Vũ tán đường là ai

Một người chính trực

               Tô Hiến Thành làm quan triều Lý, nổi tiếng là người chính trực.

               Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành phò tá thái tử Long Cán, con bà thái hậu họ Đỗ, lên ngôi. Nhưng bà Chiêu Linh thái hậu lại muốn lập con mình là Long Xưởng. Bà cho người đem vàng bạc đút lót vợ Tô Hiến Thành để nhờ ông giúp đỡ. Tô Hiến Thành nhất định không nghe, cứ theo di chiếu lập Long Cán làm vua. Đó là vua Lý Cao Tông.

              Phò tá Cao Tông được 4 năm, Tô Hiến Thành lâm bệnh nặng. Quan tham tri chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ trên giường bệnh. Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc nên không mấy khi tới thăm Tô Hiến Thành được.

            Một hôm, Đỗ thái hậu và vua tới thăm ông, hỏi:

- Nếu chẳng may ông mất thì ai sẽ là người thay ông?

Tô Hiến Thành không do dự, đáp:

- Có gián nghị đại phu Trần Trung Tá.

Thái hậu ngạc nhiên hỏi:

- Vũ Tán Đường hết lòng vì ông, sao không tiến cử?

Tô Hiến Thành tâu: 

- Nếu Thái Hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá.

 [theo Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng]

Chính trực: ngay thẳng

Di chiếu: lệnh [viết] của vua truyền lại trước khi mất.

Thái tử: con trai của vua được chọn để nối ngôi cha.

Thái hậu: mẹ vua

Phò tá: theo bên cạnh để giúp đỡ

Tham tri chính sự: chức quan dưới tể tướng, cùng bàn công việc triều đình với tể tướng.

Gián nghị đại phu: chức quan giữ việc can ngăn vua để vua không làm điều trái.

Tiến cử: giới thiệu người có tài có đức để cấp trên cho lựa chọn.

Một người chính trực

               Tô Hiến Thành làm quan triều Lý, nổi tiếng là người chính trực.

               Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành phò tá thái tử Long Cán, con bà thái hậu họ Đỗ, lên ngôi. Nhưng bà Chiêu Linh thái hậu lại muốn lập con mình là Long Xưởng. Bà cho người đem vàng bạc đút lót vợ Tô Hiến Thành để nhờ ông giúp đỡ. Tô Hiến Thành nhất định không nghe, cứ theo di chiếu lập Long Cán làm vua. Đó là vua Lý Cao Tông.

              Phò tá Cao Tông được 4 năm, Tô Hiến Thành lâm bệnh nặng. Quan tham tri chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ trên giường bệnh. Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc nên không mấy khi tới thăm Tô Hiến Thành được.

            Một hôm, Đỗ thái hậu và vua tới thăm ông, hỏi:

- Nếu chẳng may ông mất thì ai sẽ là người thay ông?

Tô Hiến Thành không do dự, đáp:

- Có gián nghị đại phu Trần Trung Tá.

Thái hậu ngạc nhiên hỏi:

- Vũ Tán Đường hết lòng vì ông, sao không tiến cử?

Tô Hiến Thành tâu: 

- Nếu Thái Hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá.

 [theo Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng]

Chính trực: ngay thẳng

Di chiếu: lệnh [viết] của vua truyền lại trước khi mất.

Thái tử: con trai của vua được chọn để nối ngôi cha.

Thái hậu: mẹ vua

Phò tá: theo bên cạnh để giúp đỡ

Tham tri chính sự: chức quan dưới tể tướng, cùng bàn công việc triều đình với tể tướng.

Gián nghị đại phu: chức quan giữ việc can ngăn vua để vua không làm điều trái.

Tiến cử: giới thiệu người có tài có đức để cấp trên cho lựa chọn.

Bài dự thi Tự hào sử Việt

Thái Hậu đến thăm, hỏi “Nhỡ khi trời bắt ông mất thì ta có thể cắt đặt ai thay ông được?". Tô Hiến Thành đã không do dự mà trả lời: "Hãy cử Trần Trung Tá"...

............................................................

