Cấu trúc của nhân cách gồm

Khái niệm nhân cách, đặc điểm và cấu trúc nhân cách

by

Mục Lục:

  • 1. Khái niệm
    • Khái niệm con người
    • Khái niệm nhân cách
  • 2. Các đặc điểm cơ bản của nhân cách
    • Tính ổn định của nhân cách
    • Tính thống nhất của nhân cách
    • Tính tích cực của nhân cách
    • Tính giao lưu của nhân cách
  • 3. Cấu trúc tâm lí của nhân cách
    • Loại cấu trúc hai thành phần:
    • Loại cấu trúc ba thành phần:
    • Loại cấu trúc bốn thành phần:
    • Loại cấu trúc năm thành phần:
  • 4. Các kiểu nhân cách

1. Khái niệm

Nhân cách là một trong những từ chỉ con người và cũng chỉ nói về con người đã được phát triển tới một trình độ nhất định. Do yêu cầu, mục đích và nội dung nghiên cứu của mình, các nhà tâm lí học sử dụng các thuật ngữ khác như cá nhân, cá tính hay chủ thể để chỉ con người. Nhưng mỗi khái niệm có nội hàm riêng. Để hiểu định nghĩa nhân cách, trước hết cần phân biệt các khái niệm nêu trên.

Khái niệm con người

Con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Về mặt sinh học, con người thuộc lớp động vật có vú, có dáng đứng thẳng, có đôi bàn tay là công cụ nhận thức và lao động, có bộ óc người phát triển cực kì cao và tinh vi. Là thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Nhưng cái sinh vật trong con người không thuần tuý là cái sinh vật cái tự nhiên mà nó bị cái xã hội quy định một cách trực tiếp. C. Mác viết: “Con người không phải chỉ là thực thể tự nhiên. Nó là thực thể tự nhiên có tính người”.
Về mặt xã hội, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân loại. Do đó, sự phát triển của con người chủ yếu bị chi phối bởi quy luật xã hội. Con người là một chủ thể có ý thức và đây chính là điểm khác nhau cơ bản nhất giữa con người với con vật. Về vấn đề này C. Mác đã viết: “con người chỉ khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con người có ý thức thay thế bản năng”. Cũng có thể định nghĩa con người là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hoá.
– Khái niệm cá nhân: Cá thể là từ chỉ đại diện của một loài. thể nói cá thể động vật, một cá thể người, nhưng cá thể người được gọi là cá nhân.
Như vậy , cá nhân là thuật ngữ chỉ một con người với tư cách đại diện loài người. Nói đến cá nhân là nói đến một con người cụ thể của một cộng đồng, là thành viên của xã hội và để phân biệt nó với cá nhân khác, với cộng đồng.

– Khái niệm cá tính: dùng để chỉ cái độc đáo không lặp lại về những đặc điểm tâm lí và sinh lí của mỗi cá nhân, nhân cách. Nhà tâm lí học Nga X.L. Rubinstêin viết: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại”.
– Khái niệm chủ thể: Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có ý thức và có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt động đó, thì được gọi là chủ thể.

Khái niệm nhân cách

Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có khoa học tâm lí. Đây là vấn đề rất phức tạp nên ngay trong tâm lí học cũng có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về nhân cách. Nhân cách là một trong những từ cổ nhất của khoa học tâm lí. Ngay từ năm 1927, G.W. Allport đã dẫn ra gần 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lí học về nhân cách và hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lí. Có thể nêu một số nhóm quan điểm lí thuyết như sau:
– Quan điểm sinh vật hoá nhân cách: coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình thể [Kretchmev], ở góc mặt [C. Lombrozo], ở thể tạng [Sheldon], ở bản năng vô thức [S. Freud]…
– Quan điểm xã hội học hoá nhân cách: lấy các quan điểm xã hội [gia đình, họ hàng, làng xóm…] để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lí của cá nhân đó.
– Có những quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng, cái đơn nhất của con người, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại, một số quan điểm khác lại chỉ chú ý tính đơn nhất có một không hai của nhân cách.
– Các nhà tâm lí học khoa học cho rằng, khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội – lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng người. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách như sau:
+ “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” [A.G. Covaliôv].
+ “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, quy định hình thức của hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” [E.V . Sôrôkhôva]. + “Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai”.
+ “Nhân cách của con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao, nhân cách càng lớn”.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách như sau: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó.

Như vậy, nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra hoạt động và các sản phẩm của nó.

Từ định nghĩa trên cho ta thấy chỉ có thể dùng từ nhân cách cho con người và chỉ từ một giai đoạn phát triển nhất định nào đó. Vì thế người ta không nói “nhân cách của con vật” hay “nhân cách của một trẻ sơ sinh, một trẻ hai tuổi”. Nhưng lại có thể nói đến nhân cách của một học sinh tiểu học, nhân cách của một sinh viên. Con người được sinh ra chưa phải đã là một nhân cách, mà trong quá trình sinh sống và hoạt động, giao lưu của mình trong xã hội, con người trở thành một nhân cách. Nhân cách được hình thành không dừng lại, không cố định, nó có thể được phát triển đi đến hoàn thiện, có thể bị suy thoái. X.L. Rubinstêin đã viết: “Con người là nhân cách do nó xác định quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức” và ông cũng nêu ý tưởng rằng, nhân cách là sản phẩm tương đối của sự phát triển xã hội – lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của con người.
  • Các thuộc tính cơ bản của nhân cách
  • Sự hình thành và phát triển nhân cách

2. Các đặc điểm cơ bản của nhân cách

Hiện nay, trong các tài liệu, giáo trình tâm lí học thường nêu lên bốn đặc điểm cơ bản của nhân cách: tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực và tính giao lưu của nhân cách.

