Ca sĩ khánh vinh là ai?

BÀI THUYẾT TRÌNH VỀNHẠC SĨ KHÁNH VINH VÀNHẠC CỤ CÁC DÂN TỘC MIỀN NÚIPhần I: NHẠC SĨ KHÁNH VINHTên khai sinh của ông là Nguyễn Khánh Vinh, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1954, quê tại xã Sơn Đông,Hoài Đức, Hà Tây. Từ năm 1973 đến 1975, ông hoạt động trong Đội Tuyên Văn của Trung đoàn 24, Sư đoàn 8, ở chiếntrường Đồng bằng Nam Bộ. Đến năm 1980, ông làm biên tập âm nhạc cho Đài Truyền hình Cần Thơ.Năm 1986, ông theo học Đại học Sáng tác tại Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1990, ông trởthành Trưởng ban Văn nghệ Đài Truyền hình Cần Thơ. Hiện nay, ông đang là Trưởng Phòng Văn NghệTrung Tâm Truyền hình Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh - Hội viên Hội Nhạc Sĩ Việt Nam - Hội viên Hội ÂmNhạc TP.Hồ Chí Minh.Các sáng tác của ông rất đa dạng và phong phú. Trong đó, có nhiều ca khúc dành cho thiếu nhi như:Tia nắng hạt mưa [Giải nhất viết cho Tuổi hoa học trò Do báo Thiếu Niên Tiền Phong và Hội Nhạc SĩViệt Nam tổ chức năm 1992], Cánh diều, Cơn mưa về,…..Ông cũng sáng tác các ca khúc trữ tình như:Bông hoa màu xanh, Cơn mưa về, Nói với em mùa đông, Về miền ca dao….. Một số tác phẩm của ôngđã đạt nhiều giải thưởng như ca khúc Tình yêu của em [1990, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và HộiNhạc sĩ Việt Nam], Tia nắng hạt mưa [1992, Báo “Hoa học Trò” và Hội Nhạc sĩ Việt Nam], Hỡi Nurisa[1996, Hội Nhạc sĩ Việt Nam]. Ngoài ra, ông cũng viết nhạc cho phim: Nàng Hương, Vòng hoa chăm-pây…Ông cũng xuất bản 2 tập ca khúc của mình _Tập ca khúc Bông hoa xanh [Hội Văn học - Nghệ thuật Cần Thơ, 1995] _Tập ca khúc thiếu nhi Tia nắng hạt mưa [Nhà Văn hoá thành phố Cần Thơ, 1995]Tr ường Thực Nghiệm Sư PhạmNhóm Tổ 1 _ Lớp 9A6Phần I: MỘT SỐ NHẠC CỤ CỦA DÂN TỘC MIỀN NÚI1. CỒNG, CHIÊNG Cấu tạo cồng, chiêng:Cồng, chiêng [bộ gõ, nhóm thân tự vang] được làm bằng đồng đúc rất công phu, có hình tròn với nhiều cỡ khác nhau, loại to đường kính có thể rộng tới 1 m, loại nhỏ đường kính khoảng trên 20 cm. Bề dày cũng phụ thuộc vào loại chiêng to hay nhỏ. Gờ mép cao chạy quanh gọi là thành chiêng. Mặt chiêng hơi phồng lên ở giữa là loại không có núm [gọi là chiêng bằng], có loại có núm nổi lên ở giữa [gọi là chiêng núm]. Trên thành mỗi chiếc chiêng có đục hai lỗ xâu dây để xách hoặc treo trên giá. Cồng, chiêng có nhiều loại: chiêng T’rum [T’rum là tên một bộ cồng 3 của người Jarai], chiêng Chiêng Aráp [được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống của đồng bào dân tộc Jarai và Bahnar],…..Cồng, chiêng được gõ bằng dùi. Dùi chiêng làm bằng gỗ, đầu có núm bọc vải hay da thú.Cồng, chiêng phát ra âm thanh nghe âm u, cổ kính, huyền bí, trang trọng, đượm vẻ núi rừng.Cách diễn tấu:Chiêng to do hai người khiêng hoặc treo trên giá và được gõ bằng dùi. Chiêng nhỏ được xách trên taytrái và đánh bằng tay phải [có thể đánh bằng dùi hoặc nắm tay]. Cồng, chiêng có thể sử dụng đơn lẻhoặc có thể sử dụng một dàn [có dàn lên đến trên 20 cái] với các kích cỡ khác nhau. Trong một dàncồng, chiêng mỗi cái có một tên gọi riêng tuỳ theo từng vùng.Cồng, chiêng được sử dụng để hoà tấu với các nhạc khí gõ khác như: trống, quả nhạc, chũm choẹ…Hoặc trong các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.2. ĐÀN ĐÁ Cấu tạo và lịch sử đàn đá Đàn đá là một nhạc cụ gõ [nhóm thân tự vang] cổ nhất của Việt Nam.