Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

Bài làm

Nguyễn Bỉnh Khiêm có rất nhiều những sáng tác thơ ca để đời. Và nhắc đến ông người ta không thể quên được bài thơ “Nhàn” tiêu biểu đã thể hiện được một vẻ đẹp tâm hồn cũng như nhân cách, tôn cao triết lí sống của ông.

Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ “Nhàn” cũng đã được sáng tác khi mà  về quê ở ẩn. Người đọc cũng có thể nhận thấy được chính chữ “ nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói ở đây thực sự không hề tâm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” chút nào. Ta phải hiểu được đó cũng chính là một thái độ sống và một triết lý sống mà tác giả thể hiện khá rõ ràng.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ngay từ hai câu thơ mở đầu thôi mà cũng đã lại tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng được lặp lại ba lần trong một dòng thơ và điều này như mang tính chất chỉ là liệt kê các sự vật quen thuộc của người nông dân đó chính là những vật dụng mai, cuốc và cần câu. Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về quê như mang bóng dáng của một lão nông tri điều chân chất nhưng lại mang được dáng vẻ của một tao nhân mặc khách vậy. Sống một cuộc sống bình dị không màng danh lợi chút nào cả, độc giả cũng nhận thấy được phong thái như thanh thản của nhà thơ.

>> Xem thêm:  Phân tích tác phẩm Bắt cá sấu rừng U Minh Hạ

Tiếp đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Độc giả nhận thấy được ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ trên. Có thể hiểu được nơi vắng vẻ mà đó chính là một chốn thôn quê thanh bình, cũng thật an nhàn và quan trọng hơn thì ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên và người ta cũng cảm nhận được chính còn ngụ ý của tác giả nói đến chốn lao xao chính là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét. Chốn lao xao chính là chốn của sự danh lợi, ồn áo phiền não. Nguyễn Bình Khiêm nói từ dại thì nên tìm nơi thôn quê, còn ngược lại thì người đời “khôn” họ lại tìm đến chốn quan trường. Nếu như đọc cả câu thơ người ta mới nhận ra được ẩn ý sâu sắc của tác giả đó chính là cách nói ngược. Khôn có nghĩa là dại và dại lại có nghĩa khôn. Bước vào chốn quan trường là bước vào biết bao nhiêu sự suy tính, bon chen không được sống thật với chính bản thân mình. Khi đọc ta nhận thấy được câu thơ dường như cũng mang được một ý nghĩa mỉa mai chế giễu những người chỉ biết lao đầu vào vòng danh vọng mà đánh mất chính mình. Và “nhàn” với Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là việc giữ gìn cốt cách thanh cao, không màng danh lợi.

>> Xem thêm:  Vai trò của Internet trong xã hội ngày nay?

Cảm nhận của em về bài thơ Nhàn 

Nguyễn Bỉnh khiêm đã chọn cho mình được một cuộc sống thanh cao, luôn tránh xa vòng danh lợi để có thể hòa nhập vào thiên nhiên, sống bình dị và thật giản đơn của nhân vật trữ tình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Câu thơ gợi tả được sự hợp hòa của con người và thiên nhiên. Mùa gì thì thức nấy. Những món ăn dân dã mà lại dễ tìm như măng và giá. Tất cả những thức ăn đó luôn luôn gắn liều với cuộc sống của những người nông dân. Thế rồi đến câu thơ nói về cảnh sinh hoạt cũng hết sức bình dị đã thể hiện được sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên rất nhẹ nhàng của con người. Thực sự cũng phải sống hết mình và mỗi người dường như cũng lại phải sống hòa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.

Thông qua đoạn thơ ta nhận thấy được cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên, ta cũng có thể nhận thấy những điều đó ở hai câu thơ kết thì tác giả dường như cũng đã đúc kết được những triết lý vô cùng cao đẹp:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Dễ dàng nhận thấy được trong câu thơ tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như cũng đã lại có sử dụng điển tích “cội cây”. Từ cội cây ở đây lại ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm và nó cũng chỉ là vật chất bề ngoài chẳng khác gì một giấc mơ mà thôi. Đặt câu thơ vào trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, ta dường như cũng lại có thể nhận thấy được cũng chính nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt. Thế rồi cũng thông qua đó ta như nhận thấy được đó cũng chính là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác. Cho nên tác giả cũng đã khẳng định được quan niệm của mình về từ “nhàn” ở đây chính là luôn coi thường vinh hoa và phú quý. Và đồng thời nhàn cũng chính là một triết lý sống và một quan niệm nhân sinh vô cùng sâu sắc Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ “Nhàn” cũng chính là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách vô cùng cao đẹp của ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời bài thơ cũng chính là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên của tác giả luôn phủ nhận danh lợi mà giữ gìn phẩm giá của mình.