Tính ổn định của nhân cách

Dưới ảnh hưởng của cuộc sống và giáo dục, từng thuộc tính tạo nên nhân cách có thể được biến đổi, được chuyển hoá, nhưng trong tổng thể thì chúng tạo thành một cấu trúc trọn vẹn của nhân cách. Cấu trúc này tương đối ổn định nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội của cá nhân ấy trong một khoảng thời gian nào đó của cuộc đời con người. Nhờ có tính ổn định tương đối này của nhân cách, người ta có thể đánh giá được giá trị xã hội của một nhân cách nào đó ở thời điểm hiện tại và có thể dự đoán trước được hành vi của nó trong những tình huống nhất định.

Tính thống nhất của nhân cách

Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất của các thuộc tính hay các phẩm chất và năng lực của con người. Các thuộc tính đó có liên quan, kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống nhất chứ không phải là một phép cộng đơn giản các thuộc tính riêng lẻ. Vì vậy khi xem xét, đánh giá một nét nào đó của nhân cách phải xét nó trong mối liên hệ với các thuộc tính khác của nhân cách và toàn bộ nhân cách. Chẳng hạn, tinh thần dũng cảm của một chiến sĩ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ dân khác xa với sự dũng cảm của một kẻ trong một băng cướp, khi đánh giá về mặt đạo đức của nhân cách. Vì vậy , không được giáo dục nhân cách theo “từng phần”, từng thuộc tính riêng lẻ tách bạch mà phải giáo dục con người như một nhân cách hoàn chỉnh.

Tính tích cực của nhân cách

Nhân cách là một sản phẩm của xã hội. Nhân cách không chỉ là khách thể chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội, mà điều quan trọng hơn là nó chủ động tham gia vào các mối quan hệ đó, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội ấy , nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện ở những hoạt động muôn hình muôn vẻ với mục đích cải tạo thế giới xung quanh và cải tạo chính bản thân mình. Nếu không hoạt động, con người không thể tồn tại, nhân cách của họ không thể được hình thành và phát triển. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách. Như vậy , cá nhân được coi là nhân cách khi nó tích cực hoạt động và giao lưu trong xã hội một cách có ý thức. Do đâu có được tính tích cực của nhân cách. Theo quan niệm của tâm lí học thì nguồn gốc tính tích cực của nhân cách chính là nhu cầu. Tính tích cực của nhân cách thể hiện trong quá trình thoả mãn nhu cầu của nó. Khác với động vật và bằng hoạt động lao động của mình, con người không thoả mãn nhu cầu bằng các đối tượng có sẵn mà luôn luôn sáng tạo ra những đối tượng mới, các phương thức mới để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng và ngày càng cao của mình.

Tính giao lưu của nhân cách

Nhân cách chỉ có thể tồn tại trong sự giao lưu với những nhân cách khác. Vì lí do nào đó mà ngay từ lúc mới sinh con người bị tách khỏi xã hội loài người thì không thể tồn tại và phát triển như một nhân cách. Chẳng hạn, một đứa trẻ mới sinh bị bỏ rơi ở ngoài rừng được các con vật nuôi hay một đứa trẻ bị nuôi ở dưới hầm từ lúc còn rất bé không được tiếp xúc, giao lưu với những nhân cách khác thì không thể trở thành một nhân cách. Như vậy , nhân cách không thể tồn tại, không thể hình thành và phát triển bên ngoài sự giao tiếp, bên ngoài xã hội loài người. Nhu cầu giao lưu hay giao tiếp được xuất hiện rất sớm và có thể coi như một nhu cầu bẩm sinh của con người. Nhu cầu của con người trước hết là nhu cầu về người khác. Vì sao vậy? Bởi vì chỉ có thông qua giao tiếp cá nhân mới có thể gia nhập các mối quan hệ với các cá nhân khác trong các nhóm xã hội và quan hệ với toàn xã hội. Qua giao tiếp, cá nhân lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội và cũng nhờ có giao tiếp, mỗi cá nhân được nhìn nhận, được đánh giá theo quan niệm về giá trị, đạo đức của thời đại cá nhân đó đang sống. Trên cơ sở đó, cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển bản thân theo các chuẩn mực xã hội và cũng qua giao tiếp mỗi cá nhân có thể tham gia đóng góp những giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho sự phát triển xã hội. Đặc điểm này của nhân cách là cơ sở tâm lí học cho nhiều phương pháp biện pháp giáo dục trẻ, đặc biệt là nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể do nhà giáo dục Nga A.X.Macarencô đề xướng.

