Bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trong bài thơ Tây Tiến được miêu tả ở những vẻ đẹp nào

Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên thật đẹp với đầy đủ sức thái đan xen: vừa nên thơ, nên mộng vừa hùng tráng, hiểm nguy. Bức tranh này được hiện lên rõ nét qua nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Những kí ức tươi đẹp về thiên nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của một thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng thể hiện trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.

Quang Dũng sinh năm 1921 –  mất năm 1988, tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây [nay là huyện Đan Phượng – Hà Nội].

Trước cách mạng tháng Tám Quang Dũng học ban Trung học ở trường Thăng Long rồi sau cách mạng tháng Tám, ông tham gia quân đội. Cách mạng tháng Tám thành công ông ông trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu. Năm 1947 ông đi học bổ túc trung cấp quân sự tại Sơn Tây sau đó ông làm Đại đội trưởng tại tiểu đoàn 212 Trung đoàn 52 Tây Tiến. Từ sau năm 1954 ông làm biên tập viên của bão Văn nghệ và sau đó trở thành biên tập viên của Nhà xuất bản Văn học.

Bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng được in trong tập “Mây đầu ô” [1986], tên bài thơ còn là tên của một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với quân đội Lào chống lại quân thực dân Pháp.

Đoàn quân Tây Tiến chủ yếu là các chiến sĩ người Hà Nội, phần đông là học sinh sinh viên như nhà thơ Quang Dũng. Những chiến sĩ chiến đấu khắp các địa bàn Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Sầm Nứa [Lào], trong hoàn cảnh rất khó khăn gian khổ, thiếu thốn và nguy hiểm bởi bệnh sốt rét hoành hành. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn rất lạc quan và dũng cảm chiến đấu. Vào cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, xa đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, sau này ông đổi thành “Tây Tiến”.

Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hiện lên trong tác phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội lại rất diễm lệ và trữ tình. Cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Tiến chính là việc phân tích những nét đẹp đó về núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. 

Qua những vần thơ mà Quang Dũng thể hiện, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến được tái hiện với những nét vẽ vừa hùng vĩ, vừa dữ dội. Mỗi một địa danh xuất hiện trên trang viết lại mang tính chất rất đặc trưng.

 “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn hiện lên với hình ảnh Sài Khao, Mường Lát với “sương lấp”, “đêm hơi” đã gợi ra sự bất lợi của điều kiện thiên nhiên. Phải sống và làm việc trong địa hình lúc nào cũng có sương phủ, hơi lạnh ắt hẳn người lính cũng phải chịu rất nhiều những khổ cực, gian nan. Động từ “lấp” đã cho thấy sự lấn lướt con người của màn sương nơi đây cũng như cho thấy được cái khó khăn cái lạnh giá nơi núi rừng. 

Những khổ cực, gian nan ấy cứ kéo dài từ ngày này qua tháng đã làm cho những vất vả mà “đoàn quân mỏi” thêm phần nặng nề, khó khăn hơn nữa. Không chỉ gặp khó khăn điều kiện thời tiết mà chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến cũng rất trắc trở, gập ghềnh:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Câu thơ có sự xuất hiện của điệp từ “dốc” đã tạo nên cảm giác trúc trắc, vời vợi của chặng đường phía trước mà những người chiến sĩ phải vượt qua. Không những vậy, những khó khăn, trở ngại ấy lại như được tiếp nối khi địa hình được miêu tả với các đặc tính “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”. Đây là những từ láy tượng hình có kết cấu nhiều thanh trắc đã đặc tả sự hiểm trở của bước đường hành quân. 

Con đường ấy không chỉ vừa cao vừa hun hút mà còn hiu hắt và vắng lặng đến vô cùng. Từ “ngàn thước”< /i> được lặp lại hai lần cùng với cặp từ tương phản  “lên”“xuống”. Cùng với nhịp thơ 4/3 đã khiến cho độ cao, độ sâu của địa hình thêm đậm nét. Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn hiện lên qua hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” vừa gợi được độ cao của con dốc vừa gợi được cái tinh nghịch trẻ trung của người lính Tây Tiến. 

