Chuyên đề thủ tục hành chính nhà nước

 CN. Đặng Công Khôi

                                                                                                                                           Vụ Pháp chế – Bộ Tài chính

 25.1. Tổng quan về nền hành chính và những vấn đề đặt ra trong cải cách hành chính

25.1.1. Các thành phần cơ bản của nền hành chính

Hành chính nhà nước là hệ thống tổ chức và định chế của quyền hành pháp với các hình thức hoạt động đa dạng và được xác định bằng luật pháp. Quản lý nhà nước trong mọi trường hợp đều nhằm tổ chức và quản lý đời sống xã hội một cách hợp lý, hợp pháp. Thông qua cơ chế áp dụng quy phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước có quyền đưa ra các quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính trực tiếp, liên tục, thường xuyên hàng ngày để giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao; hoạt động đó xảy ra trong từng Bộ, ngành, địa phương và trong từng lĩnh vực và có tính chất bắt buộc theo quy định của pháp luật.

Xét cả về lý luận và thực tiễn thì nền hành chính nhà nước sẽ được kết cấu gồm các yếu tố hợp thành hệ thống về tổ chức [Bộ máy, con người, nguồn lực công] và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp. Cụ thể như sau:

– Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành và các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp…

– Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu thực thi quyền hành pháp.

– Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính được đảm bảo về số lượng và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của hành chính nhà nước.

– Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu thực thi công vụ của các cơ quan và công chức hành chính.

Theo quy định của Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Như vậy, hoạt động của nền hành chính nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành thống nhất của Chính phủ nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định, phát triển kinh tế -xã hội theo định hướng. Trong quá trình đó, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ được phân công, phân cấp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước chủ động, sáng tạo, phát huy các thế mạnh riêng có của từng ngành, từng địa phương vào việc thực hiện mục tiêu chung của cả nền hành chính. Để thực thi nhiệm vụ hiệu quả, Chính phủ sẽ tiến hành các giải pháp để cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước

25.1.2. Quan điểm, định hướng cải cách hành chính

Về mặt lý luận, cải cách hành chính nhằm tìm ra mô hình Chính phủ, mô hình thực thi quyền hành pháp sao cho phù hợp với yêu cầu mới; xác định nội dung, trình tự cách thức tiến hành cải cách hành chính; tác động của nó tới các ngành, các lĩnh vực khác. Về mặt thực tiễn, cải cách hành chính nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Đại hội VI của Đảng đã xác định: “để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức, bộ máy của các cơ quan”; Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII [1/1995] khẳng định tầm quan trọng của cải cách hành chính “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Quốc gia”. Nghị quyết số 17 NQ/TW ngày 01/8/2007 của Ban chấp hành Trung ương Đảng [khóa X] về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục xác định chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Trên cơ sở đó, cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở các nghị quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Cụ thể là:

– Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và cả bộ máy nhà nước. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt nhất cho nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

– Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

– Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng. Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính. Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.

Cải cách nền hành chính nhà nước là một quá trình liên tục mang tính định hướng nhằm làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp ngày càng thích ứng hơn với yêu cầu của sự vận động và phát triển nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Có nhiều lý do khách quan đòi hỏi nền hành chính nhà nước phải được cải cách như:

– Xu hướng phát triển chung của các nhà nước là phải thu hẹp phạm vi hoạt động của bộ máy hành chính.

– Trình độ dân trí và tinh thần dân chủ ngày càng cao đã đặt ra những yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính và người dân càng tham gia trực tiếp vào công việc của cơ quan hành chính;

–  Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đã đòi hỏi hoạt động hành chính nhà nước phải thay đổi cả về hình thức, nội dung; phải tuân theo nhiều thông lệ quốc tế trong hoạt động hành chính nhà nước.

– Khu vực phi chính phủ và kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, tạo cơ hội để họ tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực hoạt động vốn do nhà nước độc quyền.

