Chó đối chiếu là gì

Nếu bạn đến bất cứ công viên nào, sẽ không khó để chứng kiến những cảnh tượng kỳ lạ.

Có thể là một anh chàng để râu ria xồm xoàm đi cùng một chú chó trông giống như là cả hai vừa từ cùng một tiệm cắt tóc mà ra, hoặc một gã trông rất hung hăng đang ôm trong tay một chú chó ngao.

Cũng có thể bạn sẽ thấy một cô gái trông dáng thể thao đang chạy bộ cùng chú chó săn giống Afghanistan.

Vì sao nhiều người chọn chó nuôi trông giống bản thân mình như vậy? Câu trả lời có thể giúp bạn quý trọng mối quan hệ mật thiết giữa con người với những người bạn bốn chân của mình.

Trên thực tế, việc ta chọn chú chó nào để nuôi có nhiều điểm tương đồng với cách mà chúng ta chọn bạn đời.

Michael Roy từ Đại học California, San Diego, là một trong những người đầu tiên thử nghiệm ý tưởng này.

Ông đã đến ba công viên nơi người ta dắt chó đi dạo và chụp hình những chú chó và chủ chó một cách riêng rẽ.

Sau đó, ông đã yêu cầu một nhóm những người tham gia thử nghiệm ráp các cặp này với nhau.

Tuy không đưa ra bất kỳ gợi ý gì, ông nhận ra những người này đã ráp đúng chủ và chó với độ chính xác khá cao.

Kết quả này sau đó đã được lặp lại nhiều lần.

Tuy nhiên, lưu ý là việc thử nghiệm chỉ được thực hiện với chó thuần chủng và đôi lúc chỉ dựa trên đánh giá về vẻ bề ngoài: Phụ nữ với tóc giá thường thích chó có tai dài thòng và những người mập thường thích chó cũng tròn trĩnh.

Tuy nhiên, việc thử nghiệm cũng cho thấy những đặc điểm ít nổi bật hơn, ví dụ như hình dạng mắt mà cả chủ và chó cùng có.

Khi che những đôi mắt trong các bức ảnh, việc ráp những cặp này lại trở nên khó khăn hơn cho những người tham gia thử nghiệm.

Có lẽ điều này là do con người thích tìm kiếm sự thân thuộc: Một chú chó có lẽ sẽ dễ được chấp nhận hơn nếu nó giống một thành viên nào đó trong gia đình mà chúng ta biết rõ và yêu thương.

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học cho rằng đây có thể là kết quả của cách chúng ta tiến hoá và tìm kiếm bạn đời: Hẹn hò với ai đó trông giống mình có thể đảm bảo rằng gene của họ thường thích hợp với chúng ta.

Nhờ vào đặc điểm này, chúng ta thường thích những gì hơi giống mình.

Một trong các ví dụ khác là con người thường chọn xe theo cùng một cách như khi chọn chó. Kết quả là xe của chúng ta thỉnh thoảng trông cũng giống chó nuôi của mình.

Chúng ta không những chỉ thích kết nối với những người trông giống mình, chúng ta còn dễ thích những người cùng cá tính.

Vài năm trước, Borbala Turcsan từ Đại học Eotvos ở Budapest đã quyết định thử xem liệu điều này có áp dụng với những người bạn bốn chân của chúng ta hay không.

“Mối quan hệ với chó nuôi là điều rất đặc biệt. Chúng không những chỉ là thú nuôi mà là thành viên gia đình, một người bạn, vì vậy chúng tôi nghĩ rằng chúng có thể phát triển song song với những mối quan hệ khác,” bà nói.

Khái niệm về tính cách của loài chó có lẽ nghe hơi ngớ ngẩn với một số người, nhưng các thí nghiệm trước đó cho thấy những đặc điểm từ con người, như hướng ngoại, có thể tác động lên tính cách của chó nuôi - ví dụ như chúng trở nên hung hăng hơn trước người lạ, hoặc chúng thường mắc cỡ và thường trốn sau chân chủ.

Hiện nay, thậm chí còn có một phiên bản tương đương với năm câu hỏi lớn về tính cách như ở con người giành cho loài chó: dễ bị kích thích, hướng ngoại, tận tâm, dễ chịu, cởi mở.

Phiên bản của loài chó dựa vào các hành động đơn giản, ví dụ như chúng thường ‘tỏ ra lười biếng’ hoặc ‘lãnh đạm’.

Turcsan ghi nhận việc chó và chủ thường có cá tính giống nhau.

“Những điểm tương đồng này thực ra thậm chí còn cao hơn ở những cặp đã cưới và giữa những người là bạn bè,” bà nói.

Điều quan trọng hơn là mối liên quan này không thể diễn giải bằng số năm mà chủ và chó nuôi đã sống cùng nhau. Có nghĩa là chó nuôi không hẳn chỉ đơn thuần bắt chước chủ.

Thay vào đó, cá tính này dường như đã có ở chú chó ngay từ ban đầu.

Có lẽ chúng ta đã khôn ngoan khi chọn những người bạn thật phù hợp với mình, vì nói gì đi nữa thì một chú chó cũng thường sống lâu hơn một mối quan hệ hôn nhân trung bình.