3. Cấu trúc tâm lí của nhân cách

Cấu trúc là sự thống nhất toàn vẹn các phần tử và sự liên hệ về mọi mặt giữa chúng. Cấu trúc tâm lí của nhân cách cũng vậy . Theo nhà tâm lí học Nga K.K. Platônốp thì nhân cách không phải là vô định, không phải là cái túi với những đặc điểm của nhân cách vô tình bị bỏ vào trong đó. Nhân cách có một cấu trúc nhất định. Nhân cách bao gồm các phần tử và các phần tử liên hệ với nhau theo cách thức khác nhau. Chính các phần tử kết hợp lại bằng sự liên hệ theo một cách thức tạo nên nhân cách toàn vẹn. Nhân cách cũng có ảnh hưởng ngược trở lại các phần tử và các mối liên hệ giữa các phần tử. Từ đó có thể nói, câu trúc nhân cách là sự sắp xếp các thuộc tính hay các thành phần của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong một liên hệ và quan hệ nhất định. Có nhiều quan điểm
khác nhau về cấu trúc nhân cách tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi tác giả về bản chất của nhân cách. Có tác giả xem xét cấu trúc nhân cách gồm ba, bốn hay năm thành phần. Có thể nêu ra một số loại cấu trúc nhân cách sau:

Loại cấu trúc hai thành phần:

+ Trong tài liệu tâm lí học Việt Nam đưa ra quan niệm cho rằng cấu trúc nhân cách gồm hai thành phần cơ bản là đức và tài hay còn gọi là phẩm chất và năng lực.
+ Quan niệm cấu trúc nhân cách có hai tầng: Tầng “nổi” sáng tỏ gồm ý thức, tự ý thức, ý thức nhóm và tầng “sâu” tối tăm bao gồm tiềm thức, vô thức.

Loại cấu trúc ba thành phần:

+ S. Phrớt quan niệm cấu trúc nhân cách gồm ba phần: cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Mỗi bộ phận hoạt động theo nguyên tắc nhất định và có liên hệ chặt chẽ với nhau.
+ A.G. Covaliốp cho rằng trong cấu trúc của nhân cách bao gồm ba thành phần là các quá trình tâm lí, các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân.
+ Quan điểm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản; nhận thức [bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ], tình cảm [rung cảm, thái độ] và lí trí [phẩm chất ý chí, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen].

Loại cấu trúc bốn thành phần:

+ K.K. Platônốp nêu lên bốn tiểu cấu trúc của nhân cách như sau:
* Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học [bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi và có cả những đặc điểm bệnh lí].
* Tiểu cấu trúc về đặc điểm của các quá trình tâm lí như các phẩm chất của cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy; những phẩm chất của ý chí; những đặc điểm của xúc cảm, tình cảm.
* Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm gồm các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, năng lực,…
* Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin…
+ Quan điểm coi nhân cách gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực [những thuộc tính này đang được thừa nhận tương đối rộng rãi nên sẽ được phân tích chi tiết ở phần sau].
+ Theo nhà tâm lí học Việt Nam, Phạm Minh Hạc thì nhân cách con người bao gồm bốn bộ phận sau:
* Xu hướng của nhân cách: Đó là hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng của nhân cách bao gồm nhiều thuộc tính khác nhau, bao gồm một hệ thống các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lí tưởng tác động qua lại với nhau. Trong đó có một thành phần nào đó chiếm ưu thế và có ý nghĩa chủ đạo, đồng thời các thành phần khác giữ vai trò làm chỗ dựa, làm nền.
* Những khả năng của nhân cách: bao gồm một hệ thống các năng lực, đảm bảo cho sự thành công của hoạt động. Các năng lực cá nhân là tiền đề tâm lí đảm bảo cho những xu hướng của nhân cách trở thành hiện thực, chúng có liên quan và tác động qua lại với nhau. Thông thường, có một năng lực nào đó chiếm ưu thế còn những năng lực khác thì phụ thuộc vào nó và tăng cường cho nó [tức năng lực chủ đạo]. Rõ ràng là, cấu trúc của xu hướng nhân cách sẽ ảnh hưởng đến tính chất của mối tương quan giữa các năng lực của nó. Về phần mình, sự phân hoá của các năng lực sẽ lại ảnh hưởng đến thái độ lựa chọn của nhân cách đối với hiện thực.
* Phong cách, hành vi của nhân cách: Phong cách, cũng như các đặc điểm tâm lí trong hành vi của nhân cách là do tính cách và khí chất của nhân cách đó quy định. Tính cách là hệ thống thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và bản thân. được thể hiện trong hành vi của họ. Tính cách tạo nên phong cách hành vi của con người trong môi trường xã hội và phương thức giải quyết những nhiệm vụ
thực tế của họ. Khí chất là những thuộc tính cá thể quy định động thái của hoạt động tâm lí con người, quy định sắc thái thể hiện bên ngoài của đời sống tinh thần của họ.
* Hệ thống điều khiển của nhân cách: Hệ thống này thường được gọi là cái “tôi” của nhân cách. “Cái tôi” là một cấu tạo tự ý thức của nhân cách, nó thực hiện sự điều chỉnh: tăng cường hay làm giảm bớt hoạt động, tự kiểm tra và sửa chữa các hành vi và hoạt động, dự kiến và hoạch định cuộc sống và hoạt động của cá nhân. Tuỳ theo mức độ phát triển mà hệ thống tự điều chỉnh này được củng cố và con người trở thành chủ nhân của các sức mạnh của mình. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối sống của đứa trẻ và người lớn mà phẩm chất của “cái tôi” được xác định, khả năng tự điều chỉnh các sức mạnh và phương tiện của bản thân được xác định Biểu tượng về “cái tôi” của bản thân sẽ quy định mức độ kì vọng, mức độ tính tích cực tương ứng của nhân cách cũng như mức độ phát triển của các năng lực.

