Hình ảnh người phụ nữ trong tự tình 2 và thương vợ

Có một câu nói từ xưa rằng: "Một trai xem như có, mười nữ cũng như không". Đây có lẽ là tư tưởng lỗi thời lạc hậu mà trong xã hội ngày nay, bất cứ ai cũng muốn phê phán. Thế nhưng, điều này lại được coi là "chân lý" trong xã hội phong kiến. Cuộc sống của những người con gái, người chị, người vợ, người mẹ thời xưa kia có biết bao điều éo le khổ cực. Cùng là con người nhưng bị đối xử bất công ngang trái. Nỗi khổ ấy ngày xưa thật ít người thấu hiểu, họ đã đưa lòng cảm thương của mình vào trong những bài thơ thật ý nghĩa. Hai trong số đó là Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương và Thương Vợ của Trần Tế Xương

Xã hội phong kiến, bốn từ đay nghiến, bốn từ khiến thật nhiều con người bất bình nhưng bất lực, bốn từ ấy đã từng viết lên biết bao thành kiến với người phụ nữ, đè lên cả quyền được sống của họ. Người phụ nữ yếu ớt trong xã hội xưa, họ bị dập liễu vùi hoa như trong truyện của Nguyễn Du, họ lực bất tòng tâm, không đất sống như trong truyện của Nguyễn Dữ.

Đến với Hồ Xuân hương, ta nhìn thấy đời sống, tâm tư người phụ nữ trong xã hội xưa qua các tác phẩm của bà. Thơ của hồ Xuân Hương chứa chan đầy tâm sự, tâm tình, đầy tâm trạng . Rất ít người, đặc biệt lại là một người phụ nữ làm được điều ấy - thể hiện trọn vẹn "kiếp phụ nữ" qua lăng kính chủ quan của một "cái tôi" cá nhân đầy cá tính. 

Khác với Hồ Xuân Hương, thơ Tú Xương mang hương vị của nhiều bậc Nho sĩ "đại trượng phu". Người phụ nữ ít khi xuất hiện trong thơ của những thi sĩ ấy, nếu có thì chính là vào một trường hợp thật là đặc biệt, ví dụ như khi vợ mất ở Nguyễn Khuyến. Viết về vợ ngay khi vợ còn sống giống như Tú Xương chính là một trường hợp hiếm trong văn học trung đại.

Nhưng, dù có khác nhau là thế, một bên là phụ nữ viết cho phụ nữ, một bên là nam giới viết về phụ nữ; song Tự Tình 2 và Thương Vợ lại gặp nhau ở một điểm dừng, nghĩa là Hồ Xuân hương và Tế Xương cũng đã gặp nhau ở niềm đồng cảm với vẻ đẹp của người phụ nữ, cũng như số phận long đong bất hạnh của họ.

Đẹp, nhắc đến phụ nữ ta phải nhắc đến chữ đẹp. Nói một cách dân gian rằng "đẹp cả nước lẫn cái", ý rằng người phụ nữ từ bao đời đều mang những vẻ đẹp cả về ngoại hình, tâm hồn, việc làm, hành động. 

Trong Tự Tình, Hồ Xuân Hương táo bạo đặt tên, gọi tên vẻ đẹp ấy bằng cụm từ "cái hồng nhan". Như vậy đã thừa nhận cái đẹp ở phái yếu. Cái đẹp ấy được đối sánh với non nước: "Trơ cái hồng nhan với nước non". Nhịp thơ 1/3/3 nhấn mạnh từ "tro", tức là phơi ra, lộ ra. Chính vì thế, ta thấy được vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ của "cái hồng nhan"

Còn trong Thương Vợ, cái đẹp của người phụ nữ không chỉ là ngoại hình xinh xắn vừa mắt mà còn là các đức tính quý giá của con người: Tảo tần, chịu thương chịu khó, kiên trung son sắt:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