Đàn cấu tạo bằng các thanh đá vớikích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau được chế tác bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ. Thanh đá dài, to, dày thì tiếng trầm. Thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người ta sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này.Căn cứ vào loại đàn đá tìm được ở di chỉ khảo cổ Bình Đa, các nhà khoa học cho biết những thanh đá đểlàm đàn này có khoảng 3.000 năm qua. Những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa, Đồng Nai, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Sông Bé và Phú Yên...; mỗi bộ đàn này có từ 3 đến 15 thanh. Bộ đầu tiên tìm được vào năm 1949 tại Đắc LắcỞ âm vực cao, tiếng đàn đá thánh thót xa xăm. Ở âm vực trầm, đàn đá vang như tiếng dội của vách đá.Người xưa quan niệm âm thanh của đàn đá như một phương tiện để nối liền cõi âm với cõi dương, giữa con người với trời đất thần linh, giữa hiện tại với quá khứ. Đàn đá hiện nay đã được giới thiệu rất nhiều ở trong và ngoài nước.3. ĐÀN T’rưng Cấu tạo T’rưng:Đàn T’rưng thuộc bộ gõ, nhóm thân tự vang. Đàn gồm 3 bộ phần chínhBộ phận phát âm: Gồm những ống nứa khô to, nhỏ, dài, ngắn khác nhau. Thường từ 12 đến 16 ống,loại ít hơn khoảng 5, 6 ống… Mỗi ống được giữ nguyên phần đầu mấu. Đầu còn lại được gọt vát khoảngmột phần nửa thân ống để âm thanh thoát, vang và cũng để điều chỉnh độ cao của âm thanh. Nhữngống to, dài có âm thanh trầm, những ống nhỏ, ngắn có âm thanh cao. Các ống được buộc hai đầu vàohai sợi dây và xếp thành hàng ngang. Trong dân gian những ống dài xếp trên cao. Gần đây, các nhạccông chuyên nghiệp đã xếp ngược lại.Dùi gõ: Làm bằng tre dài khoảng 20 cm, đầu có quấn vải, da hay cao su để âm thanh ấm và êm. Ngàynay, các nhạc công còn làm kiểu que có hai đầu gõ để có thể gõ một lúc hai âm.Giá đàn: Là một khung gỗ hoặc tre, trúc. Dân gian sử dụng chạc cây. Đàn T’rưng có âm thanh trong sáng, diễn tả những tình cảm vui tươi, sôi nổi.Đàn T’rưng 15 ống có tầm âm gần 3 quãng 8. Khoảng âm dưới tiếng to, nhưng hơi mờ đục và thô,thường diễn tấu những âm đệm. Khoảng âm giữa tiếng vang, thanh thoát và đầy đặn, âm thanh rõ nét,trong sáng. Khoảng âm cao ít vang, hơi đanh, khô, diễn tả những tình cảm vui tươi, nhí nhảnh, có thểminh hoạ tiếng chim, tiếng nước chảy, tiếng gió reo…Cách diễn tấu:Xưa kia mỗi lần chơi đàn người ta buộc đầu dây phía các âm cao vào thắt lưng người chơi còn đầu kiabuộc vào thân cây hoặc bờ đá, hai tay dùng hai dùi gõ trên những ống đàn. Bằng cách này đàn thườngchỉ có từ 6 - 7 âm theo thang 5 âm không bình quân. Tùy theo bài bản mà người ta thay đổi các ốngđàn cho phù hợp. Ngày nay người ta đã nâng âm vực đàn T’rưng lên gần 3 quãng và đàn được treo trêngiá. Đàn T’rưng cũng có những kỹ thuật giống đàn tam thập lục: ngón vê, ngón á, ngón láy rền [đánhnhư vê cách âm, vê trên một ống chính và một ống có âm liền bậc], dân gian còn thường kết hợp đánhthêm âm quãng 8.T’rưng được dùng hàng ngày trên nương rẫy, trên chòi canh, sau những lúc lao động mệt nhọc, tiếngt’rưng ròn rã làm vui lòng người, quên đi nỗi vất vả. Tiếng t’rưng còn có tác dụng đuổi chim, thú pháhoại mùa màng, trong các lễ hội hay để độc tấu, hòa tấu và đệm cho hát..