Loại cấu trúc năm thành phần:

Nhà tâm lí học Cộng hoà Séc J. Stêfanôvic đưa ra cấu trúc nhân cách gồm năm đặc điểm:

+ Đặc điểm tính tích cực – động cơ của nhân cách như xu hướng, nguyện vọng, hứng thú, kế hoạch sống.

+ Đặc điểm lập trường – quan hệ của nhân cách thể hiện mặt giá trị của nhân cách bao gồm lập trường, lí tưởng và quan điểm sống.
+ Đặc điểm về mặt hành động của nhân cách bao gồm tri thức kĩ xảo thói quen.
+ Đặc điểm tự điều chỉnh của nhân cách gồm tự ý thức, tự đánh giá, tự phê bình của nhân cách.
+ Đặc điểm về động thái của nhân cách thể hiện ở khí chất. Sau đây chúng ta phân tích chi tiết hơn về quan điểm cấu trúc nhân cách của các nhà tâm lí học Việt Nam để có thể dễ dàng vận dụng trong công tác giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta. Đó là quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là đức và tài [phẩm chất và năng lực].
Có thể biểu diễn cấu trúc theo bảng sau:
Phẩm chất [Đức]
Năng lực [Tài]
– Phẩm chất xã hội [đạo đức, chính trị] như: thế giới quan. lí tưởng. niềm tin, lập trường, thái độ…
– Năng lực xã hội hoá: khả năng thích ứng. hoà nhập, tính mềm dẻo cơ động, linh hoạt trong cuộc sống
– Phẩm chất cá nhân [đạo đức tư cách: cái nết. thói quen. các ham muốn]
– Năng lực chủ thể hoá: khả năng thể hiện tính độc đáo, đặc sắc, khả năng thể hiện cái riêng, cái “bản lĩnh” của cá nhân
– Phẩm chất ý chí: tính mục đích, tính tự chủ, tính kỉ luật, tính quả quyết, tính phê phán…
– Năng lực hành động: khả năng hành động có mục đích, chủ động tích cực có hiệu quả
– Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí…
– Năng lực giao tiếp: khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với người khác

4. Các kiểu nhân cách

Kiểu nhân cách được hiểu là loại nhân cách có những đặc trưng riêng biệt để phân biệt nhân cách này với nhân cách khác. Có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm lí thuyết và vào tiêu chí phân loại. Có thể nêu ra một số loại kiểu nhân cách sau:
Phân loại nhân cách theo định hướng giá trị
– Căn cứ vào các định hướng giá trị trong hệ thống đời sống của cá nhân có thể phân ra năm kiểu nhân cách cơ bản của con người:
+ Người lí thuyết
+ Người chính trị
+ Người kinh tế
+ Người thẩm mĩ
+ Người vị tha.
Trong cách phân loại này, tác giả mới chỉ mô tả các biểu hiện đặc trưng của các loại nhân cách, nhưng chưa lí giải được sự hoà nhập của các loại nhân cách vào xã hội cũng như vị trí, vai trò của từng loại nhân cách.
Dựa vào định hướng giá trị trong quan hệ giữa con người với con người, các nhà tâm lí học Mĩ đã phân ra ba kiểu nhân cách:
+ Kiểu người nhường nhịn [bị áp đảo],
+ Kiểu người công kích [mạnh mẽ],
+ Kiểu người hờ hững [lạnh lùng].
Phân loại nhân cách qua giao tiếp
+ Người thích sống bằng nội tâm,
+ Người thích giao tiếp hình thức,
+ Người nhạy cảm,
+ Người ba hoa.
Phân loại nhân cách qua sự bộc lộ của bản thân trong các mối quan hệ [H.J. Eysenck]:
+ Kiểu nhân cách hướng nội,
+ Kiểu nhân cách hướng ngoại.

1. Các khái niệm cơ bản và một số đánh giá liên quan:

1.1. Khái niệm nhân cách:

Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý của cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân.

Như vậy có thể thấy rằng: nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.

Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hoá xã hội, từ đó, thông qua sự lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của nhân cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và hành động được mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã hội.

Mặt khác Nhân cách không phải là bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành và phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây:

Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học, một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.

Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường và xã hội đối với mỗi cá nhân.

Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ các yếu tố như quan điểm, lý luận, niềm tin, định hướng giá trị…

1.2. Xu hướng:

Xu hướng của nhân cách là hệ thống động cơ quy định tính tích cực và sự lựa chọn thái độ của con người trong quá trình hoạt động.

Xem thêm: Tâm lý học phát triển là gì? Các lý thuyết theo tâm lý học phát triển?