"Mom sông" là phần đất ở bờ nhô ra phía lòng sông, vị trí ấy khá nguy hiểm, có thể sạt lở bất cứ lúc nào; tàu thuyền thường ghé qua để buôn bán trao đổi nhanh chóng. Chính tại nơi ấy bà Tú "quanh năm" suốt tháng "buôn bán", thường trực với hiểm nguy. Mượn hình ảnh con cò trong ca dao, Tú Xương viết về vợ:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

"Quãng vắng" - nguy hiểm; "đò đông" - lam lũ. Thêm vào đó, hai từ "lặn lội" và "eo sèo" còn được đảo lên để khắc cho thêm sâu vào nỗi vất vả của người vợ. Thế nhưng bà Tú vẫn bươn trải, xoay sở để "nuôi đủ năm con với một chồng". Sự đảm đang ấy là được coi là nét đẹp truyền thống ở người phụ nữ Việt. Người phụ nữ luôn lo toan chu toàn công việc gia đình, là hậu phương vững chắc cho những "đại trượng phu" đi làm công việc lớn. Vì thế khi nhắc đến một nhà thơ "của thời đại", một nhà thơ "hiện thực và trữ tình" Tú Xương, ta làm sao có thể không nhắc đến công lao của bà Tú?

Với những gì đã có và đã làm, người phụ nữ đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Thế nhưng điều tưởng chừng như là chân lý ấy lại trở nên quá xa vời với người phụ nữ xưa. Câu "hồng nhan bạc mệnh" được nhắc đến qua vô vàn tác phẩm, vô vàn miệng con người. Xã hội trọng nam khinh nữ, mục ruỗng thối nát đẩy họ vào những hoàn cảnh éo le lại càng éo le, oan trái lại càng oan trái.

Phải làm sao? người phụ nữ phải làm sao? Họ không thể vùng dậy đứng lên, không thể cao ngạo nói lớn với đất trời, họ chỉ có thể trầm lắng cất tiếng "tự tình" lúc canh khuya cô độc

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Đêm khuya thanh vắng là lúc con người thường đối diện với chính bản thân mình để xót thương, để tự vấn, tự nhìn ngắm lại chính bản thân mình. "Tự tình" là một cách đối diện như thế. Đấy là lúc âm vang của cuộc đời dường như không động đến con người, song con người lại cảm nhận được cả bước đi của cuộc đời. Tiếng trống canh chỉ văng vẳng, tức là người nghe phải lắng tai nghe, nhưng nhịp điệu của nó lại quá đầy đủ, với tất cả sự hối hả, thúc giục, thúc giục người ta soi lại đời mình:

Trơ cái hồng nhan với nước non 

Người phụ nữ biết được giá trị của mình. Thế nhưng biết không phải để sung sướng, tự hào; trái lại càng ngậm ngùi cay đắng. "Cái hồng nhan", ba từ lại mang sắc thái thê lương quá, "trơ cái hồng nhan" nghĩa là không biết xấu hổ, hay cũng là lẻ loi giữa dòng đời. Hồng nhan đấy, đã trở thành như thế đấy, trở thành thứ chẳng có ích gì, thậm chí đáng xấu hổ. 

Bẽ bàng, khổ tủi, người phụ nữ mượn rượu giải sầu

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Người ta uống rượu đang tỉnh thành say, say để quên đi mọi lo toan phiền muộn. Thế mà, Xuân Hương càng uống, càng say lại càng tỉnh. "Tỉnh" rồi lại càng thấm thía hơn nỗi cô độc, buồn phiền. Vầng trăng tròn chỉ sự viên mãn, song ước mơ ấy mãi vẫn chưa tới. Đây là tâm trạng ấm ức, uất nghẹn mang phong thái Xuân Hương! Cuộc đời đang diễn ra trước mắt của nữ sĩ thật vẹo vọ, khập khễnh, chẳng ra hình dáng. Bực bội như thế, nhà thơ cũng chỉ trút vào những hình ảnh thơ mạnh mẽ