Tô Hiến Thành quê ở Ô Diên, nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Ông sống vào khoảng cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIII, dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Ông là người thông minh, cương trực, văn võ song toàn. Chính vì vậy mà được vua tin cậy. Cuộc đời của ông được người đời gọi là ngừơi có “Trái tim trong trắng”*, “Tấm lòng của Thái úy vằng vặc như vầng nhật nguyệt giữa trời” .

Câu 3, kỳ 4 - Giai đọan 1 "Hào khí Bạch Đằng":

“Tóm tắt câu chuyện “Tiến cử nhân tài” nói về danh nhân Tô Hiến Thành. Câu chuyện này gợi cho bạn suy nghĩ gì về việc đánh giá, tuyển chọn và sử dụng nhân tài?”

Trước khi vua Lý Anh Tông băng hà thì vua đã sai người đưa con nhỏ của mình trao vào tay Tô Hiến Thành và nói: “Ta đến lúc biết làm vua thì gặp được ông. Vua tôi chưa làm được bao nhiêu việc để chấn hưng đất nước thì trời lại bắt ta đi… Con nhỏ của ta còn bé, ông hãy vì nó mà giữ giúp ngôi vua cho ta, sau này con ta lớn, trao cho nó!”.

Đáp lại lòng tin của Vua, Tô Hiến Thành nói: “Thần xin đem hết gan óc, lòng thành phò giúp ấu vương để đền ơn lòng tin của bệ hạ…”*.

Tuy nhiên, khi vua mất đi, trong triều đình xảy ra rất nhiều sự tranh chấp. Chiêu Linh Thái Hậu thì muốn lập con của mình là Lý Long Xưởng lên làm vua nên đã sai quân lính đem vàng bạc, châu báu đến hối lộ cho vợ của Tô Hiến Thành. Biết được điều đó, Tô Hiến Thành đã nói với vợ rằng: “Ta là bậc đại thần, nhận lệnh của tiên đế dặn lại giúp bày vua bé, nay lấy của hối lộ mà bỏ vua này, lập vua kia thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng. Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ có vui gì đâu”*.

Trong việc tuyển chọn, sắp xếp các quan vào chức phận cho thỏa đáng thì Tô Hiến Thành đã phân ra làm ba loại người và nhận xét về ưu nhược điểm của từng loại người đó sắp xếp họ vào đúng vị trí và năng lực của mình. Ông khéo chọn những người điềm tĩnh, ôn nhu, đứng đầu các Đài, Viện và các trọng trách, thu hút được người tốt làm theo cho nên công việc trị nước có nhiều thuận lợi.

Khi ông lâm bệnh, Tham chi chính sự lúc đó là Vũ Tán Đường ngày đêm chầu trực, hết mực chăm sóc, hầu hạ bên giường ông, còn quan đại thần Trần Trung Tá lại bận lên biên thùy bàn việc định giới với nước láng giềng nên ít đến thăm, kể cả lúc Tô Hiến Thành sắp mất.

Khi bệnh tình càng nguy kịch, Thái Hậu đến thăm và có ý dò hỏi “Nhỡ khi trời bắt ông mất thì ta có thể cắt đặt ai thay ông được?". Tô Hiến Thành đã không do dự mà trả lời: "Hãy cử Trần Trung Tá". Thái Hậu thấy vậy nói: “Trung Tá mải mê công danh, mà Tán Đường thì ngày đêm bên cạnh ông, sao ông không cất nhắc Tán Đường?". Tô Hiến Thành đáp: “Vì Thái Hậu hỏi người thay tôi thì tôi nói là Trung Tá, chứ nếu nói đến người quên mình, vì bạn, vì nghĩa tình mà chăm sóc nhau, thì tôi phải nói đến Tán Đường trước chứ!".

Câu chuyện không chỉ để lại cho chúng ta bài học về một con người có “Trái tim trong trắng”, một người trung thực, ngay thẳng, vô tư, trong sáng mà còn cho chúng ta một bài học quý giá hơn đó là việc đánh giá, tuyển chọn và sử dụng nhân tài. Việc nhận biết, việc đánh giá, tuyển chọn và sử dụng những nhân tài là rất quan trọng. Phải biết sử dụng, phân công họ làm sao cho đúng với vị trí, với sở trường, khả năng họ có thể. Chỉ có vậy họ mới có điều kiện phát huy hết khả năng của mình và cống hiến một cách tốt nhất cho đất nước.