Trong khi đó, do có những yếu kém, hạn chế, không phù hợp từ bên trong bộ máy hành chính nhà nước là một trong những lý do chủ quan phải cải cách đổi mới như:

– Nền hành chính công truyền thống vốn có sức ì và trì trệ, nhất là tồn tại trong cơ chế tập trung, quan liêu. Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng cơ chế xin- cho vẫn tồn tại trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

– Hệ thống thể chế hành chính nhà nước, nhất là thể chế về kinh tế rất chậm được đổi mới.

– Tổ chức bộ máy quản chính nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực cần phải được tổ chức lại cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

– Phương thức tác động của chủ thể hành chính đến các đối tượng quản lý cần được thay đổi theo yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội.

25.1.3. Mục tiêu, yêu cầu và nội dung của cải cách hành chính

a. Mục tiêu cải cách hành chính:

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội. Trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công. Cụ thể:

– Chức năng của các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định phù hợp, không còn sự chồng chéo, trùng lắp, chuyển những việc không nhất thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;

– Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý, theo nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực;

– Chính quyền địa phương các cấp được tổ chức hợp lý, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn;

 – Thủ tục hành chính liên quan tới cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng đơn giản;

  – Phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước được tiếp tục đổi mới theo hướng hiệu quả;

 – Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công được triển khai trên diện rộng, chất lượng dịch vụ công được nâng cao;

 – Thực hiện cơ cấu công chức theo vị trí việc làm, khắc phục xong về cơ bản tình trạng công chức cấp xã không đạt tiêu chuẩn theo chức danh;

– Đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình;

 – Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.

b. Yêu cầu cải cách hành chính:

– Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ trong đời sống xã hội; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và sự tham gia của mọi người dân vào tiến trình phát triển của đất nước.

– Cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, phải bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng phí.

– Xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rạch ròi trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt động có kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

– Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ nhân dân.

– Cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.

c. Nội dung của cải cách hành chính:

Cải cách hành chính là một quá trình thay đổi căn bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy Nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm [dịch vụ hàng hóa] phục vụ nhân dân thông qua phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Cải cách hành chính là những thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được của giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn 2011 – 2020 tiếp tục đề ra 6 nội dung CCHC gồm: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công; Hiện đại hoá hành chính. Trên cơ sở đó xác định các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai trong từng giai đoạn như sau:

[i] Giai đoạn 1 [2011-2015]: Trọng tâm cải cách hành chính là cải cách thể chế, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách thủ tục hành chính. Các mục tiêu cụ thể phải đạt đến năm 2015 bao gồm:

– Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương để không có sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước; trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được phân định hợp lý;

– Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới cơ bản;

– Thể chế về sở hữu, đất đai, doanh nghiệp nhà nước được xây dựng và ban hành ngày càng phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

– Thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, tổ chức, thủ tục hành chính giữa các cơ quan nhà nước với nhau được cải cách theo hướng gọn nhẹ, đơn giản, mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan hành chính nhà nước;

– Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai 100% vào năm 2013 tại tất cả các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính đạt mức trên 60%;

– Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trên các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm 2015;

– 50% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; trên 80% công chức cấp xã ở vùng đồng bằng, đô thị và trên 60% ở vùng miền núi, dân tộc đạt tiêu chuẩn theo chức danh;

– 60% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện trên mạng điện tử; 100% cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định; cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp.

[ii] Giai đoạn 2 [2016-2020]: Trọng tâm cải cách hành chính là xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là cải cách chính sách tiền lương và phấn đấu đạt mục tiêu chung của Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Các mục tiêu cụ thể phải đạt là:

– Có được hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn;

– Hệ thống các cơ quan hành chính từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả;

– Thủ tục hành chính được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020;

– 100% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ đáp ứng nhiệm vụ được giao;

– Chính sách tiền lương cán bộ, công chức được cải cách cơ bản; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội;

– Sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trên các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020; sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020.

– Đến năm 2020, 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tiếp ở mức độ 3 và 4 đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau.