Đứng trước độ cao của con dốc phóng tầm nhìn chẳng thấy gì ngoài mây trắng che phủ nhưng người lính không cảm thấy sợ hãi cũng không thấy mệt mỏi mà họ vẫn có thể nhìn thiên nhiên bằng con mắt yêu đời. Người lính hành quân vừa phải trải qua những đoạn đường trúc trắc, đứt gãy mà còn đối mặt với sự hiểm nguy, rợn ngợp của núi rừng và thú dữ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Sự hùng mĩ mà đầy dữ dội của bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn thể hiện qua sự rình rập của cọp dữ, tiếng gầm thét của thác cao như muốn góp thêm phần mình vào những trở ngại để thử thách lòng dũng cảm của người lính. Nhưng dưới sự dữ dội có ẩn chứa những bất trắc như thế, người lính dù quả cảm đến như thế nào thì cũng có lúc họ đã trở nên đuối sức rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Hình ảnh nhân hóa kết hợp với vòng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy sự khó khăn lặp đi lặp lại như một điều quen thuộc với người lính tây tiến. Và góp phần tạo được nhạc điệu cho dòng thơ, diễn tả được cái âm thanh của núi rừng bạt ngàn.

Thế nhưng, khi chứng kiến sự ra đi của những người anh hùng áo lính, núi sông Tây Bắc trong phút tiễn đưa các anh dù vẫn hùng thiêng, dữ dội nhưng lại gây một sự xúc động lớn lao trong lòng người vì tiếng thét gầm vang dội:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Có thể thấy sự ra đi của người chiến sĩ đã có sức rung động lớn lao đến thiên nhiên tạo vật. Rõ ràng, trong trí nhớ của những người lính, Tây Bắc là vùng đất có thiên nhiên rất đỗi kì vĩ, tráng lệ và gắn liền với từng chặng đường hành quân của các anh. Những gì các anh từng trải qua, những điều các anh từng cố gắng đều in dấu lên các sườn dốc, nẻo đường của vùng đất ấy….

Thế nên, có lẽ đối với các anh, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến nơi đây dù không ít lần thử thách lòng dũng cảm, sự kiên nhẫn bởi sự hùng vĩ, dữ dội nhưng có lẽ nó cũng đỡ trở thành người bạn đường đồng hành cùng người chiến sĩ trong công tác chiến đấu. Do vậy, khi một trong số những “người bạn” của mình không may phải hi sinh thì vạn vật cũng tiếc thương khôn xiết.

Viết “Tây Tiến”, Quang Dũng đồng thời đã phác họa nên trước mắt người đọc bức tranh về thiên nhiên của vùng đất này. Trong bức tranh ấy, có những đường nét mạnh mẽ, dữ dội như đã nói ở phần trên nhưng cũng có khi, thiên nhiên xuất hiện với vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Dòng thơ như vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh bao la rộng lớn của núi rừng. Không gian ấy như bị bủa vây bởi cơn mưa ngút trời. Nhưng nét độc đáo ở đây là cơn mưa ấy không gợi lên một không khí u ám mệt mỏi hay nặng nề hoang vắng mà ngược lại là một cảm giác thơ mộng, ấm áp. Bởi sự xuất hiện của hình ảnh “nhà”. 

Mái nhà hiện lên trong tầm mắt của người chiến sĩ khi anh phóng tầm mắt ra khơi. Mái nhà ấy gợi biết bao nhiêu tình cảm. Đó chính là điểm tựa là động lực để người lính Tây Tiến chiến đấu – chiến đấu để bảo vệ những mái nhà hạnh phúc ấm êm. Đại từ “ai” càng khiến cho hình ảnh ngôi nhà như chìm sâu vào mộng ảo. Câu thơ toàn thanh bằng như một hơi thở nhẹ nhàng của người lính. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã đủ tiếp sức cho người lính trên bước đường hành quân mệt mỏi này.