Con người đã thuần hoá chó 30.000 năm về trước để giúp chúng ta săn mồi. Nhưng sau đó chúng ta đã nuôi dưỡng chúng trở thành hình ảnh của chính mình, giúp chúng ta có được mối quan hệ tình cảm mật thiết vượt qua những giới hạn tự nhiên giữa hai loài.

Ngày nay, chúng giống như chúng ta, hành động như chúng ta, và khác với những con người khác, chúng luôn luôn đáp lại tình cảm của chúng ta.

Bằng nhiều cách khác nhau, chúng chính là hình ảnh phản chiếu của chính chúng ta. Không lạ gì khi chúng là những người bạn tốt nhất của con người.

Bản tiếng Anh bài này đã đăng trên BBC Future.

Tóm tắt nội dung tài liệu

VĂN HÓA - VĂN HỌC v




SO SÁNH-ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ
CÓ HÌNH ẢNH CON CHUỘT
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ĐỨC
LÊ THỊ BÍCH THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, 
Ngày nhận bài: 26/8/2018; ngày sửa chữa: 10/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018



TÓM TẮT
Bài viết nhằm mục đích chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về ý nghĩa của các thành ngữ
tiếng Việt và tiếng Đức chứa thành tố chỉ con chuột. Bằng phương pháp miêu tả và so sánh, kết
hợp với các thao tác phân tích, thống kê và tổng hợp, bài viết cho thấy một số nét tương đồng
giữa thành ngữ trong hai ngôn ngữ trên: Hình ảnh con chuột chủ yếu gắn với nghĩa tiêu cực; các
thành ngữ đều mang giá trị giáo huấn, dạy dỗ, có tính phê phán, chê bai hay phàn nàn. Tuy nhiên,
mỗi ngôn ngữ đều có những nét đặc trưng riêng. Thành ngữ tiếng Việt phản ánh những nét đặc
trưng văn hóa của làng quê Việt Nam, trong khi đó thành ngữ tiếng Đức liên quan nhiều tới tín
ngưỡng,...
Từ khóa: chuột, thành ngữ, văn hóa




1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thao
tác thống kê, phân tích và tổng hợp, cũng như so
Việc học tiếng Đức đối với nhiều người Việt sánh đối chiếu các thành ngữ có yếu tố chỉ con
không hề đơn giản, học thành ngữ tiếng Đức lại chuột trong tiếng Đức và tiếng Việt. Thành ngữ
càng phức tạp hơn. Vì vậy, chúng tôi nghĩ cần có tiếng Việt được chúng tôi tham khảo chủ yếu
những nghiên cứu so sánh-đối chiếu liên quan trong “Từ điển Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao Việt
tới cặp ngôn ngữ này, qua đó chỉ ra những điểm Nam. Quyển thượng” của Việt Chương [2005] và
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ để giúp “Thành ngữ học Tiếng Việt” của Hoàng Văn Hành
cho người học một mặt gặp ít khó khăn hơn, mặt [2004]. Thành ngữ tiếng Đức được tập hợp từ Từ
khác hiểu rõ hơn về văn hóa Đức. Với mục đích điển Duden Redewendungen: Wörterbuch der
nêu trên, bài viết này tập trung vào nghiên cứu deutschen Idiomatik [2012] và Lexikon der Zitate
đối chiếu thành ngữ tiếng Đức và tiếng Việt có sử und Redensarten.
dụng hình ảnh con chuột, để qua đó thấy được sự
giống nhau và khác nhau của các nghĩa biểu trưng, Để phục vụ cho bài viết này, chúng tôi thống
cũng như dấu ấn văn hóa của hai dân tộc trong các kê được 23 thành ngữ có thành tố chỉ con chuột
thành ngữ đó. trong tiếng Đức và 23 thành ngữ có thành tố chuột


KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
Số 17 [01/2019] 83
v VĂN HÓA - VĂN HỌC