[Thethaovanhoa.vn] – Khánh Vinh từng được giải Nhất cuộc thi viết cho tuổi hồng [năm 1992] với bài Tia nắng hạt mưa, giải Nhất giải thưởng thường niên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam [2008] với bài Cổ tích viết trên cát, giải Nhất cuộc thi sáng tác ca khúc vì nạn nhân chất độc da cam, do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức [2011] với bài Lời ru, giải Nhất [hạng A] giải thường niên của Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật TP.HCM [2017] với bài A cappella ngợi ca TP.HCM…

Đoàn Minh Tuấn – Cúi rạp làm bàn viết, tôn cao chữ nghĩa

Trong sách ” Tiếng Việt 5 ” [ tập 2 ], Đoàn Minh Tuấn [ sinh năm 1932 ] có những trích đoạn ” Phong cảnh đền Hùng ” và ” Một sáng Thu xưa ” được sử dụng. Các trích đoạn này lấy từ bộ ký ” Núi sông hùng vĩ ” nổi tiếng của nhà văn này .

Mở sách giáo khoa âm nhạc các cấp học, mới hay tầm “phủ sóng” của ca khúc Khánh Vinh vào nhà trường học thật đáng nể.

Nhiều bài hát được đưa vào SGK

Bài Ai dậy sớm với những câu : “ Ai dậy sớm bước ra nhà, cau ra hoa, đang chờ đón / Ai dậy sớm đi ra đồng, cả hừng đông đang chờ đón ” [ phổ thơ Võ Quảng ] được dạy ở lớp 2 .
Bài Vườn Xuân với những câu : “ Hãy nhớ ơn người trồng cây người gieo hạt / Hãy chăm cho quốc gia mình luôn xanh tươi hoa trái ” [ phổ thơ Trần Quốc Toàn ] được dạy ở lớp 5 .

Xem thêm: Làm thế nào để //giarefx.com tại local? – ManhPT’s Blog!

Bài Tia nắng hạt mưa với những câu : “ Hình như trong từng tia nắng, có nét tinh nghịch bạn trai / Hình như trong từng hạt mưa, có nụ cười duyên bạn gái ” [ phổ thơ Lệ Bình ] được dạy ở lớp 6 .Bài Mẹ yêu cô yêu với những câu : “ Mặt trời lăn rồi mọc / trên đôi chân lon ton ” [ phổ thơ Trần Quốc Toàn ] thường được chọn làm tiết mục ca múa cho những cháu mầm mon vào mỗi dịp phụ nữ quốc tế 8/3 .


Ca khúc nổi tiếng “Tia nắng hạt mưa” trong sách Âm nhạc và Mỹ thuật lớp 6

Nhạc của Khánh Vinh còn tìm tới những ĐH khi ca khúc Một chân trời mới thường được dùng làm bài hát khai mạc mỗi năm ; thành nhạc hiệu của cuộc thi Robocon. Ca khúc có đoạn : “ … Một chân trời mới đang chờ tất cả chúng ta / Chân trời to lớn đang vẫy gọi ta / Chân trời khoa học mở ra trước mắt / Gọi niềm mê say, gọi lòng khao khát ” .

Trong mối quan hệ giữa giáo dục và âm nhạc, Khánh Vinh không chỉ ngồi đợi những người làm chương trình, làm sách, đưa tác phẩm của mình vào giáo khoa, ông còn chủ động đến với học sinh bằng “nhạc sống”. Ông tham gia viết nhạc cho kịch múa thiếu nhi Con vịt xấu xí theo tác phẩm lừng danh của văn hào Đan Mạch Andersen rồi dàn dựng cho thiếu nhi thành phố Cần Thơ và trình chiếu trên VTV. Cũng trên sóng VTV, ông là người tổ chức, biên tập, chỉ huy dàn nhạc, ca cảnh thiếu nhi Khăn đỏ lúa vàng của thiếu nhi tỉnh Đồng Tháp, khi ca sĩ Phương Thảo còn là một đội viên khăn quàng đỏ của đội ca múa thiếu nhi này.

Xem thêm: Rep tempo là gì ? Tập gym khi nào thì cần áp dụng kĩ thuật này ?

Nhạc sĩ Khánh Vinh viết nhiều cho tuổi học viên và thời hạn đã sàng lọc được cái nhiều, để giữ lấy những cái hay. Ngoài những giải Nhất kể trên, ca khúc Tia nắng hạt mưa đã được Hội Nhạc sĩ Nước Ta, Ban khoa giáo của Đài truyền hình Nước Ta, Ban âm nhạc Đài Tiếng nói Nước Ta đưa vào list 50 ca khúc mần nin thiếu nhi hay nhất thế kỷ 20 .

Người lính có trái tim nghệ sĩ

Nhạc sĩ Khánh Vinh sinh 1954, lúc quốc gia chia cắt. Gánh nặng cuộc chiến tranh đè lên vai, khiến cậu bé Khánh Vinh, người làng nghề sơn mài mỹ nghệ Sơn Đồng, vùng ven Thành Phố Hà Nội, dù rất yêu âm nhạc, rất muốn miêu tả những làn điệu chèo mà mẹ hát hằng ngày, mình đã thuộc nằm lòng, cũng không hề lên tỉnh ghi tên học nhạc. Khánh Vinh tự làm sáo trúc, đàn bầu để chơi nhạc ! Học hết đại trà phổ thông, anh trở thành người lính, chứ không thành một nhạc sinh .

Source: //giarefx.com
Category: Hỏi đáp

Video liên quan

Chủ Đề