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

Dùng phép đảo ngữ "xiên ngang mặt đất", "đâm toạc chân mây" chẳng những khiến khung cảnh trở nên dữ dội mà nhịp thơ cũng rắn rỏi, mạnh mẽ hơn. Qua đó bộc lộ tâm trạng bức bách, đang quẫy đạp đòi giải phóng. Nhưng Xuân Hương, dù "cứng cỏi đến ngổ ngáo", vẫn không thể vượt qua được cái "kiếp phụ nữ"

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Mùa xuân thì thường tươi đẹp, nhưng xuân ở đâu mới là xuân của người thiếu phụ? "Xuân lại lại", xuân về báo hiệu người ta càng thêm già, trước đã hẩm hiu bẽ bàng nay lại thêm một tầng hẩm hưu bẽ bàng nữa. Vậy nên nữ sĩ "ngán nôi" xuân đến xuân đi. Ngán ngẩm hơn là nỗi tình yêu không thỏa ý: "Mảnh tình san sẻ tí con con". Theo sau sự già nua là sự phai nhạt của tình duyên. "Mảnh tình" đã nhỏ bé, đã bị cắt xén đi bao nhiêu nay phải "san sẻ" đến nỗi chỉ còn "tí con con". Cái nhỏ bé mong manh của chút tình hiếm hoi là nguyên nhân gây nên nỗi cô đọc, éo le của người thiếu phụ. Bao nhiêu xuân sắc cũng chỉ là bi kịch, bi kịch không thể nào tránh khỏi.

So với Hồ Xuân Hương, có lẽ bà Tú còn hạnh phúc hơn chút ít, bởi vì bà không cần phải than thở cho số phận của mình, bởi vì dù không thể vùng dậy đấu tranh, bà cũng có một người ra mặt nói thay mình.

Là bậc Nho sĩ Hán học, đứng trước nỗi vất vả truân chuyên của vợ, Tú Xương cũng gạt đi cái "sĩ diện" của tầng lớp mà nhìn thẳng vào thực tại

Nuôi đủ năm con với một chồng

Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai, tưởng như không thể đong đếm được. "Năm con", "một chồng", bấy nhiêu kẻ ăn bám, ngần ấy con người phải "nuôi đủ"! Bao nhiêu chua xót đời bà nằm ở chữ "một chồng". Lấy chồng để làm gì? Để chung sức "tát bể Đông" cơ mà? Thế nhưng

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

"Duyên" là duyên số, duyên phận, "nợ" là cái "nợ" đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. "Nắng", "mưa" tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên "một"..."hai"..."năm"..."mười" làm nổi rõ đứa hy sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình. CHồng là gánh nợ đeo bám cuộc đời, dù vất vả cũng không "dám quản công". Bà lam lũ, lam lũ đến mức anh chồng vô tích sự cũng phải động lòng để mà đạp đổ lệ thường xã hội, ý thức giai cấp mà cất tiếng chửi hộ bà

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Nhìn xem, có mấy ai đứng lên bênh vực người phụ nữ? Tú Xương, xem như là "hàng hiếm" !

Người phụ nữ cùng cực âm thầm chịu đựng khổ đau trong xã hội phong kiến ấy, không có mấy ai thoát được số phận mà xã hội ban cho. Họ lép vế, họ yếu đuối, họ không dám mạnh mẽ, không dám đòi lại quyền của bản thân. Và cứ cứ thế qua nhiều thế kỉ. Để được sống trong một thế giới bình đẳng công bằng như ngày nay, họ đã phải bỏ ra bao nhiêu mồ hôi và nước mắt?  Vậy nên, nhìn vào hình ảnh người "hồng nhan" ngày xưa và trân trọng "hồng nhan" của ngày nay. Người phụ nữ là để yêu thương!

Theo dõi Vui Hè Cùng Choco Pie trên

Bạn đang quan tâm đến So Sánh Hình Ảnh Người Phụ Nữ Trong Tự Tình Và Thương Vợ Của Trần Tế Xương phải không? Nào hãy cùng Vuihecungchocopie đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy!

XEM VIDEO So Sánh Hình Ảnh Người Phụ Nữ Trong Tự Tình Và Thương Vợ Của Trần Tế Xương tại đây.