trong tiếng Việt1. Trong bài viết này chúng tôi riêng lẻ [Duden Universal; Burger, 2007, tr. 11-12;
không muốn so sánh về mặt cấu trúc thành ngữ ở Fleischer và các tác giả khác, 2001, tr.108-109].
hai ngôn ngữ, mà chỉ muốn so sánh hình ảnh con Như vậy, thành ngữ được đặt trong quan hệ đối lập
chuột với các nét nghĩa biểu trưng cũng như dấu với các cấu trúc tự do [Fleischer, 2001, tr.108] hay
ấn của hai nền văn hóa Đức và Việt được thể hiện các cụm từ tự do [Burger, 2007, tr.12].
qua các thành ngữ có thành tố chỉ chuột trong tiếng
Đức và tiếng Việt. Theo Burger [2007], thành ngữ có những đặc
điểm chung sau đây: 1] Thành ngữ bao gồm ít nhất
2. QUAN NIỆM VỀ THÀNH NGỮ là hai từ trở lên; 2] Các cấu phần của một thành
ngữ chỉ có thể được hiểu trong phạm vi của thành
2.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt ngữ đó, nếu một yếu tố thay đổi thì nghĩa của thành
ngữ sẽ mất đi, bị hiểu sai hoặc trở nên vô nghĩa; 3]
Trong tiếng Việt, thành ngữ được đa số tác giả
Sự khác nhau giữa nghĩa từ vựng và nghĩa thành
hiểu là cụm từ/ngữ/tổ hợp từ cố định [Hoàng Phê,
ngữ: nếu sự khác nhau càng lớn thì tính thành ngữ
2003, tr.915; Nguyễn Thiện Giáp, 2002, tr.77; Mai
càng cao.
Ngọc Chừ, 2015, tr.190; Hoàng Văn Hành, 2004,
tr.27] và có giá trị biểu trưng về mặt nghĩa [Mai Ví dụ: Thành ngữ Öl auf die Lampe gießen
Ngọc Chừ, 2015, tr.190]. Ngoài ra, Hoàng Phê được cho là có tính thành ngữ rất cao; người ta
[2003] cũng đề cập tới việc không thể giải thích không thể dựa vào nghĩa của từng từ trong thành
nghĩa tổng thể của thành ngữ bằng nghĩa của các ngữ trên để suy ra nghĩa tổng thể của thành ngữ.
từ tạo nên nó. Trong số các định nghĩa của các tác Nếu dịch từng từ trong thành ngữ trên, ta có “đổ
giả nêu trên, chúng tôi thấy quan điểm về thành dầu vào đèn”. Tuy nhiên, nghĩa của thành ngữ trên
ngữ của Hoàng Văn Hành [2004, tr.27] diễn đạt lại là “uống rượu”. Nếu thay từ “Lampe” [đèn]
trọn vẹn nhất cách hiểu về thành ngữ: Đó là “một bằng một từ khác, ví dụ như “Pfanne” [chảo]
loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái - cấu
thì nghĩa “uống rượu” của thành ngữ Öl auf die
trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, được sử dụng
Lampe gießen không còn nữa.
rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong
khẩu ngữ.” 3. PHÂN BIỆT THÀNH NGỮ VỚI TỤC
NGỮ, CỤM TỪ CỐ ĐỊNH VÀ CỤM TỪ TỰ DO
Như vậy, có thể thấy thành ngữ có hai đặc trưng
nổi bật là: 1] Tính ổn định, cố định về thành phần Trong nghiên cứu của mình, Hoàng Văn Hành
từ vựng và cấu trúc; 2] Tính hoàn chỉnh và bóng [2004, tr.38] đã đưa ra những đặc trưng dùng làm
bẩy về nghĩa [Hoàng Văn Hành, 2004, tr.28-29]. tiêu chí để nhận diện thành ngữ và tục ngữ, qua
đó làm nổi bật sự khác biệt giữa hai loại này. Các
Ví dụ: Thành ngữ Chuột chạy cùng sào có tính
đặc trưng đó là đặc trưng về hình thái cấu trúc, có
ổn định rất cao. Không thể thay thế chuột bằng
vần điệu, có đối điệp; chức năng biểu hiện nghĩa
mèo, hay sào bằng que trong thành ngữ trên, vì
định danh; chức năng biểu hiện hình thái nhận
khi đó nghĩa gốc của thành ngữ đó sẽ mất. Xét
thức và đặc trưng ngữ nghĩa. Ở ba đặc trưng đầu
về nghĩa, thành ngữ trên rất hoàn chỉnh, trọn vẹn;
tiên, thành ngữ có sự phân biệt rõ ràng với tục ngữ.
ngoài ra nó còn có sự bóng bẩy về nghĩa, mang
Trong khi thành ngữ là tổ hợp từ cố định, mang
tính hình tượng cao.
quan hệ hình thái thì tục ngữ là câu cố định và
2.2. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Đức mang quan hệ cú pháp. Thành ngữ định danh sự
vật, hiện tượng, quá trình, biểu thị khái niệm bằng
Trong giới Đức ngữ học, thành ngữ được hình ảnh biểu trưng, còn tục ngữ định danh sự tình,
nhiều tác giả cho là các cụm từ cố định mà nghĩa sự kiện, trạng huống, biểu thị phán đoán bằng hình
tổng thể của nó không thể suy ra từ các thành tố tượng biểu trưng. Chỉ ở đặc trưng ngữ nghĩa thì ở


KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
84 Số 17 [01/2019]
VĂN HÓA - VĂN HỌC v