Lịch sử nghìn năm của dân tộc Việt Nam chính là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Từ những năm tháng Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Nếu Đảng và Bác không không thu hút và sử dụng những nhân tài một cách hợp lý thì khó có thể giành được thắng lợi.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, trong điều kiện “Thế giới phẳng” với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật đòi hỏi đất nước phải có nhiều nhân tài và sử dụng nhân tài một cách hợp lý để có thể tiếp cận được các tiến bộ đó và phát triển đất nước…

VŨ THỊ YẾN[Lớp Lịch sử Việt Nam - Khóa 2005 – 2009, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn TPHCM]

Tô Hiến Thành

Chức vụ

Thái phó Nhà Lý

Nhiệm kỳ1175 – 1179Tiền nhiệmĐỗ Anh VũKế nhiệmĐỗ An Di

Thái phó bình chương quân quốc trọng sự

Thông tin chung

Sinh11 tháng 2 năm 1102
Hạ Mỗ, huyện Vĩnh KhangMất17 tháng 7 năm 1179
Thăng LongDân tộcKinhTôn giáoPhật giáoChaTô TrungMẹNguyễn Thị ĐoanHọc vấnThái học sinh

Tô Hiến Thành [Hán tự: 蘇憲誠, 11 tháng 2 năm 1102 - 17 tháng 7 năm 1179] quê làng Hạ Mỗ nay là xã Hạ Mỗ huyện Đan Phượng, Hà Nội, là quan đại thần phụ chính nhà Lý, phụng sự hai triều vua: Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không phải là tôn thất nhà Lý.

Tiểu sử

Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, Tô Hiến Thành sinh ngày 22 tháng 1 năm Nhâm Ngọ [11 tháng 2 năm 1102] và mất ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Hợi [17 tháng 7 năm 1179]. Ông sinh ra ở xóm Lẻ, hương Ô Diên, huyện Vĩnh Khang, thành Thăng Long, nay là xóm Lẻ, thôn Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, thủ đô Hà Nội].[1] Có giả thuyết cho rằng ông có thể có quan hệ họ hàng với Tô thị, vợ của Đỗ Anh Vũ[2] là nhân vật có quyền nhất trong triều đình đầu thời trị vì của vua Lý Anh Tông.[3] Theo sách "Từ Liêm huyện đăng khoa chí" do Cử nhân Bùi Xuân Nghi biên tập thời Tự Đức thì ông từng đỗ khoa thi Minh kinh bác học [tiến sĩ] khoa Mậu Ngọ [1138] đời vua Lý Thần Tông. Thông tin này cũng được dẫn trong các tài liệu "Bản phủ tiền triều chư danh khoa bi" và bia Văn chỉ huyện Từ Liêm dựng năm Tự Đức thứ 25 [1872].

Trong chính sử, Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu tiên với vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi.[4] Năm 1140, Thân Lợi tự xưng là con trai Lý Nhân Tông và nổi loạn chống vua Lý Anh Tông ở khu vực phía bắc [nay là Thái Nguyên].[5] Quân của Thân Lợi cuối cùng đã bị quân nhà Lý do Đỗ Anh Vũ chỉ huy đánh tan, Thân Lợi bị Tô Hiến Thành bắt và bị chém đầu theo lệnh của Lý Anh Tông tháng 10 năm 1141.[6] Chính Tô Hiến Thành đã khuyên nhà vua tha cho các thành viên tham gia nổi loạn để tỏ lòng nhân ái đối với dân chúng.[7] Sự nghiệp làm tướng võ của Tô Hiến Thành chủ yếu là dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Tiếp nối gương của Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái úy Tô Hiến Thành đã cùng vua Lý Anh Tông đi dẹp loạn các nơi, mở mang bờ cõi thêm về phía Tây bắc. Sự nghiệp võ công của ông chống Chân Lạp xâm lược, chinh phạt Chiêm Thành; làm cho vị thế của quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Anh Tông trở nên lớn mạnh với các nước lân bang và với nhà Tống; buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164.

Đền thờ Tô Hiến Thành.

