và cao su. Cấp độ sản lượng bổ sung cho cây trồng và cà chua, bắp, và cây sắn đã bị giảm trong một vài năm, cả hai đều liên quan tới mục tiêu cần đạt tới và cả sản lượng. Điều kì lạ là sản lượng gia súc bao gồm gà, trâu, và heo được chính quyền báo cáo sẽ tiếp tục phát triển thêm để đạt tới mục tiêu, bỏ mặc sự không ổn định giá cả và sự thiếu lương thực cho gia súc.[9]

TTO - Năm 2021 ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn trụ vững và tăng trưởng. Trò chuyện với Tuổi Trẻ về định hướng lớn trong năm mới 2022, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nói:

  • Bộ trưởng Lê Minh Hoan: 'Cửa khẩu không có hạ tầng, khi có sự cố rất rủi ro'
  • Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Sẽ làm nông nghiệp như mô hình Uber, Grab
  • Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Rồi mọi chuyện sẽ qua!

Sơ chế chuối xuất khẩu tại Công ty Hoàng Anh Gia Lai - Ảnh: T.M.

- Trong năm 2021, bối cảnh đại dịch COVID-19, nông nghiệp một lần nữa được xem là "trụ đỡ" khi nền kinh tế rơi vào khó khăn. Tăng trưởng toàn ngành đạt 2,8%; đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 47,5 tỉ USD, vượt xa chỉ tiêu 42,5 tỉ USD.

Thực tế lâu nay nông nghiệp Việt Nam sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát và tư duy ngắn hạn là "lời nguyền" về sự yếu kém của nền nông nghiệp. Phải tổ chức lại sản xuất để vượt qua "lời nguyền" đó.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan

Không thểlàm theo cách cũ

* Mục tiêu tăng gấp đôi thu nhập cho nông dân đã từng được đặt ra nhưng chưa đạt được, vì sao?

- Đó là đầu vào sản xuất nông nghiệp, từ phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và nguyên liệu sản xuất chủ yếu vẫn lệ thuộc vào nhập khẩu. Khi giá cả nguyên liệu đầu vào tăng cao, lợi nhuận của nông dân bị bào mòn, làm giảm giá trị gia tăng cho ngành hàng.

Đó là nông sản có truy xuất nguồn gốc với mã định danh vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi còn chiếm tỉ lệ nhỏ; việc lạm dụng phân thuốc vô cơ vẫn còn phổ biến.

Một lý do khác là nông sản chủ yếu vẫn xuất thô, thiếu hạ tầng logistics phục vụ cho việc phân loại, bảo quản, chế biến từ trong nội địa cho đến cửa khẩu nên rất dễ bị đứt gãy, dẫn đến ùn ứ nông sản khi vào chính vụ hoặc do những quy định mới, khó lường của các quốc gia nhập khẩu.

* Trong một cuộc làm việc với Hội Nông dân Việt Nam mới đây, ông có nêu đề xuất để tăng hiệu quả, tăng thu nhập cho nông dân: cần xây dựng chương trình khởi nghiệp cho họ. Cụ thể ý tưởng thế nào?

- Theo quan niệm truyền thống, nông nghiệp chỉ là trồng trọt, chăn nuôi; làm nông chỉ cần sức khỏe, một ít đồng vốn, một ít kiến thức. Thậm chí nghề nông là bất đắc dĩ khi không chọn được nghề nào khác. Có phải vậy chăng mà nông nghiệp luôn tăng trưởng chậm, năng suất lao động thấp dẫn đến nghề nông là một trong những nghề thu nhập thấp nhất trong xã hội? Và thế là một dòng người lặng lẽ rời làng quê đi tìm kiếm việc làm, dù không chính thức ở các đô thị, trung tâm công nghiệp.

Theo tôi, phải thay đổi. Đã là nghề thì người làm nghề là nông dân phải được đào tạo, cập nhật kiến thức, hướng dẫn kỹ năng. Làm nông còn đem thực phẩm đến nuôi sống mọi người, ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Làm nông tác động đến môi trường tự nhiên, đa dạng sinh học.

Làm nông giỏi không chỉ biết tạo ra sản lượng cao mà còn biết tính đến chi phí, lợi nhuận, biết ứng dụng khoa học công nghệ, biết cách kinh doanh nông sản sao cho tối ưu giá. Như vậy, nông nghiệp phát triển bền vững hay không suy cho cùng cũng phải bắt đầu từ người nông dân.

Trong Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, chúng tôi chính thức đưa việc đào tạo, huấn luyện nông dân vào. Bắt đầu từ các công tác khuyến nông nâng cao năng lực, tri thức cho nông dân trong Chương trình xây dựng nông thôn mới, tổ chức các lớp đào tạo cho hợp tác xã, tiến tới phối hợp tổ chức các chương trình huấn luyện từ xa thông qua các chuyên mục định kỳ, rồi các cuộc thi tìm hiểu kiến thức làm nông hiện đại trên Đài truyền hình quốc gia.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan

Nông nghiệpmô hình Grab

* Có lẽ phải có cách làm rất khác, nông nghiệp thông minh thì nông nghiệp mới thực sự bứt phá được? Ông từng nói Việt Nam phải làm nông nghiệp thông minh, như mô hình Grab?

- Chúng ta đang sống, làm việc trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong một nền kinh tế nối kết và chia sẻ. Uber, Grab kinh doanh vận tải mà không cần đầu tư sở hữu phương tiện, chỉ kết nối với các chủ phương tiện.