Hình tượng người phụ nữ qua hai bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương được hiện lên với những nét đẹp truyền thống của rngười phụ nữ xưa: tần tảo, sắt son. Là hai bài thơ được sáng tác bởi hai giới tính, hai thời đại khác nhau, vậy hình tượng người phụ nữ trong hai bài thơ này có nét gì giống và khác nhau. Để trả lời cho câu hỏi này, Học247 đã soạn một hệ thống kiến thức bao gồm sơ đồ tóm tắt gợi ý, dàn bài chi tiết và bài văn mẫu về dạng đề so sánh này, mời các em cùng tham khảo.

Đang xem: So sánh hình ảnh người phụ nữ trong tự tình và thương vợ

YOMEDIA

A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý

B. DÀN BÀI CHI TIẾT (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

1. Mở bài:Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và Trần Tế XươngHồ Xuân Hương (? – ?), là nhà thơ nữ sống vào khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.Trần Tế Xương (1870 – 1907), là nhà thơ trào phúng sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX.Giới thiệu hai bài thơ Tự tình II và bài thơ Thương vợTự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài, bài thơ là nỗi sầu oán, đau đớn của người phụ nữ truân chuyên.Thương vợ là bài thơ hay và cảm động mà Tú Xương viết về vợ mình. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Tú Xương dành cho người vợ tào khang của mình.Dẫn dắt vấn đềGiới thiệu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chungCảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương2. Thân bàiThời đại, hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong 2 bài thơ của 2 tác giả.Số phận người phụ nữ: chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vảỞ bài Tự tình II là nỗi buồn về thân phận, về tình duyên, hạnh phúc⇒ những điều có ý nghĩa vô cùng quan trọng của người phụ nữ.Ở bài Thương vợ: hình ảnh người phụ nữ chịu thương, chịu khó, lặn lội sớm khuya, vất vả quanh năm vì những gánh nặng gạo, tiền của gia đình.Những phẩm chất tốt đẹp và khát khao được yêu thương.Trong bài Tự tình II, hình ảnh người phụ nữ sắt son khát khao được yêu thương, được hưởng hạnh phúc trọn vẹn một cách mãnh liệt.Ở bài Thương vợ, hình ảnh bà Tú hiện lên với vẻ đẹp của một người phụ nữ truyền thống Việt Nam với những đức tính tốt đẹp: nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh, yêu thương chồng con hết mực.3. Kết bàiHai bài thơ là những hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến: luôn chịu những bất công, gian khổ.Gợi mở vấn đề.

Xem thêm: Ức Gà Làm Món Gì Ngon Mà Không Bị Khô? Ng Bị Khô? Ức Gà Làm Món Gì Ngon Mà Không Bị Khô

C. BÀI VĂN MẪU

Đề bài: So sánh hình tượng người phụ nữ qua hai bài thơ “Tự tình 2” và “Thương vợ”

Gợi ý làm bài:

Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống.

Xem thêm: Bài Tập Xâu Kí Tự Trong Pascal ~ Trường Thcs Ngô Quyền, Bài Tập Xâu Kí Tự Trong Pascal

Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã nói lên một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông- cái doi đất nhô ra đầy nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”

Đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

—Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến—

Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh của những đức tính tốt đẹp của ngưòi phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làm tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.

Trên đây là bài tổng hợp gồm sơ đồ gợi ý tóm tắt, dàn bài chi tiết và bài văn mẫu cho dạng đề So sánh hình tượng người phụ nữ qua hai bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương. Để tham khảo thêm bài phân tích về tác phẩm Tự tình II của nhà thơ Hồ Xuân Hương , các em có thể truy cập tại đây: Phân tích bài thơ Tự tình II

Công khai: VUIHECUNGCHOCOPIE.VN là trang web Tổng hợp Ẩm Thực - Game hay và Thủ Thuật hàng đầu VN, thuộc Chocopie Vietnam. Mời thính giả đón xem.

Chúng tôi trân trọng cảm ơn quý độc giả luôn ủng hộ và tin tưởng!