Minh Nguyệt

Giải câu 1, 2, 3 trang 102 SBT Ngữ văn 10 tập 1. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn. Soạn bài Nhàn SBT Ngữ văn 10 tập 1 – Soạn bài Nhàn

1. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn.

Bài thơ Nhàn làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm : yêu thiên nhiên, giản dị mà thanh cao.

– Yêu thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về sống giữa tự nhiên. Yêu đến độ hoà hợp, đến độ giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao:

                                                               Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

                                                               Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ là một bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hương sắc. Con người thảnh thơi, vui thú với thiên nhiên, tận hưởng niềm hạnh phúc mà thiên nhiên mang lại. Vật chất có mà tinh thần cũng có. Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá đỗ, nhưng câu thơ “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. Cách viết tinh tế trong câu thơ là biểu hiện của sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên của tác giả.

– Tâm hồn Bạch Vân Cư Sĩ giản dị mà thanh cao. Trạng Trình về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động – mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu đế bắt cá :

                                                            Một mai, một cuốc, một cần câu,

                                                            Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nguyễn Bỉnh Khiêm dời bỏ chốn quan trường để về quê nhàn dật, tránh xa danh lợi. Dù không sống và lao động như một người nông dân bình thường thì Bạch Vân Cư Sĩ vẫn gần gũi với người dân cả trong đời sống vật chất và tình thân.

Bậc đại ẩn trở về với cuộc sống chất phác, nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” [đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn], hết sức giản dị với những thức ăn quê mùa, dân dã. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt ? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác. Đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh : “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” – vừa có nước xanh trong, vừa có hương thơm thanh quý.

2. Bài tập 5, trang 130, SGK.

Qua toàn bộ thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta có thể thấy quan niệm sống nhàn của tác giả có nội dung phong phú và khá phức tạp. Nhàn là sống theo tự nhiên, sống hoà hợp với tự nhiên cho tâm hồn thanh thản: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế – Cơ cầu tạo hoá mặc tự nhiên”. Nhàn là sống cho trong sạch : “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách”. Nhàn là sự phủ nhận danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”…

– Quan niệm sống nhàn đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là tìm đến sự nhàn nhã để chẳng vất vả, cực nhọc. Nhàn cũng không phải là để thoả thú nhàn tản của bản thân, thây kệ cuộc đời, không bận tâm tới xã hội.

– Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá – Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”; nhàn là xa lánh nơi danh lợi, quyền quý để giữ cốt cách thanh cao: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn người đến chốn lao xao”.

– Bản chất của chữ nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn thân mà không nhàn tâm. Nhàn mà vẫn lo âu việc nước, việc đời. Nhà thơ tìm đến “say” nhưng là để tỉnh: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống – Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm chứa đựng nhiều yếu tố tích cực. Nó khác xa lối sống “độc thiện kì thân”[làm tốt cho riêng mình].

Quảng cáo

3. Qua bài thơ Nhàn, anh [chị] hãy làm sáng tỏ sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.

– Triết lí nhàn ấy thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn :

                                                              Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

                                                              Người khôn, người đến chốn lao xao.

Triết lí sâu sắc mà đùa vui hóm hỉnh trong cách nói ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hoá dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

                                                           Khôn mà hiểm độc là khôn dại,

                                                          Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

[Thơ Nôm – bài 94]

Như vậy thì dại, khôn, ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, từ triết lí dân gian : “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

– Triết lí nhàn của Trạng Trình là trở về với tự nhiên, sống hoà hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. Nhàn là về nơi vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và là nơi thảnh thơi của tâm hồn, nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Chốn lao xao là chốn cửa quyền, là đường hoạn lộ, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn thì có bon chen, luồn lọt, sát phạt. Còn Trạng Trình thì:

                                                          Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

                                                          Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Nhà thơ tìm đến “say” chỉ là để “tỉnh”. “Tỉnh” để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh ngưòi đời. Triết lí, giáo huấn mà không khô khan, trái lại vẫn tràn đầy cảm xúc bởi nhà thơ nói bằng tất cả trái tim chân thành, nói bằng chính sự trải nghiệm của cuộc đời mình.

Sachbaitap.com

Video liên quan

Chủ Đề