Từ khái niệm trên ta có thể đánh giá: Xu hướng của nhân cách thường được biểu hiện qua: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng,

thế giới quan, niềm tin. Có thể nói rằng xu hướng chính là chiều hướng phát triển của nhân cách con người, các thành phần trong xu hướng nhân cách như: nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin là các thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách, chúng là động lực của hành vi, của hoạt động.

Tổng Quan Về Nhân Cách – Sự Hoàn Thiện, Cấu Trúc Và Đặc Điểm

Nhân cách là gì? Tôi có nhân cách như thế nào? Với nhân cách đó tôi có thể thành công trong lĩnh vực nào hay giỏi giang ở vị trí nào???… luôn là một vấn đề được con người chúng ta tò mò, quan tâm và muốn khám phá.

Cùng Thanhbinhpsy tìm hiểu về nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như cấu trúc và các thuộc tính cơ bản của nhân cách trong bài viết ngay dưới đây.

Phân tích cấu trúc của nhân cách cá nhân. Liên hệ trong đời sống thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [157.07 KB, 12 trang ]

MỞ ĐẦU

Tâm lý:là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con
người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con ngừơi.
[Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh
và hoạt động nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người
và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.] Tâm lý học: Là khoa học về
các hiện tượng tâm lý. Nó nghiên cứu các quy luật nảy sinh vận hành và
phát triển của các hiện tượng tâm lý trong hoạt động đa dạng diễn ra trong
cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Trong bài tập lớn em xin trình
bày vấn đề: “Phân tích cấu trúc của nhân cách cá nhân. Liên hện trong
đời sống thực tiễn”.

1


I

KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu

hiện ở bản sắc giá trị xã hội của người ấy.
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá
nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vây, nếu
cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với loài thì nhân cách
là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức
biểu hiện cử giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức
biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp
của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội nên đặc trưng riêng về di truyền,
về sinnh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng


của mình.
Như C.Mác đã nói: “Nếu như con người có bẩm sinh đã là sinh vật có tính
xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã hội và
cần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không phải con người căn cứ
vào lực lượng bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân
riêng lẻ mà là căn cứ của toàn xã hội.”
Như vậy:


Nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người

mà chỉ bao hàm những đặc điểm quy định bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị
và cốt cách làm người của con người như là một thành viên của xã hội.


Nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ

mà là một cấu tạo tâm lý phức hợp. Nói cách khác nhân cách là tổng thể
những đặc điểm tâm lý đặc trưng với một cơ cấu xác định.


Nhân cách con người không bẩm sinh, không tự nhiên có, nhân

cách được hình thành dần trong quá trình tham gia các mối quan hệ của
con người.

2


II CẤU TRÚC NHÂN CÁCH VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

2.1. Xu hướng
Xu hướng cá nhân là một hệ thống động cơ và mục đích định
hướng và thúc đẩy con người tích

cực hoạt động nhằm

thỏa

mãn nhu cầu, hướng thú hoặc vươn tới mục tiêu mà cá nhân sẽ
lấy làm lẽ sống của mình.
Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá
nhân, bao gồm một hệ thống động cơ quy định tính tích cực hoạt động
của cá nhân và quy định sự lựa chọn thái độ của nó. Xu hướng nhân
cách nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách.
Xu hướng nhân cách thường biểu hiện ở các nhu cầu, hứng thú, lý
tưởng, thế giới quan, niềm tin của con người.
2.1.1 Nhu cầu :Nhu cầu là sự đòi hỏi khách quan của mỗi con người,
trong những điêù kiện nhất định bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
họ.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thoả mãn để
tồn tại và phát triển, ví dụ nhu cầu nơi ở, ăn uống, việc làm, học tập,
vui chơi…
Nhu cầu của con người rất đa dạng. Nhu cầu vật chất gắn liền với
sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc,…; nhu cầu tinh thần bao
gồm nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp và nhu
cầu hoạt động xã hội...
Ví dụ: Đối với sinh viên thường có những nhu cầu về dụng cụ học
tập như là sách, vở, bút, laptop…hay là những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày như: nhu cầu ăn uống, nhu cầu về ăn mặc, quần áo, giày, dép…
nhu cầu được vui chơi giải trí như tham gia vào các chương trình văn

nghệ của trường, các hoạt động tình nguyện…
2.1.2 Hướng thú :Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối
tượng nào đó – đối tượng vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả
năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
3


Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng
và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn
về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động, còn nhu cầu có thể không có
yếu tố hấp dẫn.
Chẳng hạn khi bị bệnh, người ta có nhu cầu uống thuốc để điều trị
nhưng người ta không thấy khoái cảm khi uống thuốc. Đây chính là sự
khác nhau giữa hứng thú và nhu cầu.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc,
đặc biệt là tăng tính tự giác, tích cực trong hoạt động và vì vậy hứng thú
làm tăng hiệu quả hoạt động. Đặc biệt trong hoạt động nhận thức và
hoạt động học tập, hứng thú có vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng hiệu quả học tập. Những môn học có hứng thú bao giờ
kết quả cũng tốt hơn những môn học không có hứng thú. Vì vậy, giáo
viên cần hình thành được hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ: Trong giờ học hình sự các thầy cô thường kể những câu
chuyện thực tế về các vụ phạm tội giết người, cướp của…làm kích thích
tính tò mò của em, gây cho em cảm giác hướng thú với môn học này.
2.1.3 Lý tưởng: Lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp, được phản ánh trong
ý thức con người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn
chỉnh, có sức lôi cuốn con người tích cực hoạt động để vươn tới lý tưởng
đó.
Lý tưởng khác với ước mơ ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt
nhận thức sâu sắc của chủ thể về các điều kiện chủ quan và khách quan