 “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Nếu như trước đó, những câu thơ gợi nên sự trắc trở, gập ghềnh của chặng đường hành quân thì những câu thơ này đã làm thiên nhiên Tây Bắc như thơ mộng hơn khi nó xuất hiện cùng với hình ảnh bữa cơm ấm nồng nghi ngút khói, nếp xôi thơm lừng cả xóm thôn. 

Chính những hình ảnh đó đã tạo ra không gian thật gần gũi, quen thuộc của cuộc sống giữa tình thân với những bữa cơm đầm ấm mà mỗi người lính Tây Tiến đã từng có nơi quê nhà. Đặc biệt, khi đưa tầm mắt ra xa để thấy thấp thoáng bóng dáng “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thì người chiến sĩ như tìm được cho mình điểm tựa để được vỗ về, an ủi sau biết bao những mỏi mệt, gian lao đã trải qua. 

Không gian, cảnh vật trong bức tranh thiên nhiên Tây Tiến bỗng chốc đáng
yêu đến vô cùng, thậm chí có thể giúp những người lính trẻ bộc lộ nét hóm hỉnh, tếu táo đùa vui: núi cao
“heo hút cồn mây” vời vợi là thế, khiến các anh vất vả là thế nhưng chẳng phải đã tạo ra hình ảnh “súng ngửi trời” rất thú vị đó sao? 

Chính sự lạc quan, vui vẻ, xem thường những trở ngại, khó khăn trong hành trình hành quân đã khiến người lính Tây Tiến như đứng ở vị thế làm chủ thiên nhiên. Bước đường hành quân có lẽ vì vậy mà cũng vơi dần nhọc nhằn, vất vả.

Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến mang đặc trưng của vùng núi rừng hùng vĩ, tráng lệ, cũng có khi trữ tình, nhẹ nhàng và đã có lúc như chất chứa biết bao nỗi niềm, tâm tình của người lính với sự thơ mộng khiến con người lưu luyến, vấn vương:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Bốn câu thơ vừa cho thấy nét thơ, vừa thể hiện chất họa của một miền sông nước Tây Bắc mà cảm giác gợi lên trong lòng người những cảm giác mênh mang, huyền ảo vì được chứng kiến một xứ sở tuyệt đẹp như trong cổ tích thuở xưa. Ba từ “chiều sương ấy” đã gợi lên không gian bao la, rộng lớn và gợi lên một thời khắc đã qua. Trong không gian và thời gian ấy, cảnh vật như cũng có linh hồn riêng của nó [“hồn lau”] và con người thì xuất hiện thật duyên dáng trên chiếc “độc mộc” xinh xinh. 

Thêm vào đó, hình ảnh dòng nước có hoa trôi rất tình tứ trong trạng thái “đong đưa” như làm dịu đi tính chất mạnh mẽ, ào ạt củ dòng nước lũ đổ về. Chỉ với vài nét chấm phá đơn sơ, cảnh vật và con người đã ẩn hiện trong màn sương của núi rừng Tây Bắc. 

Nhà thơ không chỉ cố gắng làm hiện lên trước mắt người đọc cái vẻ huyền ảo của thiên nhiên, sự quyến rũ của con người mà còn tạo nên nỗi ám ảnh trong lòng người đọc bởi cái hồn của cảnh ấy và người ấy. Cách lặp từ linh hoạt “có thấy”, “có nhớ” cũng góp phần làm cho nỗi nhớ mênh mang và cảm giác ấn tượng thêm sâu sắc trong lòng người. Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên Tây Bắc ta còn thấy vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của mảnh đất nơi đây dường như được khảm sâu và vang vọng vào lòng người bằng những câu thơ với nhiều thanh bằng như xoa dịu đi những gian khó, nhọc nhằn, vất vả.