cả thành ngữ và tục ngữ, hai tầng ngữ nghĩa được chuột ngày hoặc biến thể là Nhấm nhắt như chuột
tạo bằng phương thức so sánh và ẩn dụ hóa. ngày xuất phát từ thực tế về thói quen sinh hoạt
của loài chuột là thường đi tìm thức ăn về đêm,
Khác với Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện khi mọi người đã đi ngủ. Lúc đó chuột ăn vụng
Giáp [2002, tr.79-86] lại phân biệt thành ngữ với dễ dàng hơn, không sợ bị bắt. Nhưng khi kiếm ăn
ngữ định danh và cụm từ tự do. Ông phân biệt ban ngày, lúc mọi người đang thức, nó sẽ phải lén
thành ngữ với ngữ định danh dựa trên các đặc lút hoạt động. Thành ngữ này chê bai những kẻ đi
điểm về nội dung và về mặt cấu trúc cú pháp, phân lại, ra vào lén lút, làm việc ám muội. Chuột vốn là
biệt với cụm từ tự do ở mặt hình thức và sự hoàn loài hay phá hoại ngấm ngầm và trốn trong nhà mà
chỉnh về nghĩa. Cụ thể thì thành ngữ là tên gọi gợi nhiều khi ta không biết. Đến khi cháy nhà, bị khói
cảm của hiện tượng nào đó, có ý nghĩa cụ thể, hình hun thì chuột mới lộ ra. Tương tự như thế, trong
thành ở phạm vi mà sự phản ánh đòi hỏi cần có cuộc sống có những kẻ làm chuyện xấu một cách
sự bình giá và biểu cảm, hay gặp quan hệ tường ngấm ngầm và chỉ lộ chân tướng, bị phát hiện khi
thuật,...; còn ngữ định danh là tên gọi thuần túy có chuyện. Điều này có thể thấy trong thành ngữ
của sự vật, diễn đạt đồng thời quan hệ chủng và Cháy nhà ra mặt chuột. Thành ngữ Mèo mẹ bắt
loại, có cả diện chung và diện riêng của ý nghĩa, chuột con cũng dùng để chê bai những người có
hình thành ở phạm vi hoạt động trí tuệ của con khả năng lớn nhưng lại chỉ làm những việc nhỏ.
người, ít gặp quan hệ tường thuật. Thành ngữ khác Hay khi muốn chê những việc lúc đầu có vẻ to tát,
với cụm từ tự do ở tính hoàn chỉnh về nghĩa và tính hoành tráng nhưng khi kết thúc lại gần như chẳng
phi cú pháp trong quan hệ. có gì, rất đối lập với lúc đầu, người Việt dùng Đầu
voi đuôi chuột. Và để chê người ta làm được việc
4. THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG này nhưng lại làm hỏng việc khác, người Việt có
ĐỨC CÓ CHỨA HÌNH ẢNH CON CHUỘT thành ngữ Đánh chuột làm vỡ bình sứ/Ném chuột
vỡ lu, còn khi muốn chê ai đó không che dấu được
4.1. Thành ngữ tiếng Việt toàn bộ hành vi, sự việc và bị lộ một phần bí mật,
người Việt nói Chuột chạy hở đuôi. Những người
Trong suy nghĩ của người Việt, khi nói tới làm việc không tới nơi tới chốn sẽ bị chê là Dở dơi
chuột, thường chúng ta nghĩ ngay tới con vật bẩn dở chuột/Nửa dơi nửa chuột, còn những kẻ bày
thỉu, chuyên phá hoại, gây bệnh dịch, ăn vụng, ..., cách cho kẻ xấu biết lối tránh tội, không bị trừng
tức là những ý nghĩ rất xấu về con vật này. Có phát sẽ bị phê phán là Bày đường cho chuột chạy.
thể thấy điều này trong định nghĩa đầu tiên về
con chuột ở Từ điển Tiếng Việt [Hoàng Phê, 2003, Tiếng Việt có 6 thành ngữ có thành tố “chuột”
tr.185]. Vì thế, hình ảnh con chuột trong thành ngữ chỉ sự châm biếm. Trước hết có thể kể đến Chuột
tiếng Việt có thành tố “chuột” cũng thường gắn gặm chân mèo. Mèo và chuột vốn là kẻ thù truyền
liền với những ý nghĩa tiêu cực. kiếp, thế mà chuột lại dám đến gần mèo, thậm chí
gặm chân mèo. Thành ngữ này chỉ hành động liều
Trong số 23 thành ngữ có yếu tố “chuột” của lĩnh, nguy hiểm. Cũng đặt trong mối quan hệ với
tiếng Việt, có tới 11 thành ngữ mang hàm ý phê mèo nhưng thành ngữ Chuột cắn dây cột mèo vừa
phán, chê bai. Liên quan tới chê bai về hình thức có giá trị phê phán, vừa có giá trị châm biếm, cười
có thể kể đến các thành ngữ sau đây: Hôi như những kẻ ngu muội cứu giúp kẻ thù của mình.
chuột chù dùng để chê bai về tính chất của ai đó Tương tự như vậy, để phê phán và chê cười những
[có mùi rất hôi], còn Lù rù như chuột chù phải kẻ không ra gì nhưng lại tỏ vẻ, chúng ta có Chuột
khói được sử dụng để miêu tả dáng vẻ của một chù đeo đạc; để phê phán, châm biếm những kẻ
người trông rất lù rù, kém tinh ranh. Ngoài các xấu xa phải núp dưới vỏ hào nhoáng để che bớt
thành ngữ trên thì các thành ngữ khác chủ yếu sự xấu xa của mình, người Việt dùng Chuột đội vỏ
chê bai về tính cách. Ví dụ thành ngữ Thì thụt như trứng. Cũng châm biếm nhưng có tính trào phúng


KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
Số 17 [01/2019] 85
v VĂN HÓA - VĂN HỌC


là thành ngữ Chuột chù lại có xạ hương và Voi đú, tr.319], những người nông dân trước đây thường
chó đú, chuột chù cũng nhảy cẫng. Ở thành ngữ gác cây sào trong nhà để vắt quần áo hay treo đồ
đầu tiên, ta thấy chuột chù vốn rất hôi, vậy mà lại đạc, vì vậy mới có hình ảnh Chuột chạy cùng sào,
khoe là mình thơm. Dựa trên ý đó, thành ngữ này chuột mà leo lên sào, bị đuổi thì chỉ còn đường
hàm ý chỉ những kẻ không có tài cán gì nhưng lại chạy từ đầu nọ sang đầu kia, để rồi cuối cùng cũng
khoe mẽ. Trong khi đó thành ngữ thứ hai cười chê sẽ bị bắt. Ở nông thôn Việt Nam, để mèo không đi
những kẻ đua đòi, thích bắt chước người khác một lang thang sang nhà khác, người ta cũng hay dùng
cách ngu ngốc, vì thế trở nên lố bịch. dây để cột con mèo lại, vì thế mới có thành ngữ
Chuột cắn dây cột mèo. Ngoài ra, còn một số hình
Ngoài những thành ngữ mang tính phê phán, ảnh khác đặc trưng cho văn hóa của Việt Nam như
châm biếm hay trào phúng kể trên, các thành ngữ bình sứ hay cái lu; đây vốn là những thứ rất quý
trong tiếng Việt có thành tố chuột [5] còn cho thấy giá đối với người dân Việt thời xưa; vì thế mới có
triết lý sống hoặc những bài học giáo huấn/bài học thành ngữ Đánh chuột làm vỡ bình sứ/Ném chuột
kinh nghiệm. Khi nói về việc làm những chuyện vỡ lu.
vừa sức, phù hợp với khả năng, người Việt dùng
Mèo nhỏ bắt chuột con; nói về sự cần cù, nhẫn nại 4.2. Thành ngữ tiếng Đức
khi làm việc gì đó giống như con mèo rình chuột,
người Việt nói Rình như mèo rình chuột. Trong Trong số 23 thành ngữ tiếng Đức có hình ảnh
cuộc sống có những lúc chúng ta rơi vào tình trạng chuột, có 10 thành ngữ được dùng để phê phán,
nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng thì không khác chê bai hay phàn nàn. Để phê phán ai đó có cách
nào chuột sa cũi mèo, hoặc khi tình thế đến bước hành xử không ổn, để cho người khác phải chờ đợi
đường cùng, con người cũng giống như chuột chạy quyết định của mình quá lâu nhưng cuối cùng lại
cùng sào, hay bỗng nhiên được sống trong một gia đưa ra một quyết định có tính tiêu cực, làm người
đình giàu có, sung túc thì chẳng khác nào chuột sa kia thất vọng, người Đức dùng thành ngữ Mit
chĩnh gạo/chuột sa hũ nếp/chuột sa lọ mỡ. Triết lý jemandem Katz und Maus spielen [Chơi trò mèo
là người đã nhiều tuổi sẽ không còn bạo gan như và chuột]. Để chỉ những người đã một lần ăn cắp
những thanh niên trẻ tuổi nữa được thể hiện qua thì sẽ luôn lặp lại chuyện đó trong những lần sau,
thành ngữ Mèo già lại thua gan chuột nhắt. người Đức sử dụng Die Katze lässt das Mausen
nicht [Mèo không để chuột yên]. Tương tự như
Trong số 23 thành ngữ được lựa chọn để nghiên vậy, để miêu tả cách hành xử hỗn láo, xấc xược
cứu, chỉ có duy nhất một thành ngữ dùng hình ảnh của người nào đó, tiếng Đức dùng sich mausig
con chuột để miêu tả hình dáng bên ngoài của con machen. Khi phàn nàn, kêu ca về một hoàn cảnh,
người khi họ bị ướt sũng. Đó là thành ngữ Ướt như sự việc nào đó không ổn, người Đức có thành ngữ
chuột lột. Mäuse merken/riechen [Nhận ra/ngửi thấy chuột]
hay Das ist eine Maus im Mehl [Có một con chuột
Bên cạnh các nét nghĩa biểu trưng được trình trong đống bột mì]. Từ thực tế là khi con chuột
bày ở trên, các thành ngữ có hình ảnh chuột còn [màu xám] ở trong đống bột mì màu trắng thì sẽ
ghi đậm khá rõ dấu ấn văn hóa Việt. Ví dụ qua bị phát hiện ra ngay, và rõ ràng là đống bột có vấn
thành ngữ Chuột sa chĩnh gạo/Chuột sa hũ nếp/ đề. Cũng mang nghĩa phàn nàn, nhưng thành ngữ
Chuột sa lọ mỡ, ta có thể thấy Việt Nam là một zum Mäusemelken sein [Vắt sữa chuột] lại miêu
nước nông nghiệp, lương thực chính là gạo, ngoài tả tâm trạng bực mình, phát điên lên vì việc gì đó.
ra người Việt cũng hay dùng gạo nếp làm lương Thành ngữ này xuất phát từ thực tế là: Vắt sữa
thực, thay vì dùng dầu ăn như hiện nay thì trước chuột là một công việc hết sức khó khăn và không
đây họ lại dùng mỡ để nấu ăn. Hay hình ảnh cây hề dễ chịu chút nào. Khi phàn nàn về việc dù đã
sào cũng rất quen thuộc với nông thôn Việt Nam, rất cố gắng, đã tư vấn hết sức xong vẫn không
nhất là trong quá khứ. Theo Việt Chương [2005, thu được kết quả như ý, người Đức nói Der Berg


KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
86 Số 17 [01/2019]
VĂN HÓA - VĂN HỌC v



kreißt und gebar eine Maus [Quả núi trở dạ rồi mỡ], dùng để miêu tả cuộc sống sung sướng, no
sinh ra một con chuột]. Để chê bai cái gì đó quá đủ, giống như con chuột vốn rất thích ăn thịt mỡ
ít ỏi, người Đức dùng thành ngữ Das trägt eine thì nay được ngồi ở đúng nơi nó thích. Chuột vốn
Maus auf dem Schwanze fort [Cái đó thì một con là con vật hay bị đuổi bắt nên nó phải ẩn mình,
chuột cũng mang được trên cái đuôi của mình]. phải giữ im lặng, hay chỉ quan sát từ xa và điều
Sự chê bai còn thấy ở thành ngữ graue Maus [Con đó cũng đi vào thành ngữ Đức Still wie eine Maus
chuột xám] vốn dùng để chỉ một người không có [im lặng như chuột] hay Mäuschen sein/spielen
gì nổi bật, ở thành ngữ weiße Mäuse sehen [nhìn wollen [Muốn là/đóng vai một con chuột nhắt]
thấy chuột trắng] vốn dùng để miêu tả tình trạng dùng để chỉ một người muốn quan sát, nghe ngóng
tâm lý bị ảo giác. một cách bí mật sự kiện hoặc cuộc thoại nào đó.
Khi muốn nói không có gì thay đổi, mọi chuyện
So với các thành ngữ mang tính phê phán, chê đã định sẵn rồi, người Đức nói Davon beißt die
bai, phàn nàn thì các thành ngữ có tính châm biếm Maus keinen Faden ab [Con chuột không cắn đứt
ít hơn hẳn [1]: Có thể thấy một chút châm biếm sợi chỉ]. Thành ngữ này bắt nguồn từ câu chuyện
nhẹ nhàng ở [Vor Scham/Angst] am liebsten in ein liên quan tới ngày 17/3 là ngày mà con chuột của
Mauseloch kriechen [chỉ muốn bò ngay vào hang Thánh Gertrud cắn sợi chỉ ở con quay và điều đó
chuột do xấu hổ/sợ hãi] khi nói tới tâm lý rất xấu có nghĩa là công việc đồng áng cho mùa đông đã
hổ/sợ hãi của ai đó. chấm dứt và có thể chuyển sang công việc đồng
áng cho mùa hè. Nếu con chuột không cắn đứt chỉ
Số lượng các thành ngữ chỉ sự bông đùa cũng ở con quay thì mọi thứ vẫn giữ nguyên như cũ,
rất ít [2]: Khi muốn đùa bỡn, người Đức dùng hình không có gì thay đổi. Cũng có nguồn gốc từ câu
ảnh những con chuột trắng weiße Mäuse để chỉ chuyện trong quá khứ, khi tàu bè thường hay bị
cảnh sát giao thông trong trang phục màu trắng; chìm, không trừ bất cứ ai, bất cứ thứ gì, người Đức
hay muốn đe dọa bông đùa người Đức nói dass nói Mit Mann und Maus untergehen [Cả người và
dich das Mäuslein beißt [Chuột nhắt cắn đấy], chuột đều chết chìm]. Con chuột tượng trưng cho
nhưng thực chất thành ngữ này lại có nghĩa là “cậu những thứ nhỏ bé, không có ý nghĩa cũng theo
điên à?”. người chìm xuống biển.
Bên cạnh đó, người Đức cũng đưa ra triết lý, Hình ảnh con chuột không chỉ xuất hiện trong
giáo huấn thông qua các thành ngữ có thành tố các thành ngữ mang tính phê phán, châm biếm,
chuột [9]: Khi khuyên ai đó muốn đạt được nhiều hay giáo huấn như trên, mà còn xuất hiện trong
thứ thì phải dùng đúng mồi, trong tiếng Đức có các thành ngữ miêu tả tính cách [khen] hay miêu
thành ngữ Mit Speck fängt man Mäuse [Dùng thịt tả hình thức của con người: Trong mắt người Đức,
mỡ sẽ bắt được chuột]. Hoặc cũng từ việc đúc rút chuột là con vật rất nhanh nhẹn, hoạt bát và vì vậy
kinh nghiệm trong cuộc sống, người Đức thấy họ mới so sánh những người nhanh nhẹn, hoạt
những phụ nữ lớn tuổi cũng muốn tìm kiếm các bát với con chuột flink wie eine Maus [nhanh như
chàng trai trẻ, giống như những con chuột già chuột]. Và người nào đó bị ướt từ đầu tới chân,
cũng thích ăn thịt mỡ như trong thành ngữ Alte trông thật đáng thương sẽ được so sánh với một
Mäuse fressen auch gern Speck. Khi miêu tả con chuột vừa tắm xong: wie eine gebadete Maus.
hoàn cảnh sống của ai đó rất nghèo túng, người
Đức dùng hình ảnh con chuột trong nhà thờ Arm Dấu ấn văn hóa Đức cũng thể hiện khá rõ qua
wie eine Kirchmaus [Nghèo như con chuột trong các thành ngữ. Ví dụ hình ảnh nhà thờ trong thành
nhà thờ], vì nhà thờ không phải là nơi có đồ ăn ngữ arm wie eine Kirchmaus [Nghèo như chuột
cho chuột có thể tìm kiếm hoặc ăn vụng thức ăn. trong nhà thờ]. Đa số người Đức theo đạo Thiên
Ngược lại với thành ngữ trên là Wie die Maus im chúa giáo và vì vậy có thể thấy rất nhiều nhà thờ ở
Speck sitzen [Như con chuột ngồi trong miếng thịt Đức. Đây chính là một biểu tượng cho tín ngưỡng


KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
Số 17 [01/2019] 87
v VĂN HÓA - VĂN HỌC


của họ. Ngoài ra còn thấy loại lương thực chính sa chĩnh gạo/Chuột sa hũ nếp/Chuột sa lọ mỡ
được người Đức sử dụng nhiều là bột mì [Mehl] [tiếng Việt] và Wie die Maus im Speck sitzen [như
hay thịt mỡ [Speck] cũng xuất hiện trong thành con chuột ngồi trong miếng thịt mỡ] [tiếng Đức],
ngữ có thành tố chuột. dùng chỉ miêu tả hoàn cảnh sống sung sướng, no
đủ của ai đó.
Bảng 1 bên dưới là bảng biểu thống kê về mức
độ đa nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột tiếng 5.2. Sự khác biệt
Việt và tiếng Đức.
Tiếng Đức có duy nhất một thành ngữ mà ở đó
5. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT cả con chuột [hoạt bát, nhanh nhẹn], cũng như cả
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột đều mang
TIẾNG ĐỨC nghĩa tích cực. Đó là flink wie eine Maus [nhanh
như chuột], dùng để khen một ai đó có tính cách
5.1. Sự tương đồng nhanh nhẹn, khéo léo khi di chuyển hoặc khi làm
việc. Trong khi đó, tiếng Việt không có một thành
Hình ảnh con chuột gắn với những điều không ngữ nào gắn với hình ảnh con chuột lại mang tính
tốt đẹp, đều xuất hiện ở cả hai ngôn ngữ. Theo tích cực như vậy. Tương tự, các thành ngữ chỉ sự
đó, nghĩa của các thành ngữ gắn với hình ảnh con bông đùa cũng chỉ xuất hiện trong tiếng Đức.
chuột cũng thường mang tính tiêu cực. Phần lớn
các thành ngữ trong hai ngôn ngữ Việt và Đức đều Chuột trong thành ngữ tiếng Đức gắn liền với
mang tính phê phán, chê bai, phàn nàn hay châm yếu tố màu sắc là trắng và xám như trong thành
biếm. Bên cạnh đó cũng có khá nhiều thành ngữ ngữ weiße Mäuse, weiße Mäuse sehen hay graue
mang tính triết lý, giáo huấn, dạy dỗ. Maus. Yếu tố màu sắc gắn liền với chuột không hề
xuất hiện trong tiếng Việt.
Và để miêu tả hình thức của ai đó bị ướt từ
đầu đến chân, người Việt và người Đức đều dùng Thành ngữ tiếng Đức có nguồn gốc gắn với
hình ảnh con chuột bị ướt để so sánh. Người Việt các câu chuyện liên quan tới tín ngưỡng, còn thành
nói Ướt như chuột lột, còn người Đức nói Wie eine ngữ tiếng Việt không có hiện tượng đó. Tuy nhiên,
gebadete Maus [Ướt như con chuột vừa tắm xong]. nét văn hóa của làng quê Việt Nam hiện lên khá rõ
trong thành ngữ tiếng Việt, đó là hình ảnh cây sào,
Chuột trong các thành ngữ tiếng Việt và tiếng chĩnh gạo, hũ nếp, lọ mỡ, bình sứ,… Trong khi đó,
Đức đều được đặt trong quan hệ với mèo, với mỡ những hình ảnh của văn hóa làng quê ở Đức rất
[nhưng ở tiếng Việt là lọ mỡ, còn tiếng Đức là mờ nhạt.
miếng thịt mỡ]; đều gắn với các động từ như cắn,
bị bắt. Ngoài ra, ở cả hai ngôn ngữ đều xuất hiện 6. KẾT LUẬN
thành ngữ có hình ảnh con chuột và bản thân thành
ngữ đó mang tính tích cực, mặc dù hình ảnh con Bài viết này cho thấy một số khác biệt trong
chuột trong các thành ngữ đó không làm người ta thành ngữ có hình ảnh con chuột trong tiếng Đức
liên tưởng tới sự tiêu cực hay tích cực. Đó là Chuột và tiếng Việt. Hình ảnh con chuột trong thành ngữ