25.2. Thực tiễn cải cách hành chính

25.2.1. Trong cải cách, hoàn thiện thể chế

a. Công tác cải cách thể chế được xác định là nhiệm vụ quan trọng và được quan tâm chỉ đạo thực hiện trong suốt thời gian qua và đã đạt được kết quả nhất định. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. Trong hai nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI và khoá XII, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 148 Luật, 46 Pháp lệnh; mỗi năm Chính phủ ban hành gần 200 Nghị định, do đó đã tạo lập khuôn khổ thể chế cơ bản cho sự vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bộ máy tổ chức nhà nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Cải cách thể chế đã thể hiện rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, giảm sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính của các cơ quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng, giảm thiểu cơ chế “xin – cho”… trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành.  

Chính quyền địa phương các cấp cũng đã chú trọng ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để cụ thể hoá các văn bản của Trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Trong đó đã đặc biệt quan tâm tới văn bản, thể chế để thu hút đầu tư, xây dựng khu công nghiệp, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển, phân cấp, uỷ quyền cho các sở và cấp huyện trên nhiều lĩnh vực.

b. Hạn chế của công tác này là số lượng văn bản được ban hành nhiều nhưng chất lượng chưa cao, chưa thể hiện nhất quán và thấu suốt tinh thần cải cách hành chính. Hệ thống văn bản còn thiếu tính toàn diện, đồng bộ, còn chồng chéo, trùng lắp; mục tiêu khắc phục tính cục bộ ngành, lĩnh vực trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản chưa đạt yêu cầu. Tổ chức thực hiện thể chế vẫn còn nhiều yếu kém, chậm được khắc phục. Nhiều thể chế không được tổng kết, sửa đổi, bổ sung kịp thời trong quá trình kiểm tra thực hiện.

Một số thể chế cơ bản còn chậm được xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện. Thể chế hoạt động công vụ, về trách nhiệm thực thi công vụ của từng cơ quan hành chính, chức trách của từng vị trí cán bộ, công chức chưa đủ rõ và cụ thể, chưa đảm bảo tính minh bạch. Tình trạng Luật chờ Nghị định; Nghị định chờ Thông tư vẫn còn phổ biến.

c. Để khắc phục tình trạng trên, việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước phải tập trung vào những lĩnh vực sau:

 – Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ các thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;

– Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là phân biệt rõ vai trò quản lý của nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản vốn của nhà nước, tách rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước;

– Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hoá theo hướng định rõ trách nhiệm làm đến đâu của nhà nước trong chăm lo đời sống vất chất và văn hoá của nhân dân, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.

– Xây dựng và hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính.

25.2.2. Cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính

a. Cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính là một trong những lĩnh vực được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, trọng tâm là thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trong giai đoạn 2007-2010. Kết quả là:

– Kết thúc giai đoạn 1 của Đề án, các cơ quan có thẩm quyền đã thống kê và công khai được trên 5.700 thủ tục hành chính, trên 9.000 văn bản và trên 100.000 biểu mẫu thống kê thủ tục hành chính trong phạm vi cả nước.

– Trong giai đoạn 2, các bộ, ngành và địa phương đã tiến hành tự rà soát thủ tục hành chính và hoàn thành đúng tiến độ, đạt chỉ tiêu đơn giản hoá tối thiểu 30% thủ tục theo chỉ đạo của Thủ tướng. Đến nay, đã có trên 5.500 thủ tục hành chính được rà soát; 453 thủ tục hành chính được kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ; 3749 thủ tục hành chính được kiến nghị sửa đổi, bổ sung; 288 thủ tục hành chính được kiến nghị thay thế, đạt tỉ lệ đơn giản hóa 81%.  