để vươn tới lý tưởng, đồng thời chủ thể có tình cảm mãnh liệt đối với
hình ảnh lý tưởng của mình. Chính vì thế, lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn
toàn bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn tới lý tưởng của
mình. Tuy vậy, ước mơ có thể là cơ sở cho sự hình thành lý tưởng cao
đẹp sau này.

4


Lý tưởng mang tính lịch sử và giai cấp: ở các thời đại và chế độ
chính trị khác nhau thì lý tưởng của con người cũng khác nhau.
Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó
xác định mục tiêu và điều khiển toàn bộ hoạt động của con người “Sống mà không có lý tưởng cũng như người đi trong rừng mà không có
phương hướng”.
Ví dụ : với em lý tưởng sống của em rất đơn giản là em sẽ học
những cái hay, những mặt tốt của những người mà em từng gặp, để
học cách thay đổi, dần hoàn thiện bản thân và tích lũy thêm kiến thức,
bù đắp những thiếu sót cho mình.
2.1.4 Niềm tin:

Niềm tin là sự tin tưởng của con người vào những tri

thức và những kinh nghiệm mà con người đă thể nghiệm và rung động
về tính đúng đắn của nó.
Niềm tin là thành phần quan trọng trong hệ thống động cơ của cá
nhân, nó thúc đẩy mạnh mẽ con người hành động phù hợp với niềm tin
của mình. Niềm tin càng mãnh liệt thì sức sống càng dồi dào. Có một
câu thành ngữ nói rằng: “Mất niềm tin là mất tất cả”. Điều đó nói lên
rằng sống phải có niềm tin. Niềm tin là khởi đầu của thành công, nhưng
học sinh, sinh viên thường đánh mất niềm tin vào bản thân.ví dụ: Em có

một người bạn, bạn em cho rằng học luật phải tự học nhiều và khó với
lại toàn chữ là chữ mà bạn áy lại thi khối A, nên vì mất tự tin mà bạn ấy
chản nản trong việc hoc.
2.2. Tính cách.
Trong cuộc sống hằng ngày ta thường dùng các từ “tính tình”,
“tính nết”, “tính cách” để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường
được gọi là “đặc tính”, “lòng”, “tinh thần”…; những nét tính cách xấu
thường được gọi là “thói”, “tật”…
Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định
của con người, những đặc điểm này quy định phương thức hành
5


vi điển hình của người đó trong những điều kiện và hoàn cảnh
sống nhất định thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xunh
quanh và bản thân.
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm
một hệ thống thái độ tương đối ổn định đối với hiện thực và thể hiện
trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Nói cách khác,
tính cách là thái độ đã được củng cố trong những phương thức hành vi
quen thuộc.
Tính cách mang tính ổn định, bền vững, thống nhất và tính độc
đáo, riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Tính cách của cá nhân chịu
sự chế ước của xã hội.
Tính cách của con người không phải là bẩm sinh, không tự nhiên
có mà tính cách được hình thành trong sự phát triển của cá nhân, dưới
tác động của giáo dục và sự tích cực rèn luyện của cá nhân. Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do
giáo dục mà nên”.
Mỗi người có một tính cách riêng cho mình, ví dụ bác Hồ một con

người vĩ đại, bác một con người có thể nói là hội tụ nhiều tính cách mà
chúng ta phải học tập như tiết cần cù, tiết kiệm, chịu khó,…
Tính cách có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm hệ thống thái độ và
hệ thống hành vi tương ứng:
Hệ thống thái độ của cá nhân có thể là thái độ tốt hoặc là thái độ xấu,
bao gồm các mặt sau đây:


Thái độ đối với tập thể và xã hội bao gồm các thái độ tốt là: yêu

nước, yêu chủ nghĩa xã hội, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh
thần hợp tác cộng đồng … hoặc là thái độ xấu như: bất mãn với chế độ,
chống phá chế độ nhà nước.