Sự nghiệp làm quan văn của ông cũng hiển hách không kém, nhưng phần lớn công lao lại tập trung ở giai đoạn cuối đời, khi ông trở thành đại thần phụ chính tài năng và đức độ cuối cùng của nhà Lý. Ở giai đoạn trước đó, công lao lớn nhất của ông là việc ông tổ chức khai hoang lấn biển các vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa và Hà Tĩnh ngày nay, đặc biệt đối với vùng đất ven biển Hải Dương nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội Kiểm hiệu Thái phó bình chương quân quốc trọng sự [Tể tướng]. Khi vua Lý Anh Tông băng hà tháng 7 năm 1175, Hoàng tử trưởng là Lý Long Xưởng hư hỏng, vua có di chiếu lập hoàng tử Lý Long Cán mới có 3 tuổi lên ngôi [tức vua Lý Cao Tông], đã giao cho ông làm phụ chính.

Hoàng hậu - mẹ Lý Long Xưởng - đem mâm vàng đến hối lộ ông, mong ông đổi di chiếu đưa Long Xưởng lên ngôi, nhưng ông kiên quyết từ chối và làm theo sự ủy thác của Tiên đế. Nhưng do tuổi già sức yếu mà thời gian phò trợ ấu chúa của ông không được là bao. Năm 1179 khi vua mới 6 tuổi, thì ông ốm nặng và mất. Trước khi mất ông tiến cử Trần Trung Tá, người có thực tài, thay mình phụ chính nhà vua, mà nhất quyết không tiến cử Vũ Tán Đường người hầu cận bên mình. Mặc dù người đương thời ví Tô Hiến Thành như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Trung Quốc[8], triều đình sau đó đã không nghe theo lời ông cho Trần Trung Tá làm Thái phó phụ chính cho vua, dẫn đến sau này vua Cao Tông không được dạy bảo điều hành chính sự mà chỉ lo ăn chơi, nhà Lý đi vào suy vong.

Các công trình gắn liền với tên tuổi của Tô Hiến Thành

  • Tô Hiến Thành được thờ ở rất nhiều nơi tại miền Bắc. Như tại các di tích đền Thánh Tô, đình Trùng Hạ, đình Vân Thị, đình Trùng Thượng thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình; đền Đông thuộc xã Đồng Môn, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; miếu Mây thuộc xã Lưu Vĩnh Sơn, Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Riêng ở Thanh Hóa, trước đây có 72 đền thờ Tô Hiến Thành, trong số đó đền thờ tại làng Cẩm Đới [thuộc tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, còn hiện nay thuộc làng Chánh Lộc, Hà Giang, Hà Trung] được xem là nơi chính với tên gọi “Đền chính từ Cẩm Đới”.[9] Ông được vua Lý Anh Tông thưởng điền trang tại trang Viên Lang, lộ Hải Đông nay là xã Việt Tiến, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Khi ông mất được xây đền thờ tại đây và được nhân dân vinh danh là Thành hoàng làng Viên Lang, Cổ Am, Lạng Am,... huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
  • Tên ông được đặt cho các đường phố và trường học ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang và một số thành phố khác trên cả nước.

Chú thích

  1. ^ “Tô Hiến Thành”. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam.
  2. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 140.Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 [trợ giúp]
  3. ^ Keith Weller Taylor, John K. Whitmore [1995]. Essays into Vietnamese pasts, Volume 19. SEAP Publications. tr. 70. ISBN 0877277184.
  4. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 136.Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 [trợ giúp]
  5. ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 45–46.Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFTrần_Trọng_Kim1971 [trợ giúp]
  6. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 135–137.Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 [trợ giúp]
  7. ^ National Bureau for Historical Record 1998, tr. 165.Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNational_Bureau_for_Historical_Record1998 [trợ giúp]
  8. ^ Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, Nhà Xuất bản Thanh Niên 2005.
  9. ^ “Đệ Nhất Chính Cẩm Đới”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015.

^_^

Xem thêm

  • Quân sự nhà Lý
  • Doãn Tử Tư

Bài viết nhân vật quân sự Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tô_Hiến_Thành&oldid=68508281”

Video liên quan

Chủ Đề