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã quan tâm và tích cực chỉ đạo thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ. Trong giai đoạn từ 2001 – 2010, đã có 88,3% cơ quan cấp tỉnh, 98,5% cấp huyện, 96,7% cấp xã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã góp phần tăng cường năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước; đã hình thành kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Mặt khác, cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã điều chỉnh mối quan hệ giữa người dân và công chức, tạo cơ chế giám sát, quản lý của người dân đối với cơ quan nhà nước, giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức thuộc quyền, giảm bớt phiền hà, tiêu cực, thể hiện rõ bản chất và mục tiêu của công tác cải cách thủ tục hành chính.

b. Cải cách thủ tục hành chính tuy đã được thực hiện từ nhiều năm nay, nhưng nhìn chung vẫn chưa “xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân” như mục tiêu đã đề ra. Triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông vẫn còn thiếu đồng bộ, thủ tục giải quyết một số loại hồ sơ hành chính còn bị cắt khúc theo cấp hành chính, chưa tạo thành quy trình giải quyết thống nhất từ Trung ương đến địa phương nên vẫn còn gây phiền hà cho tổ chức, công dân khi thực hiện các giao dịch hành chính. Quan hệ phối hợp trong giải quyết hồ sơ giữa các cấp, các ngành tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót, ý thức cộng đồng trách nhiệm giữa các cơ quan phối hợp giải quyết chưa cao, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.

 Ý thức trách nhiệm thi hành công vụ, thái độ phục vụ nhân dân của đa số cán bộ, công chức tuy đã có chuyển biến nhưng còn chậm. Một bộ phận cán bộ, công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả trách nhiệm còn yếu, chưa thạo việc, hạn chế về năng lực. Việc giải thích, tiếp nhận hồ sơ của người dân không được thoả đáng, đầy đủ dẫn đến người dân phải đi lại nhiều lần. 

c. Để khắc phục tình trạng trên, tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP đã xác định những nội dung cần tiếp tục tổ chức thực hiện đến năm 2020 như sau:

Rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp; Các bộ, ngành trung ương và địa phương khẩn trương triển khai giai đoạn 3 của Đề án 30 theo hướng tự sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các thủ tục không còn phù hợp.

– Kiểm soát chặt việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật; Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính bằng mọi hình thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết các thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước.

25.2.3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

a. Đã thực hiện điều chỉnh một bước quan trọng về chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động của bộ máy nhà nước.

Một số công việc trước đây do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, nay đã được chuyển cho các bộ, ngành Trung ương và phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện. Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức các bộ, ngành Trung ương đã cơ bản khắc phục được những chồng chéo, trùng lắp, từng bước thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện. Bước đầu đã phân định được hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước với hoạt động của đơn vị sự nghiệp dịch vụ công thông qua các thể chế về tổ chức, nhân sự, tài chính công.

b. Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan về một số lĩnh vực nên khó xác định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và kết quả công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực còn chồng chéo đó. Mặt khác, việc rà soát chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan hành chính các cấp chưa triệt để nên thực hiện chủ trương “chuyển một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận” còn hạn chế. Chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền  đô thị và nông thôn.

Phân cấp Trung ương – địa phương khá mạnh và toàn diện, nhưng điều kiện để thực hiện về tài chính, con người, cơ sở vật chất chưa được chú trọng đầu tư đồng bộ nên làm hạn chế tác dụng của sự phân cấp. Số lượng các đơn vị hành chính gia tăng đáng kể, kéo theo là gia tăng số lượng cán bộ, công chức của các đơn vị hành chính mới.

c. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện rà soát để định rõ, phù hợp chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của tất cả cơ quan trong hệ thống hành chính từ trung ương đến cơ sở, xoá bỏ những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính, khắc phục tình trạng bỏ sót nhiệm vụ quản lý nhà nước không giao cho cơ quan nào thực hiện, có cơ chế phối hợp để bảo đảm thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước liên quan đến nhiều cơ quan hành chính; chuyển giao mạnh những công việc cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ đảm nhận.