Bài thơ “Tây Tiến” đã cho người đọc hình dung về một bức tranh tuyệt đẹp giữa ý chí, lòng quyết tâm của những người chiến sĩ Tây Tiến và sự hùng vĩ, trữ tình của thiên nhiên nơi đây. Những ấn tượng về bức tranh thiên nhiên Tây Tiến và hình ảnh con người được tạo nên trong những vần thơ của Quang Dũng đã cho thấy sự thành công của tác giả về phương diện nghệ thuật. 

Đó là việc nhà thơ đã sử dụng ngòi bút tả thực, không hề né tránh những mất mát, hi sinh cùng bút pháp lãng mạn, bay bổng. Bên cạnh đó, sự linh hoạt trong giọng thơ [khi trang trong, đau thương, lúc nhẹ nhàng, bay bổng] cùng với nhiều phép tu từ đặc sắc [đặc biệt là phép nói giảm nói tránh] đã tạo nên dấu ấn khó phai khi nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến”.

“Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân cha ông, gặp lại chín năm gian khổ”. Những giai điệu trong bài hát Hành quân lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn một lần đưa ta ngược về thời gian, vượt qua khoảng cách không gian về với núi rừng Tây Bắc của một thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn chương nói chung và văn học thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có vị trí đặc biệt. Đọc Tây Tiến người ta không chỉ thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính mà còn ấn tượng sâu sắc về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.

Tây Tiến [1948] là nét son đẹp nhất trong đời thơ Quang Dũng. Bài thơ hiện ra như một sự hoà điệu đẹp đẽ giữa thơ – nhạc – hoạ.

Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ về một vùng đất một thời trận mạc. Vậy nên, khi nhắc đên địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của quá khứ hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ nhoè giữa hai không gian: không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Bởi thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh ấy xâm chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng “  Quang Dũng -trôi’ về một vùng đất đẹp đẽ, dữ dội và mộng mơ, đằm thắm.

Bao   trùm  nền    cảnh  Tây   Bắc là         vẻ hùng vĩ  dữ dội, hiểm trở. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những bản mường xa lạ được nhắc đến với bao kỉ niệm yêu thương.

Quang Dũng là một trong những nhà thơ đã dùng thơ để gợi nhớ trong hồn người những địa danh, những tên làng, tên bản, tên núi, tên sông của

quê hương đất nưỏc vối bao ý vị đậm đà.   Ông   không trao  nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm danh từng tên cụ thể: sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… và sự mặt của các địa danh này lập tức gợi ra ý niệm về sự cách trở, hoang sơ.  Những địa danh đã gắn bó vơi đầy với tác giả và đi sâu vào tâm thức nhà thơ. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong biển sương mù dày đặc, trong màn đêm hơi núi, gió rét căm căm của chốn “thâm sơn cùng cốc”. Sương lấp đường đi, lấp dáng người trong mờ mịt. Những nẻo đường hành quân chiến đấu như kéo dài vô tận:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Ba câu thơ là một minh chưng tiêu biểu cho quan niệm “thi trung hữu hoạ”,  bởi những hình ảnh trong bức tranh thơ này được vẽ lên bằng những đường nét có sức khái quát lốn và mang tính đặc trưng cao. Nó đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong tâm trí người đọc vẻ trùng điệp, hoang vu, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Cao hơn những màn sương che lấp bóng dáng đoàn quân đang vượt dốc, vây bọc lấy những bản làng trong hơi lạnh là những đỉnh núi gập ghềnh, hiểm trở cao ngàn thước có mây phủ kín bốn mùa. Lên tới đỉnh, đầu người lính và mũi súng tưởng như chạm vào trời cao: “súng ngửi trời’

Dưới chân họ lại là những vực sâu thăm thẳm ngàn thước. Câu thơ như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân, diễn tả rất đạt sự chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Với câu thơ có nhịp điệu bẻ đôi đột ngột trong sự đối lập tương phản, người đọc có thể hình dung dốc lên cao rồi đổ xuống gần như thẳng đứng. Nhìm lên cao thì hun hút không cùng, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm đến chóng mặt. Những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất hoạ đã gợi tả một Tây Bắc

hùng vĩ dữ dội hiểm trở để gợi nhớ một thời Tây Tiến đầy gian khổ, gian khổ đến nỗi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”.