Thái độ đối với lao động, gồm các thái độ tốt như: yêu lao động,

cần cù, sáng tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm, đem lại năng xuất cao…
Ngược lại là sự lười biếng, dối trá, cẩu thả, lãng phí…

6




Thái độ đối với mọi người, gồm các thái độ như tính khiêm tốn,

lòng tự trọng, tinh thần tự phê bình…; ngược lại là tính tự kiêu, tính ích
kỷ…



Thái độ đối với bản thân, gồm các thái độ tốt như: Tự trọng,

nghiêm khắc với chính mình, tự chủ hành vi bản thân…Ngược lại là tính
buông thả, thiếu tự chủ,..
Hệ thống hành vi là biểu hiện cụ thể ra bên ngoài của hệ thống
thái độ, nó rất đa dạng. Người có tính cách ổn định thì hệ thống thái độ
sẽ tương ứng với hệ thống hành vi, cử chỉ, lời nói... Tuy nhiên, cũng có
khi không có sự thống nhất của thái độ với hành vi cử chỉ.
2.3. Năng lực
Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù
hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định đảm bảo
cho sự hoàn thành hoạt động đó có kết quả.
Con người ta không những khác nhau về nhu cầu, hứng thú, tính
tình, khí chất…mà còn khác nhau về khả năng, năng lực. Trong hoạt
động thực tế có khi cùng một điều kiện làm việc, cùng một công việc
nhưng có người đạt kết quả cao mà có người chỉ đạt kết quả thấp. Có
người làm tốt công việc này nhưng không thể làm tốt công việc khác…
Như vậy là có sự khác nhau về năng lực.
Để làm tốt một công việc, cá nhân cần phải có một số đặc điểm
thích ứng với công việc đó. Ví dụ như muốn học giỏi thì người phải có bộ
óc thông minh, chăm chỉ, say mê học tập, có chí hướng vươn lên, có
phương pháp học tập tốt… Sự phù hợp ấy gọi là năng lực.
Ví dụ: Đối với người họa sĩ,năng lực tạo hình thì thuộc tính chủ đạo
gồm tưởng tượng sáng tạo giúp cá nhân nắm được cái bản chất, xây
dựng hình tượng độc đáo của các hiện tượng, sự vật; thuộc tính làm chỗ
dựa là tính nhạy cảm cao của bộ máy phân tích thị giác giúp cho cá
7



nhân nhận xét nhanh chóng các đường nét của vật thể…; thuộc tính hỗ
trợ là tình cảm, thái độ của người họa sĩ đối với sự vật và hiện tượng. Nó
tạo thành cái nền hỗ trợ cho hoạt động tạo hình.
Người ta cũng phân biệt các mức độ của năng lực: có năng lực, tài
năng và thiên tài.
Tài năng chỉ mức độ cao hơn năng lực, người có tài năng ở lĩnh vực
hoạt động nào đó chính là người có khả năng giải quyết được vấn đề
một cách sáng tạo, tạo ra được những giá trị to lớn trong cuộc sống.
Ví dụ: Nguyễn Du có tài thơ ca, Bùi xuân Phái có tài hội họa.
Thiên tài chỉ mức độ cao nhất của năng lực. Người thiên tài thể
hiện sự hoàn thành một cách xuất chúng một hoạt động nào đó, họ là
những vĩ nhân trong lịch sử. Chẳng hạn như Mác, Ăngghen, Lênin là
những bậc thiên tài đã xây dựng nên học thuyết Mác-Lênin.
Năng lực được phân loại theo các căn cứ khác nhau.
Căn cứ vào mức độ chuyên biệt của năng lực thì người ta phân
loại năng lực là thành năng lực chung và năng lực chuyên môn [năng lực
riêng].
Năng lực chung là năng lực cần thiêt cho nhiều loại hoạt động
khác nhau. Nó đảm bảo cho cá nhân nhanh chóng nắm vững tri thức
trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau [ví dụ như thông minh, thính
tai, tinh mắt, tháo vát…].
Năng lực chuyên môn là loại năng lực đảm bảo cho cá nhân hoạt
động đạt kết quả đối với một lĩnh vực nhất định. Chẳng hạn các năng
lực tổ chức, hội họa, toán học, âm nhạc, sư phạm, … là những năng lực
chuyên môn.
Sự hình thành năng lực: Người ta sinh ra không phải đã có sẵn
năng lực đối với hoạt động nào đó, mà phải qua quá trình hoạt động,
rèn luyện năng lực mới hình thành và bộc lộ. “Có khổ luyện mới thành
tài”, “có công mài sắt có ngày nên kim”. Năng lực gắn liền với hoạt động
và hình thành trong hoạt động. Tuy nhiên, sự hình thành năng lực phụ

8


thuộc vào nhiều yếu tố, sau đây chúng ta tìm hiểu sự hình thành năng
lực và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
2.4 Khí chất
Khí chất là một thuộc tính tâm lý gắn liền với kiểu hoạt
động thần kinh tương đối bền vững của cá nhân đặc trưng cho hoạt
động tâm lý về cường độ, tốc độ, nhịp độ, thể hiện sắc thái riêng về
hành vi và cử

chỉ của người đó.