Vậy ngoài đầu tư vào nông nghiệp, ngoài tập trung đất đai để gia tăng quy mô, vẫn có cách "tập trung mềm" thông qua mạng kết nối thông minh giữa doanh nghiệp và nông dân. Thật ra đã có những mô hình này trong thực tế thông qua các doanh nghiệp khởi nghiệp rồi. Chúng tôi sẽ tổng kết và nhân rộng trong thời gian tới.

* Tiến tới một nền nông nghiệp thông minh không đơn giản vậy. Đơn giản chuyện làm nông nghiệp sạch nhưng người dân Việt Nam vẫn thường trực nỗi lo ngộ độc. Ông sẽ làm gì để nông sản Việt Nam antoàn hơn?

- Dư lượng thuốc, hóa chất bảo vệ thực vật độc hại trong nông sản không chỉ ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng mà còn làm mất đi hình ảnh đất nước trong thương mại toàn cầu. Sự lo lắng, thậm chí là bức xúc của xã hội là hoàn toàn đúng. Để xây dựng hình ảnh một nền nông nghiệp "minh bạch - trách nhiệm - bền vững", vấn nạn nêu trên phải được xử lý từ gốc.

Cụ thể là phải nâng cao trách nhiệm xã hội, từ các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh vật tư nông nghiệp; nâng cao nhận thức, kiến thức của người nông dân. Phải quyết tâm thúc đẩy để tiến đến tất cả nông sản phải truy xuất được nguồn gốc, có mã định danh vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi, chuẩn hóa và kiểm soát được quy trình sản xuất. Và sẽ phải tăng cường kiểm tra và chế tài, xử phạt nghiêm minh, đủ sức răn đe.

Phải làm"cuộc cách mạng"tổ chức lại sản xuất

* Nhiều chuyên gia cho rằng nhược điểm của ngành nông nghiệp là sản xuất manh mún, nông dân, doanh nghiệp đều mù mờ nhu cầu của thị trường. Và câu chuyện ùn ứ nông sản ở biên giới gần đây là một ví dụ điển hình?

- Đúng vậy. Vì thế tái cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam là tiến trình được xem như "cuộc cách mạng" để tổ chức lại sản xuất, chứ không phải về khoa học công nghệ để tăng năng suất, tăng sản lượng nữa. Nếu không tổ chức lại sản xuất, tất cả chúng ta đều giậm chân tại chỗ vì nó đã đạt đến ngưỡng tăng trưởng rồi.

Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển sắp tới, bộ sẽ chỉ đạo xoay quanh ba vấn đề: hợp tác, liên kết và thị trường. Một là hợp tác giữa những người sản xuất với nhau thông qua hợp tác xã, tổ hợp tác và liên hiệp hợp tác xã; hai là liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp và ba là lấy thị trường để điều chỉnh kinh doanh sản xuất, chứ không phải sản xuất điều chỉnh thị trường. Ba vòng tròn đó là trọng tâm phải đeo đuổi.

Tới đây, bộ cũng sẽ tổ chức các lớp nâng cao năng lực, kỹ năng và kiến thức cho nông dân, chứ không giúp bằng giống nữa. Bởi chỉ có nông dân thay đổi, nông nghiệp mới thay đổi. Khi đó người nông dân mới sống được với nông nghiệp, nông thôn.

Sẽ tăng trách nhiệm người sản xuất

* Về lâu dài, ông có cho rằng Việt Nam phải rà soát, đề xuất điều chỉnh thể chế và thiết chế quản lý an toàn thực phẩm theo chuẩn mực quốc tế nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi quản lý?

- Chúng tôi đang xây dựng "Đề án đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2021 - 2030". Đề án bao gồm đầy đủ các giải pháp về hoàn thiện thể chế, thiết chế quản lý an toàn thực phẩm, quy định về xây dựng định danh mã vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi, truy xuất nguồn gốc; tăng trách nhiệm của người sản xuất, doanh nghiệp; các biện pháp xử lý vi phạm...

Chúng tôi cũng đã có những chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế hỗ trợ đầu tư trang thiết bị kiểm dịch động thực vật, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chuyên trách về an toàn thực phẩm. Trong đề án phát triển thị trường xuất khẩu nông sản sẽ kết hợp chuẩn hóa chất lượng nông sản phù hợp với yêu cầu từng thị trường.

Ông Lê Minh Hoan: Chuẩn hóa sản xuất nông nghiệp theo chuẩn châu Âu

Bộ NN&PTNT đang xây dựng đề án phát triển thị trường nông sản, đặc biệt là trái cây xuất khẩu qua những thị trường tiềm năng để trình Chính phủ. Chúng tôi đã làm việc với các vị đại sứ ở châu Âu, các thương vụ, tham tán ở bên đó để xây dựng đề án chuẩn hóa, đồng bộ quy trình sản xuất nhằm hướng tới xuất khẩu qua thị trường tiềm năng này.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: 'Tôi rất ưu tư khi thu nhập người nông dân chưa tương xứng với tăng trưởng'

TTO - Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh trong năm 2022 và những năm tới, ngành nông nghiệp sẽ giải quyết bài toán nghịch lý tăng trưởng của ngành nông nghiệp chưa tương xứng với thu nhập của người nông dân.

Video liên quan

Chủ Đề