Gian khổ tưỏng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những tên địa danh không gần gũi dân dã như thôn Đoài thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính mà vô cùng xa lạ với người đọc nhưng chính những địa danh ấy đã liên tiếp vẽ lên con đường Tây Tiến một thời như khắc như tạc vào tâm trí người đọc núi non gập ghềnh hiểm trở miền Tây Bắc.

Miền Tây còn là nơi ngự trị của vẻ âm u, hoang dã, là nơi đầy những thử thách ghê gớm đặt ra cho con người. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian với mà còn được khám phá ở chiều thời gian với những đe doạ khủng khiếp luôn luôn rình rập; Chiều chiều oai linh thác gấm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “Chiều chiều” và “đêm đêm” – những khoảng thời gian gợi nỗi buồn trong lòng người thì chỉ nghe thấy tiếng cọp trêu người và tiếng thác sông Mã gầm thét. Điều đó càng gợi sự hoang sơ âm u của núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật phối thanh trắc: “Mường Hịch – cọp trêu người” hai dấu nặng liền kề gợi cái nặng nề như bước chân thú dữ đang rình rập đe doạ con người. Rừng già miền Tây Bắc hoang sơ âm u bí ẩn luôn là thử thách với người chiến sĩ trên con đường hành quân.

Vượt qua vẻ hùng vĩ dữ dội, vượt lên trên sự hoang sơ khắc nghiệt của rừng núi Tây Bắc, người đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến khi xưa nhớ về chốn cũ còn ghi tạc trong mình về một miền Tây thơ mộng và lãng mạn:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Hình ảnh nhân hoá “hoa về” gợi nhiều liên tưởng: có thể là hoa nở trong đêm sương, có thể “hoa” là ngọn đuốc trong đêm hành quân, cũng cỏ thê hiêu là bóng dang người đẹp… “Đêm hơi” tái hiện không gian núi rừng huyền ảo thơ mộng trong màn sương mỏng manh bồng bềnh. Câu thơ phối nhiều thanh bằng gợi cảm giác như sương như hương, như hoa, như hôn người. Hình ảnh hoa về là hình ảnh đa nghĩa, là điểm sáng làm rõ vẻ đẹp tâm hồn người lính, xua đi những mệt mỏi trên con đường hành quân.

Giữa mạch thơ khắc hoạ tập trung cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên miền Tây, Quang Dũng đã thả một câu thơ toàn thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang thể hiện ánh măt nhìn vô cùng  bay bổng của người lính Tây Tiến:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

“Mưa xa khơi” là hình ảnh tả thực những cơn mưa xối xả nơi núi rừng Tây Bắc bằng cách lấy mưa biển tả mưa rừng. Câu thơ còn như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt qua bao đèo cao suối sâu, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, qua một không gian mù mịt sương rừng mưa núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như những cánh buồm bồng bềnh trên biển khơi, trong một “đêm hơi” mơ hồ huyền ảo… gợi một niềm đầm ấm thân mật trong lòng người. Câu thơ như một gam màu lạnh giữa những gam màu nóng làm dịu lại cả đoạn thơ.

Những địa danh “Mường Lát”, “Pha Luông” đọc lên nghe êm dịu phù hợp với nét thơ mộng của cảnh không gian được mỏ rộng ra bát ngát vừa cao rộng vừa xa vừa mờ như một bức tranh thuỷ mặc. Thiên nhiên Tây Bắc là vậy, hùng vĩ hiểm trở nhưng cũng rất đỗi trữ tình lãng mạn, để lại dấu ấn khó phai trong kí ức người lính Tây Tiến.