Giữa các cá nhân với nhau có sự khác biệt khá rõ rệt trong những
đặc điểm bên ngoài của hành vi. Một số người linh hoạt, nhiệt tình, số
khác lại chậm chạp, điềm đạm; có người cởi mở, dễ tiếp xúc với mọi
người, có người lại kín đáo, không cởi mở, đóng kín bản thân. Những
đặc điểm này chỉ thuần túy là những đặc điểm bên ngoài của hành vi,
không liên quan gì đến việc khả năng kiềm chế của người đó như thế
nào, tình cảm, thái độ của người đó ra sao, họ trung thực hay giả dối…
Những khác biệt này là những khác biệt về khí chất. – khác biệt về
cường độ, tính linh hoạt, tính cân bằng của các phản ứng hành vi của cá
nhân.
Khí chất thể hiện cá nhân phản ứng như thế nào trong các tình
huống xác định của cuộc sống. Nó tạo phong thái hành vi, ứng xử và do
đó ảnh hưởng đến các quan hệ của con người - dễ xây dựng quan hệ, dễ
thích ứng hay ngược lại khó xây dựng các quan hệ với người khác, khó
thích ứng.
Khí chất có nguồn gốc ở kiểu hoạt động thần kinh cấp cao và do
các tính chất [cường độ, sự cân bằng, tính năng động] của quá trình

thần kinh [hưng phấn và ức chế] quy định.
Căn cứ vào các đặc tính cường độ, sự cân bằng, tính năng động
của phản ứng hành vi của cá nhân người ta phân biệt các loại khí chất:
hoạt [hoạt bát], đằm [bình thản], nóng [nóng nảy] và ưu tư.
Người tính nóng: bồng bột, sôi nổi, dễ bị kích động, lăn vào công
việc, dùng nghị lực để tác động đến người khác; trực tính, kiên nghị,
9


gặp thất bại hay thay đổi tâm trạng, mất hứng thú, “bốc” lại khi gặp
việc khác hấp dẫn.
Người tính hoạt: nhanh nhẹn, cân bằng, linh họat, cởi mở trong
công việc mà anh ta hứng thú; dễ quen với mọi người, chịu đựng giỏi
trước những biến đổi nhanh, thích ứng mau; dễ tiếp nhận cái mới, mềm
dẻo trong cách ứng xử, dễ gây được thiện cảm chung.
Người tính đằm: cân bằng về tình cảm và hành động, bình tĩnh, ung
dung, tự kiềm chế cao, suy nghĩ cẩn thận nhưng chậm chạp, khó thích
ứng với những thay đổi nhanh, khó chan hòa mau chóng mà cần thời
gian mới “ăn ý” được với mọi người, kiên trì trong công việc từ đầu đến
cuối.
Người tính trầm [ưu]: tinh tường, hay ngượng, khó tiếp xúc với
mọi người; dễ mặc cảm, tự ti; cần sự giúp đỡ, cổ vũ thường xuyên; chỉ
cảm thấy tự tin trong những tình huống quen thuộc.
KẾT LUẬN

Cùng với sự phát triển của xã hội,con người cũng đang tự mình hướng tới sự
hoàn thiện nhân cách của mình. Các mỗi quan hệ như hoạt động,giáo dục, ở
gia đình,nhà trường, xã hội là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết, để giáo
dục cho con người ta lĩnh hội được những tri thức khoa học, để ngày một phát
triển nhân cách con người đến sự hoàn mĩ..Tốc độ công nghiệp phát triển cao

về kinh tế, văn hoá, xã hội đang có sự thay đổi rõ nét. Bên cạnh đó còn tồn tại
các tệ nạn xã hội,như các tệ nạn tham nhũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chủ
nhân tương lai của đất nước đó là trẻ em. Trong giáo dục cấp trung học phổ
thông,vấn đề giáo dục và phát triển nhân cách là một vấn đề rất quan trọng, ở
lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi về mặt tâm lý và sinh lý nên nhu cầu
hoàn thiện nhân cách để thích nghi với xã hội hoá và có thái độ tích cực hơn
trong cuộc sống là cực kỳ quan trọng. Giáo dục để tạo điều kiện và hướng cho
thế hệ trẻ các em dần dần tự hoàn thiện nhân cách.
10


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU………………………………………………………………...

1

1.KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH……………………………………………

2

2. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN………..

3

2.1. Xu hướng……………………………………………………….

3

2.1.1 Nhu cầu…………………………………………………………………………….


3

2.1.2 Hướng thú………………………………………………………………………….

4

2.1.3 Lý tưởng…………………………………………………………………………….

4

2.1.4 Niềm tin……………………………………………………………………………..

5

2.2. Tính cách…………………………………………………….…

6

2.3. Năng lực………………………………………………………..

7

2.4 Khí chất………………………………………………………….

9

KẾT LUẬN………………………………………………………………… 11

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyến Ngọc Bích,tâm lý học nhân cách-một số vấn đề lý luận,
NXBGD,1998
2. Đào Thị Oanh, vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày
nay,NXBFD,1998.
3. Nguyễn Quang Uẩn,tâm lý hoc đại cương, hn,1995.

4. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, Tâm lý học
đại cương, NXBĐHQG Hà Nội, 1998.
5. Trần Trọng Thủy, Bài tập thực hành Tâm lý học, NXBĐHQG Hà Nội,

2002.
6.Lê Tuyết Ánh, Kim Thị Dung, Nguyễn Thị Thanh Hằng, Nguyễn Ánh
Hồng, Tâm lý học đại cương, giáo trình ĐHKHXH&NV. Tp HCM, 2004.
7. //www.tamlyhoc.net/diendan/showthread.php?tid=729
8. //www.tamly.com.vn/home/?act=News-Detail-s-14-106Thu_vien_
%96_Vien_tam_ly_hoc_xin_tran_trong_thong_bao_sach_thang_7
_nam_2009.html

12



Video liên quan

Chủ Đề