Phân định đúng chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp, trên cơ sở đó xác lập mô hình tổ chức phù hợp của chính quyền địa phương, phân biệt rõ chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Thực hiện phân cấp hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm các điều kiện cần thiết để chính quyền địa phương thực hiện có hiệu quả thẩm quyền được phân cấp và bảo đảm sự kiểm tra của trung ương đối với địa phương trong triển khai phân cấp để khi cần thiết có những điều chỉnh, can thiệp phù hợp;

Cơ cấu tổ chức của Chính phủ và các bộ, ngành gọn nhẹ, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chính quyền địa phương các cấp được tổ chức hợp lý, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn. Đến năm 2020, giảm hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện so với hiện nay.

25.2.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

a. Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng phân công và phân cấp rõ ràng hơn. Đã phân định khá rõ trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương. Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng được phân cấp cho người đứng đầu các cơ quan hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công thực hiện phù hợp với tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.

Đề án cải cách chính sách tiền lương đã được triển khai và có những điều chỉnh theo lộ trình phù hợp trong từng giai đoạn, góp phần từng bước ổn định đời sống của cán bộ, công chức khi giá cả thị trường có sự biến động.

Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã bước đầu được đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Đã xây dựng và từng bước chuẩn hoá các chương trình, phương pháp đào tạo quản lý nhà nước đối với chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên; chương trình đào tạo tiền công vụ, chương trình bồi dưỡng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.  

b. Một số hạn chế trong công tác này là việc phân cấp, tăng cường trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, xây dựng hệ thống thông tin quản lý đội ngũ cán bộ, công chức… chậm được triển khai dẫn đến các cơ quan hành chính vẫn ôm đồm nhiều việc, cản trở và can thiệp sâu vào hoạt động của các đơn vị cơ sở.

Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm thay đổi. Công tác đánh giá cán bộ, công chức còn chung chung, hình thức, chưa có tiêu chí phân loại cụ thể, rõ ràng, cho nên chưa đánh giá chính xác được chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội.

 Tiền lương còn thấp dẫn đến đời sống của cán bộ, công chức còn nhiều khó khăn, chưa trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình”. Môi trường làm việc chưa thu hút được những người giỏi vào làm việc; Nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có một số đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những cải cách cơ bản, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng vẫn trùng lắp nhiều, sử dụng nội dung cũ, nặng lý thuyết, thiếu thực hành, chưa có tính liên thông.

c. Một số nội dung cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới:

Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước và phục vụ nhân dân; xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý;

Xây dựng hợp lý cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức gắn với vị trí  việc làm trên cơ sở xác định rõ về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; hoàn thiện chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; hoàn thiện chế độ đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả công việc; có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân;

Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu kiến thức, kỹ năng trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.

25.2.5. Cải cách tài chính công

a. Cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách đã có những đổi mới quan trọng. Luật Ngân sách nhà nước [sửa đổi] xác định rõ ngân sách nhà nước gồm 2 cấp và đổi mới phân cấp ngân sách theo hướng tăng tính chủ động, thẩm quyền và trách nhiệm cho các bộ, ngành, địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Đặc biệt, đã xác định quyền và trách nhiệm quyết định ngân sách ở các địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện, Quốc hội quyết định ngân sách và phân bổ ngân sách hàng năm trong phạm vi quốc gia.

Công tác quản lý và điều hành ngân sách tiếp tục được đổi mới, nguồn thu ngân sách tiếp tục tăng. Việc cấp phát vốn đầu tư, cấp phát hạn mức kinh phí đối với các đơn vị dự toán và các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí đã cải tiến theo hướng vừa tạo chủ động cho các đơn vị dự toán trong sử dụng kinh phí, vừa giảm nhiều thủ tục không cần thiết cho cả cơ quan tài chính và các đơn vị thụ hưởng ngân sách.

Triển khai thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sử dụng biên chế và kinh phí hành chính đã được các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc chấp hành và đạt được kết quả, góp phần nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức trong sử dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời, từng bước khắc phục tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới, cấp dưới thụ động chờ đợi sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên; gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính về phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước, tạo tiền đề để đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo kết quả đầu ra. 

Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng đã tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp thực hiện kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy dân chủ, chủ động, sáng tạo của người lao động; nâng cao kỹ năng quản lý, từng bước giảm sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp trên; thực hiện công khai, minh bạch trong phân công thực hiện nhiệm vụ, công tác nhân sự, chi tiêu tài chính được thực hiện, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Nhờ đó, thu nhập bình quân của người lao động từng bước được cải thiện, việc chi trả lương và các khoản thu nhập khác cho người lao động do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ gắn với hiệu suất công tác, đã hạn chế việc chi trả bình quân, góp phần thu hút được lao động có trình độ vào làm việc tại các đơn vị; hạn chế nạn “chảy máu” chất xám trong các đơn vị sự nghiệp công.

Thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP, nhiều tổ chức KH&CN đã phát huy hiệu quả trong hoạt động, đã tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của thủ trưởng đơn vị KH&CN, tạo điều kiện phát huy tiềm lực, gắn kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh, đào tạo nhân lực, thu hút nguồn lực của xã hội cho hoạt động KH&CN và đầu tư có trọng điểm.

b. Một số tồn tại, hạn chế trong cải cách tài chính công chủ yếu do khâu tổ chức triển khai chưa được đồng bộ, thống nhất. Cụ thể là:

– Việc thực hiện Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sử dụng biên chế và kinh phí chi hành chính vẫn còn một số cơ quan chưa thật sự quan tâm, chỉ đạo thực hiện sát sao. Nhận thức về chủ trương thực hiện cơ chế tự chủ của một bộ phận cán bộ công chức chưa cao nên không thấy đó là điều kiện thuận lợi cho thủ trưởng và cán bộ, công chức trong đơn vị chủ động sử dụng biên chế và kinh phí được giao, gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc.

– Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP nhiều thủ trưởng đơn vị sự nghiệp chỉ quan tâm đến quyền lợi được hưởng mà chưa thấy hết trách nhiệm, nghĩa vụ khi thực hiện quyền tự chủ.

– Nhiều tổ chức KH&CN, nhất là ở các địa phương còn chưa nhận thức đầy đủ rõ tác động của cơ chế tự chủ nên có tư tưởng e ngại, chưa muốn chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP mà muốn tiếp tục được sự hỗ trợ của Nhà nước để hoạt động một cách thụ động. 

c. Công tác cải cách tài chính công vẫn được xác định là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách hành chính giai đoạn 2011 – 2020 và sẽ tập trung vào những nội dung căn bản sau:

Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách.

– Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn;

– Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;

– Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, tiếp tục thực hiện cơ chế khoán chi hành chính tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ các cơ quan hành chính.

– Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, y tế, dân số – kế hoạch hoá gia đình, thể dục, thể thao. Đổi mới cơ chế hoạt động nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khảm, chữa bệnh và viện phí phù hợp; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.

25.2.6. Trong hiện đại hoá hành chính

a. Lề lối và phương thức làm việc được đổi mới, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và từng thành viên Chính phủ trong toàn bộ hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Đồng thời, đổi mới công tác quản lý, điều hành của Chính phủ trên cơ sở phân định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, tạo điều kiện để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Phó Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo đối với các ngành, lĩnh vực trọng điểm và những vấn đề lớn, phức tạp về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Tăng cường sự chỉ đạo, quản lý của Chính phủ đối với các cơ quan thuộc Chính phủ bằng việc phân công các thành viên Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực, bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động sự nghiệp của các cơ quan thuộc Chính phủ.

Kỷ luật, Kỷ cương hành chính có những tiến bộ quan trọng. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các cơ quan hành chính được chấn chỉnh kịp thời, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu, khẳng định có sự chuyển biến bước đầu trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước là các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp với người dân, doanh nghiệp.

Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cơ bản được các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện đã triển khai áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và từng bước chuẩn hóa quy trình quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước.

Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, đã tạo ra bước đổi mới trong phương thức chỉ đạo – điều hành, tăng cường hình thức họp, giao ban, trao đổi trực tuyến giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan hành chính cùng cấp và giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp và công dân, kịp thời giải đáp và tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của người dân và doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta.

  Trong thời gian thực hiện Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2010, cả nước đã thực hiện đầu tư, xây dựng, cải tạo được 1300 công trình trụ sở xã; Chính phủ đã ban hành các hệ thống tiêu chuẩn, định mức về trang thiết bị, diện tích phòng làm việc, thiết kế mẫu các công sở hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá, thay thế cho các tiêu chí, định mức cũ đã lạc hậu.

b. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự chuyển biến, thay đổi cơ bản trong phương thức và lề lối làm việc của các cơ quan hành chính. Hoạt động của các cơ quan hành chính vẫn chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vẫn còn tình trạng hội họp nhiều, giấy tờ  hành chính gia tăng. Quy chế làm việc của cơ quan hành chính nhà nước còn chung chung và hình thức, chưa sát với đặc điểm và thực tế công tác của cơ quan, đơn vị. Quy trình giải quyết công việc kéo dài; chưa rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức về những việc  tham mưu, đề xuất; kỷ luật hành chính không nghiêm.

Ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan nhà nước chủ yếu quy mô nhỏ, chưa phát huy hết hiệu quả của ứng dụng CNTT. Các hệ thống thông tin chuyên ngành, quy mô quốc gia tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai trên diện rộng. Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp còn hạn chế, các trang thông tin điện tử chủ yếu mới chỉ cung cấp thông tin, còn ít trường hợp người dân có thể nộp hồ sơ xin cấp phép, đăng ký qua mạng.

c. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020 có 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tiếp ở mức độ 3 và 4 đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý quy trình công việc trong nội bộ cơ quan hành chính; trong giao dịch với các cơ quan hành chính khác và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động phục vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công.

Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng thông tin điện tử do các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên cung cấp. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân đáp ứng yêu cầu đơn giản, thể chế và cải cách thủ tục hành chính; Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính nhà nước.

25.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính của Bộ Tài chính

25.3.1. Nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng, cán bộ, công chức các đơn vị trong thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính

Các Thủ trưởng đơn vị thuộc Bộ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ theo phân công; đảm bảo chất lượng của kế hoạch cải cách hành chính hàng năm; xác định rõ kết quả cụ thể phải đạt được, những nhiệm vụ phải thực hiện gắn với trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, đơn vị chủ trì thực hiện và bố trí nguồn lực bảo đảm cho việc thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, trung thực, khách quan kết quả thực hiện cải cách hành chính.

Xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tài chính để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác chỉ đạo phải đảm bảo rõ các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách hành chính, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Kết quả cải cách hành chính hàng năm của đơn vị là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo, điều hành và trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị và là một trong những tiêu chí đánh giá, bình xét danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân; là một trong các tiêu chí đánh giá quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ.

25.3.2. Thực hiện khắc phục, cải thiện chỉ số cải cách hành chính [Par Index] của Bộ Tài chính

Đẩy mạnh việc phổ biến tuyên truyền các chủ trương, chính sách và pháp luật liên quan đến nhiệm vụ cải cách hành chính, phương pháp đánh giá, xác định chỉ số Par index cho cán bộ, công chức. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức của lãnh đạo, cán bộ, công chức đối với công tác này.

 Hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức theo hướng củng cố và bổ sung giảng dạy các chuyên đề về cải cách hành chính. Qua công tác đào tạo giúp cán bộ, công chức làm nhiệm vụ cải cách hành chính nắm vững các nội dung cải cách hành chính, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động tích cực trong các nhiệm vụ được giao.

Xác định kế hoạch cải cách hành chính là một kế hoạch thành phần quan trọng trong Kế hoạch công tác hàng năn. Kế hoạch cải cách hành chính phải được ban hành kịp thời, bảo đảm bao quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị. Xây dựng kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin hàng năm; nghiên cứu nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của ngành bao gồm hệ thống mạng thông tin, trang thiết bị máy tính, đẩy mạnh thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến lên mức mức độ 3-4.

Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các thủ tục hành chính, thực hiện rà soát, nghiên cứu đề xuất phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý của Bộ Tài chính, trong đó tập trung vào các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Thuế, Hải quan, Kho bạc, Chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao sự hài lòng cho cá nhân và tổ chức tham gia, thực hiện.

Định kỳ hàng quý đánh giá tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính theo kế hoạch cải cách hành chính năm của Bộ, căn cứ kết quả thực hiện, đối chiếu kết quả với các tiêu chí chấm điểm để có chấn chỉnh kịp thời.

25.3.3. Hoàn thành các chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư, Thông tư liên tịch do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo chất lượng, đúng tiến độ.

Các đơn vị thuộc Bộ phải xác định xây dựng pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị và quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện. Theo đó, các đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể để xác định rõ nội dung công việc và phân công thực hiện; thực hiện phối hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc Bộ có liên quan, Vụ Pháp chế trong thực hiện các bước soạn thảo và phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban của Quốc hội trong việc thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo. Cụ thể là:

– Bám sát các bước trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản [từ gửi lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động của văn bản; thẩm định; thẩm tra;… đến trình cấp có thẩm quyền ký ban hành] theo quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành; trên cơ sở đó, kịp thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan đẩy nhanh tiến độ các bước trong quy trình soạn thảo, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy trình soạn thảo đồng thời kịp thời dự báo khả năng hoàn thành để có biện pháp xử lý kịp thời [xin điều chỉnh lùi thời hạn trình, rút ra khỏi chương trình nếu cần] nhằm hạn chế tối đa tình trạng chậm muộn, nợ đọng văn bản.

– Huy động sự tham gia tích cực của các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập cũng như các chuyên gia, nhà khoa học đóng góp xây dựng dự thảo văn bản có chất lượng, tránh việc xây dựng chính sách không sát với thực tế, gây lãng phí tiền của.

– Chủ động mời các cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia ngay từ đầu của quá trình soạn thảo, nhất là các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm thẩm định, thẩm tra văn bản và đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản sau khi ban hành giúp cho các bên có liên quan có thể góp ý đối với dự thảo văn bản ngay từ đầu, hạn chế những ý kiến trái chiều phải giải trình ở những vòng cuối của quy trình soạn thảo.

25.3.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hình thành đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có năng lực và trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu;  giải quyết căn bản vấn đề tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm công chức yên tâm làm việc, tận tâm làm việc; trên cơ sở đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, tinh thần và thái độ phục vụ với người dân.

25.3.5. Nhân rộng cơ chế một cửa, một cửa liên thông;  tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính để đạt được các mục tiêu cụ thể đã xác định trong Chương trình cải cách hành chính 10 năm như: xây dựng Cổng thông tin điện tử; tăng tỷ lệ gửi văn bản bằng thư điện tử để giảm bớt chi phí cho Nhà nước, đồng thời nâng dần mức độ minh bạch các thủ tục hành chính vì một nền công vụ quốc gia trong sạch, chuyên nghiệp, hiệu quả./. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo của Chính phủ về tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính  nhà nước giai đoạn 2001-2010 và Chương trình cải cách hành chính  nhà nước giai đoạn 2011-2020.

2. Chuyên đề 4 “Nền hành chính và cải cách hành chính nhà nước [Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, đoàn thể năm 2013].

3. Phần kiến thức và kỹ năng về hành chính nhà nước trong chương trình  cao cấp lý luận Chính trị – Hành chính của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

4. Nghị quyết 17, Hội nghị Trung ương 5, Khóa X; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Khóa XI

5. Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020;  Nghị quyết 76/NQ-CP của Chính Phủ ngày 13 tháng 06 năm 2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 30C của Chính phủ về chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020.


Video liên quan

Chủ Đề