Bốn câu sau của đoạn thơ thứ hai về bức tranh sông nước miền Tây là nét vẽ hoàn chỉnh về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và
thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cảnh vật Tây Bắc trong bốn câu thơ này cũng vẫn được dệt nên bằng cảm xúc hồi tưởng, là sự tiếp nối của cái nỗi “nhớ chơi vơi” ở phần đầu bài thơ, là sự tiếp theo của nỗi nhớ “hội đuốc hoa” ở bốn câu trước, cảnh Tây Bắc ở đây là một buổi chiều Châu Mộc được giăng mắc bởi một màn sương mờ, có dòng sông đôi bờ lặng lẽ, hoang dã như đôi bờ tiền sử, như một miền co tích. Một lần nữa, hình ảnh sương khói lại xuất hiện trở thành không gian đặc trưng về Tây Tiến trong nỗi nhớ, trở thành thời gian của hoài niệm đẹp đẽ, mờ ảo của sương khói miền Tây Bắc. Cũng giống như Chế Lan Viên khi nhớ về Tây Bắc:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương

Người và cảnh hoà quyện với nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa có hồn vừa man mác, xa xăm. Bởi nhớ cảnh núi rừng miền Tây trong buổi chiều sương nhưng là nhớ tới hồn lau. Hình ảnh hồn lau đầy thơ mộng là một nét đẹp của chiều sương Châu Mộc. Mùa xuân hoa lau nở tím rừng, sang thu hoa lau nở trắng rừng. Hoa lau, cờ lau phất phơ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu. Câu thơ “Cỏ thấy hồn lau nẻo bến bờ” đúng là câu thơ mang đậm chất tâm hồn thi nhân” [GS. Phan Cự Đệ]. Rồi, trên cái nền của dòng sông đậm sắc màu cổ tích và huyền thoại ấy, nổi bật lên hình dáng thướt tha, uyển chuyển của cô gái vùng cao trên chiếc thuyền “độc mộc” cùng cái tình tứ “đong đưa” làm duyên của những bông hoa bên dòng nước lũ.

Những câu thơ chỉ gợi không tả song cũng đủ sức vẽ lên một bức tranh Tây Tiến sống động huyền ảo. Cả núi rừng khi thì thấp thoáng trong màn sương lạnh, khi thì ẩn hiện trong cơn mưa xa khơi, lúc lại chìm trong màn sương như thực như mộng. Những nét chấm phá rất mảnh rất nhẹ nhưng sống động cho thấy vẻ đẹp tâm hồn tinh tế nhạy cảm của người lính bất chấp hiện thực khốc liệt của chiến tranh, người lính Tây Tiến vẫn mở lòng cảm nhận nâng niu những nét đẹp riêng của núi rừng. Đằng sau những câu thơ giàu chất nhạc, chất hoạ là tấm lòng Quang Dũng gắn bó yêu thương tha thiết với cuộc sống con người miền Tây.

Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như một tác phẩm hội hoạ tuyệt vời. Những nét vẽ táo bạo khoẻ khoắn, ngôn ngữ gân guốc ở đoạn đầu khi phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội kết hợp với những nét vẽ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ mềm mại, nhịp thơ êm ả thơ mộng khi tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, thiên nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những ngưòi anh hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đó chính là cái tài hoa của ngòi bút Quang Dũng.

Sáu mươi sáu năm đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian mà đứng vững, đi vào lòng người vì những rung động, của tác giả không chỉ về đoàn quân Tây Tiến mà còn về bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp – vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ và thơ mộng của một miền Tổ quốc. Độc giả ngày càng có vốn văn hoá sâu rộng, tâm hồn ngày càng tinh tế, đa dạng hơn ắt là sẽ càng cảm và yêu mến Tây Tiến.

Video liên quan

Chủ Đề