Bảng 1: Mức độ đa nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột tiếng Việt và tiếng Đức
Ngữ
Phê phán, Châm biếm,
nghĩa Triết lý, giáo Miêu tả hình Miêu tả tính
chê bai, trào phúng Bông đùa
huấn thức cách [khen]
phàn nàn
Thành ngữ
Tiếng Việt 11 6 0 5 1 0
Tiếng Đức 10 1 2 8 1 1



KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
88 Số 17 [01/2019]
VĂN HÓA - VĂN HỌC v



tiếng Đức gắn với màu sắc, với tín ngưỡng và với Mai Ngọc Chừ [chủ biên], Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt
sự nhanh nhẹn, nhưng những điều này không thấy Hùng, Bùi Minh Toán [2015], Nhập môn ngôn ngữ học,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt. Ngược lại,
một số hình ảnh đặc trưng cho văn hóa làng quê Việt Chương [2005], Từ điển Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao
thể hiện khá sắc nét trong tiếng Việt, còn trong Việt Nam, Quyển thượng, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
tiếng Đức rất mờ nhạt. Nguyễn Thiện Giáp [2002], Từ vựng học Tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không phải là
Hoàng Văn Hành [2004], Thành ngữ học Tiếng Việt, NXB
không có những điểm tương đồng giữa hệ thống Khoa học xã hội, Hà Nội.
thành ngữ của hai ngôn ngữ này, ví dụ hình ảnh
Hoàng Phê [2002] [chủ biên], Từ điển tiếng Việt, NXB Đà
con chuột ướt sũng được dùng để tả một người bị
Nẵng, Đà Nẵng.
ướt từ đầu đến chân, hình ảnh con chuột trong cả
hai ngôn ngữ phần lớn đều mang nghĩa tiêu cực, T.G [2018], Hình ảnh chuột trong các sáng tác dân gian,
truy cập ngày 30/9/2018, .
nghiên cứu sau, chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ thêm về
Burger, Harald [2007], Phraseologie. Eine Einführung am
nguồn gốc xuất xứ của các thành ngữ để có thể làm
Beispiel des Deutschen. Erich Schmidt Verlag. Berlin.
rõ nét hơn dấu ấn văn hóa Đức và Việt./.
Duden Redewendungen: Wörterbuch der deutschen
Chú thích: Idiomatik [Duden - Deutsche Sprache in 12 Bänden,
Band 11] [2012].
1. Trong luận văn của mình, Nguyễn Thị Bảo [2003]
đã thống kê được 47 thành ngữ tiếng Việt có thành tố chuột. Duden – Deutsches Universalwörterbuch: Das
umfassende Bedeutungs-wörterbuch der deutschen
Con số đó trong nghiên cứu của Phan Văn Quế là 30 và của
Gegenwartssprache [2015]: Bibliographisches Institut.
Trịnh Cẩm Lan là 37 [dẫn theo Nguyễn Thị Bảo 2003, tr.16].
Fleischer, Wolfgang/Helbig, Gerhard/Lerchner, Gotthard
Tài liệu tham khảo: [Hrsg.] [2001]: Kleine Enzyklopädie. Deutsche Sprache.
Nguyễn Thị Bảo [2003], Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật Peter Lang. Frankfurt am Main.
trong thành ngữ tiếng Việt [so sánh với thành ngữ tiếng Lexikon der Zitate und Redensarten. Königswinter: Tandem
Anh], Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, TP. Hồ Chí Minh. Verlag. [o.J.]




A CONTRASTIVE ANALYSIS OF VIETNAMESE AND GERMAN IDIOMS
CONTAINING THE IMAGE OF A MOUSE
LE THI BICH THUY
Abstract: This paper aims to point out the similarities and differences in meaning of Vietnamese
and German idioms containing the image of a mouse. Using descriptive and comparative methods
in combination with the critical analysis, statistics and synthesis, this article points out shows
some similarities of the Vietnamese and German idioms: Mice are often negatively associated
negative things; almost idioms have the educational, critical and complaining values. However,
each language has its own special features. Vietnamese idioms have special features of culture of
the village in Vietnam, while German idioms are related to religion, etc.
Keywords: mouse, idioms, culture
Received: 26/8/2018; Revised: 10/10/2018; Accepted: 20/12/2018




KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ
Số 17 [01/2019] 89

Page 2

YOMEDIA

Bài viết nhằm mục đích chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về ý nghĩa của các thành ngữ tiếng Việt và tiếng Đức chứa thành tố chỉ con chuột. Bằng phương pháp miêu tả và so sánh, kết hợp với các thao tác phân tích, thống kê và tổng hợp, bài viết cho thấy một số nét tương đồng giữa thành ngữ trong hai ngôn ngữ trên: Hình ảnh con chuột chủ yếu gắn với nghĩa tiêu cực, các thành ngữ đều mang giá trị giáo huấn, dạy dỗ, có tính phê phán, chê bai hay phàn nàn.

21-05-2019 232 10

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề