Lí do phật dạy ăn chay là vì sao

I. DẪN:  Người ta gọi ăn chay, ăn tương, ăn lạt để chỉ cho những người theo Đạo Phật Bắc Tông, không ăn thịt, cá. Đó là ăn chay vì lý do tôn giáo, ngày nay người Mỹ cũng ăn chay vì lý do sức khỏe.

II. VÌ SAO PHẬT TỬ PHẢI ĂN CHAY: 

Đôi khi người ta gọi đạo Phật là đạo Từ Bi, người tu theo đạo Phật để giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, khổ đau, đem niềm vui lại để bớt khổ cho mọi người, yêu thương mọi loại thú cầm, cùng nhau chung sống trong hòa bình và an vui. Do đó đức Phật dạy Phật tử phải ăn chay để tránh quả báo xấu, để tăng trưởng lòng từ, để mọi người và thú cầm cũng cùng nhau chung sống trong hòa bình, an vui.

III. ĂN CHAY NHƯ THẾ NÀO? 

Có nhiều cách ăn chay khác nhau, nhưng nói chung chỉ ăn ngũ cốc, rau, trái cây, không ăn thịt của thú cầm, cá, nói chung là không ăn động vật. Các Viện sĩ Hàn Lâm Viện Khoa Học Liên Xô có viết quyển Thức ăn tương lai, sách nói về nghiên cứu chế tạo thức ăn thịt, cá từ cây cỏ, nó cũng là thức ăn chay sau nầy.

Năm thứ là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ gọi là ngũ vị tân, người ăn chay trường cũng không ăn vì chúng có chất kích thích dục vọng.

Theo cách ăn chay của Âu Mỹ, người ta có thể uống sữa tươi hay sữa hộp, có thể ăn Bơ hay Phó mát vì chúng làm từ sữa, có thể ăn hột gà công nghiệp [gà không có trống, tức là không có sự sống].

Đạo Phật theo Nam Tông, tu sĩ ăn thịt cá theo Ngũ tịnh nhục:

1] Thịt ăn không thấy người giết. 2] Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật kêu khi bị giết. 3] Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình ăn. 4] Thịt con vật tự chết.

5 ] Thịt con thú khác ăn còn dư.

Người ta chia ăn chay làm hai loại: Ăn chay trường và ăn chay kỳ.

 - Ăn chay trường: Là ngày nào cũng ăn chay.

- Ăn chay kỳ: Có nhiều cách:

* Nhị trai: Mỗi tháng ăn 2 ngày là Mồng Một và ngày Rằm. Ngày xưa không có lịch, đặt ra cách ăn 2 ngày vào ngày trăng tròn [ngày Vọng: ngày Rằm] và ngày không trăng [ngày Sóc: mồng một].

* Tứ trai: Mỗi tháng ăn 4 ngày là Mồng Một, 14, Rằm, 30 [tháng thiếu 29].

* Lục trai: Mỗi tháng ăn 6 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 23, 30 [tháng thiếu 29].

* Thập trai: Mỗi tháng ăn 10 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 18, 23, 24, 28, 29, 30 [tháng thiếu 27, 28, 29].

* Nhất nguyệt trai: Ăn chay trọn tháng Giêng hay tháng Bảy. * Tam nguyệt trai: Ăn chay trọn tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.

IV. NHỮNG NGỘ NHẬN VỀ ĂN CHAY:

Ngộ nhận thứ nhất: Ăn chay khó, nhiều người Phật tử muốn ăn chay, mỗi tháng 2 hay 4 ngày, nhưng đến ngày ăn chay thấy khó ăn quá, đến đêm đói bụng khó ngủ, trông chờ mau qua khỏi 12 giờ đêm để ăn mặn, vì bụng đói lại thèm ăn. Có nhiều nguyên nhân, một là ăn chay dễ tiêu cho nên mau đói, hai là người ta nghĩ chỉ ăn 1 hay 2 ngày nên nấu nướng thức ăn qua loa [thường chưa biết nấu món ăn chay], do đó người ăn không ngon miệng, cả hai nguyên nhân tạo cho sự ăn chay khó. Đề nghị người biết nấu món ăn chay đừng giấu nghề hãy hướng dẫn, phổ biến cách nấu các món ăn ngon, nhờ đó người ta ăn được mình cũng có phước, quý vị nội trợ nên học hỏi cách nấu vài món chay cho ngon miệng, mỗi ngày ăn chay nên nấu vài món khác nhau, người ăn chay sẽ dễ ăn hơn. Ngày nay, người Mỹ ăn chay cũng nhiều, các chợ ở Mỹ như: Wal-Mart, Kroger, Value Market đều có bán thức ăn chay làm từ đậu nành, bắp, súp chay [Vegeterian], hambeger chay, pizza chay..., ngoài rau, cải chợ Mỹ cũng bán giá, đậu hủ tươi, đậu hủ chiên, ở các chợ hay xe thực phẩm Việt Nam có bán những hộp kho chay, mì căn kho chay, mì gói chay, phở chay... rất dễ cho người ăn chay.

* Ngộ nhận thứ hai: Ăn chay mất sức khỏe vì thiếu chất dinh dưỡng, ngộ nhận nầy phát xuất do ngững người ăn chay trường gây ra, nhiều người tu sĩ cũng như cư sĩ cho rằng tu là tiết dục, ăn uống giản dị cũng nhằm mục đích đó, chẳng hạn chỉ ăn cơm với muối xả, ăn cơm với muối mè, ăn cơm với muối tiêu, ăn cơm với muối đậu [đậu phộng], ăn cơm với tương hột, ăn cơm với chao, toàn là những thức ăn thiếu dinh dưỡng, đôi khi có thêm canh rau dền, rau muống, bò ngót, bắp cải luộc. Ăn chay rất đạm bạc như thế, lâu ngày đương nhiên thiếu chất dinh dưỡng, sanh ra bệnh tật, từ đó người khác cho rằng ăn chay mất sức khoẻ. Người ăn chay trường cần phải có quan niệm ăn chay là để tránh nghiệp sát sanh, vậy phải ăn cho đủ chất bổ dưỡng, thân thể có khỏe mạnh chúng ta mới dùng nó để làm phương tiện tu học, chúng ta không chìu cho thân thể nầy ăn sung, mặc sướng, ngủ kỷ nhưng không thể không nuôi dưỡng nó. Nếu chúng ta chịu khó nấu ăn với những món giàu chất dinh dưỡng như đậu hủ tươi hay chiên, tàu hủ ky, giá, các thứ đậu, rau muống, nấm rơm tươi, khô hay nắm đông cô, rau cải.

* Ngộ nhận thứ ba: Ăn chay trường khó, thật ra thì không khó, đừng bao giờ nghĩ rằng nấu tạm bợ, ăn qua loa như vậy làm cho người ăn chay trường khó ăn, nếu trong gia đình có hai ba người hoặc cả gia đình ăn chay thì dễ dàng hơn, khó không phải vì ăn mà khó vì sự nấu nướng thức ăn gây ra.

V. NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH: 

Người ăn chay trường nên tránh những điều sau đây:

1. Không nên kiêu mạn: Vì tránh nghiệp xấu, vì lòng từ với chúng sinh nên mới ăn chay, đó cũng là cái duyên lành, không nên cho là ta hay ta giỏi ta tinh tấn hơn mọi người, coi rẻ người chưa ăn chay sẽ gây ác cảm với người khác và làm tổn đức của mình.

2. Không nên ép xác: Không nên ăn quá kiêng khem, phải ăn cho đủ chất dinh dưỡng, nhất là nên ăn các thứ rau, đậu, giá, đậu hủ và mì căng. Khi đi máy bay, lúc mua vé hãy bảo cho họ biết mình ăn chay, họ sẽ lo thức ăn chay cho mình.

3. Không nên giả mặn: Tránh làm những món ăn như nắn thành hình con chim, gà, vịt hay thịt bò, thịt heo ... làm như vậy chẳng khác nào gợi cho người ta nhớ món ăn mặn.

4. Không nên gây khó khăn cho người khác: Đi đám tiệc hay đến nhà người khác, nếu người ta không biết trước để chuẩn bị món ăn chay, thì cứ ăn tạm với những thức ăn có thể ăn được như rau cải, dưa leo, nước tương. Không nên làm cho gia chủ thấy khó chịu vì không tiếp đãi được mình như ý muốn.

VI. LỢI ÍCH ĂN CHAY: 

Những người ăn chay vốn là những người đã tu, nhưng nhờ ăn chay tánh tình sẽ hiền lành đối với mọi người, mọi loài, được mọi người thương yêu và kính trọng. Nếu có nhiều người ăn chay tức nhiên sẽ có nhiều người ăn lành ở hiền, xã hội được tốt đẹp, thế giới được hòa bình, an vui.

VII. KẾT LUẬN: 

Người cư sĩ muốn tu cho rốt ráo, ngoài pháp môn tu tập cho tâm được thanh tịnh để trí huệ phát sinh, cần phải ăn chay để thực hành hạnh từ bi của mình, ăn chay cũng giúp cho mình thay đổi thể xác đương nhiên nó sẽ thay đổi tánh tình, giúp cho đường học đạo ngày càng tinh tấn.

Xin mượn lời kết của các tác giả Thức ăn tương lai:

"Thuận lợi thứ ba ... về ý nghĩa không phải là thuận lợi cuối cùng, đó là về đạo lý. Ăn thịt, chúng ta buộc phải giết hàng triệu bò, cừu, lợn, ngỗng, vịt, gà, tạo ra hàng nghìn, hàng nghìn người lạnh lùng trước sự đổ máu, ......Và điều đó rất không phù hợp với sự giáo dục tình yêu thiên nhiên, lòng tốt, lòng nhân ái."

____________

Sách tham khảo:

- HT. Thích Thiện Hoa , Phật Học Phổ Thông, Khóa I & 2, THPGTPHCM, Việt Nam, 1989

- A. N. NEXMÊIANÔP, V.M. BÊLICÔP, Thức ăn tương lai, NXBGDHN, Hà Nội, Việt Nam, 1989

VẤN: Con nghe nói là khi tu hành, bắt đầu là Phật tử đều phải giữ ngũ giới, không sát sanh và khuyến khích ăn chay. Con nghe và đọc các bài giảng các Thầy đều khuyên rằng nếu còn ăn mặn thì không thể nào thoát khỏi luân hồi lục đạo, không tu hành được đắc quả. Ngày trước ban đầu thời Đức Phật là ăn tam tịnh nhục nhưng sau đó Phật cũng khuyên là nên ăn chay. Tuy nhiên hiện nay vào các chùa, và con biết là Phật tử của nhiều nước, người xuất gia không ăn chay, gọi là ăn tam tịnh nhục. Nhưng ăn tam tịnh nhục thì cũng là ăn mặn. Vậy sự khác nhau là gì? Tại sao lại có nhà sư ăn chay và nhà sư ăn mặn? Nếu người xuất gia cũng ăn mặn vậy làm sao có thể khuyên Phật tử ăn chay? Việc ăn mặn và ăn chay có ảnh hưởng đến vấn đề tu tập giải thoát không? Ăn mặn có thọ Bồ Tát Giới được không? Con xin cảm ơn Sư.

ĐÁP:

I . Ý thức về sự sống và chết của chúng sanh yếu đuối.

Đúng là bước đầu học Phật, từ xưa đến nay người Phật tử sau khi được quý chư Tôn đức Tăng Ni giới sư khuyến giáo ăn chay, niệm Phật, không làm việc sát sanh. Từ ngũ giới, Bát Quan trai giới, Thập thiện giới... Tất cả các giới đều khuyên không được sát sanh, chứng tỏ giáo pháp Phật ban hành đầu tiên vẫn khuyên không sát sanh. Không sát sanh tức là không giết người thất thế, người bị cô lập, người trên tay, người dưới tay, thậm chí đến các loài vật nhỏ nhít như côn trùng, loài có mạng sống, biết tham sống sợ chết, độc trùng trong nước... Tất cả đều không được giết hại, vì giết hại tức là gieo oán thù, trước khi chết chúng sanh đó luôn có ý thức muốn thoát chết, không muốn xa dòng họ, không muốn rời huyến thống, muốn duy trì huyết thống, nhưng do thất thế, yếu đuối hơn nên đành phải chịu chết trong khổ đau, căn thù uất hận. Và cái chết đó bao giờ cũng có luật nhân quả đi kèm, sự trả vay trong tức thời hay ở tương lai, hoặc ở một thời thích hợp: "Tự thân là tổn hại mạng chúng sanh, cướp mạng sống của chúng sanh, làm cho chúng sanh đau đớn trước khi chết, chết trong khổ đau...” Các lò sát sanh trên thế giới, lò giết mổ quy mô lớn, quy mô nhỏ trong từng khu vực, nhất là các lò mổ ở Việt Nam luôn có nhiều hành động làm tổn hại sự sống của các loài vật một cách đau đớn không tả xiết. Sự đau đớn luôn kèm sự căm thù ngút tận trời xanh, không bao giờ nguôi và sẽ không có sự tha thứ.

Trong sách học Cư sĩ “Phu thê ngôn luận”, xuất bản năm 1960 có câu:

Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp Hà sầu thế giới động đao binh

Nghĩa:


Tất cả chúng sanh không giết hại
Thì thế giới sẽ không có chiến tranh


Giới sát trong đời sống tu sĩ.

Trong Tỳ ni nhựt dụng thiết yếu của Phật Oánh: "Có 2 vị Tỳ kheo phát nguyện đến học đạo với Đức Phật, trên đường đi khát nước, gặp một ao nước sạch, muốn uống và cả hai đều nhìn thấy trong đó có trùng. Một vị tuy khát nhưng dứt khoát không uống vì sợ uống nước có trùng vừa tổn hại đến tánh mạng chúng sanh vừa nguy hiểm đến tự thân, và do không uống nước có trùng giữa đường thác sanh thiên. Vị Tỳ kheo trẻ tuổi tuy biết nước có trùng nhưng vẫn uống và cuối cùng may mắn thân khỏe mạnh đến gặp Phật. Phật dạy Tỳ kheo từ nay khi uống nước phải sắm vợt lượt nước, nếu không sắm phạm giới sát. Làm đệ tử Phật khi đi hành cước phải sắm vợt lượt nước, lúc uống nước không để phát ra tiếng và niệm bài kệ:

Phật quán nhứt bát thủy Bá vạn tứ thiên trùng Nhược bất trì thử chú Như thực chúng sanh nhục

Nghĩa:


Phật nhìn một bát nước Tám mươi bốn ngàn vi trùng Nếu không trì chú nầy

Như ăn thịt chúng sanh

Xem ra thì các Đức Phật trong ba đời đều khuyến giáo không sát sanh hại vật.người giữ giới sát thì gia đình hạnh phúc, ông bà cha mẹ, con cái thân bằng quyền thuộc sống trường thọ. Người tu hạnh xuất gia giữ giới sát nghiêm túc thì chư thiên hân hoan nghênh đón, bảo hộ quý kính Sa môn là Pháp sư đang tuyên lưu Phật pháp trong đời.

Trên từng bước đi, trên từng cây số của người đệ tử Đức Phật lúc nào cũng xem chừng dưới chân có chúng sanh, hay những loài côn trùng nhỏ nhít? Đức Phật thường xuyên dạy môn đệ của mình không nên dẫm đạp các loài chúng sanh thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, noãn sanh, những loài thảo mộc mới sanh trưởng trong mùa mưa, Ngài cũng không cho đệ tử đi hành cước trong mùa mưa, đến mùa mưa phải an trú một nơi nào thuận lợi nhất để tu hành, vì sợ do vô tình hay cố ý giẫm đạp làm chúng chết chóc, tổn hại lòng từ của người đệ tử Phật, nên sách Tỳ ni có câu:

Nhược cử ư túc Đương nguyện chúng sanh Xuất sanh tử hải Cụ chúng thiện pháp.

Nghĩa:


Nếu cất bước đi Cầu cho chúng sanh Ra biển sanh tử

Đủ các pháp lành.

Những bài kệ chú như trên nhằm hướng dẫn cho người con Phật trong quá trình tu hành thật phải cẩn trọng khi ăn khi uống, đi đứng đều phải để tâm đến những loài chúng sanh dù là nhỏ nhất cũng không nên làm tổn hại, huống gì chúng sanh có sanh mạng lớn, có trí năng nghe được tiếng người, như: Trâu, bò, ngựa, dê, heo, trừu, gà, chó...

Phật không dạy ăn chay, nhưng Phật khuyên không ăn thịt.

Trong Kinh Niết Bàn, Phật dạy: "Nếu có Tỷ khưu nào bảo rằng trong Tỳ ni giáo, Phật cho ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời ma thuyết, là phỉ báng ta!" Trải rộng trong các kinh giảng cho chư Bồ tát, Phật thường dạy: "Người xuất gia, tại gia không được làm việc trong năm loại kinh doanh. Năm loại đó là gì? Kinh doanh vũ khí, kinh doanh người, kinh doanh thịt, kinh doanh ma túy, và kinh doanh chất độc. Nếu chúng sanh không làm việc mua bán như thế thì không thể thoát khỏi dòng sanh tử tương tục Kinh Phạm Võng, Phật cũng từng dạy cho chư vị Bồ Tát không ăn thịt chúng sanh [giới trọng, thứ 3], không chứa khí cụ giết hại chúng sanh [giới trọng, thứ 10].Giới luật Phật đã ban hành, ai dám cãi lời sửa luật Phật, lại còn tuyên bố “Đức Phật ăn mặn và cho đệ tử ăn mặn”? Chúng ta có thể nhận định một cách chuẩn xác hơn, trong tất cả các lời Phật dạy được chư thánh giả đọc và chép thành kinh thời xưa, do ngôn ngữ văn hóa thời Đức Phật là thời kỳ ngôn ngữ còn khô khan, sự truyền đạt phổ cập không nhiều, người ở địa phương nầy nói như vầy, người ở địa phương khác nói khác, nên lời Đức Phật dạy được ghi lại có khác, người giảng cũng còn hiểu lầm đừng nói chi đến Phật tử sơ cơ. Như Đức Phật “không khuyến giáo người con Phật ăn chay trường”, nhưng Đức Phật thường nói về hòa bình và khuyến người đệ tử không ăn thịt, không giết hại chúng sanh, không giữ khí cụ giết hại chúng sanh. Người phàm phu cho rằng Đức Phật không dạy ăn chay, nên Đức Phật chủ trương ăn mặn. Tại một số chùa hiện nay có lắm người ăn mặn, bày biện thịt cá ê hề trên quả đường của “chúng Tăng giải thoát” mà xưng hô tu chứng “thánh quả, chứng tứ quả”, thật buồn thay cho thời mạt pháp. Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, khi nói về giới, Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật về việc truyền giới cho chúng lý tu hành. Phật có dạy không truyền giới cho người thợ dệt tơ lụa, người làm nghề nhuộm. Tại sao thế? Vì khi kéo tơ là phải giết loài tằm, nhuộm vải phải luộc những con tầm để lấy màu nhuộm vải tơ. Cho thấy sự tuyển trạch người làm Phật thời xưa thật là kỹ, và nếu người không tu thì thôi, chứ tu thì giải thoát, không còn trở lại lục đạo luân hồi sanh tử trong thế gian.

II. Vấn đề quý Sư thọ tam tịnh nhục

Làm Phât tử tiến bộ, có học Phật học phải dùng từ ngữ cho đúng. Đứng về gốc độ quý Sư bên Nam tông giữ giới rất kỹ, như: Không ăn chiều, thọ tam tịnh nhục theo thời điểm Đức Phật ban hành giới. Tam tịnh nhục là:

Thức ăn động vật, quá trình xử lý thịt, nhà sư không thấy con vật bị tổn thương cho đến khi chết, gọi là không thấy. Thức ăn động vật, quá trình xử lý thịt, nhà sư không nghe tiếng kêu trước khi con vật “chết”.

Thức ăn động vật, quá trình xử lý thịt, không do nhà sư xúi giục giết, tự tay giết, hay bảo người giết cho mình ăn, goi là không hay biết.

Ðức Phật đã nói với chư tăng: "Quý thầy không được cố ý sử dụng thịt đã được giết mổ chỉ dành riêng cho quý thầy; Như Lai chỉ cho phép sử dụng thịt và cá không bị phiền trách trong ba trường hợp sau đây: không thấy, không nghe và không nghi ngờ cả " [Luật I, 233] Phật Giáo Và Vấn Đề Chay Mặn, Phân Tích Quan Điểm Của Đức Phật Về Việc Sử Dụng Thịt - Luật Tam Tịnh Nhục của Phật. Đây là ba điều kiện trên đòi hỏi quý Sư không được chứng kiến công việc giết mổ, không được nghe nói thịt đó được giết mổ [để cung cấp cho quý Sư], và ngay cả khi không có thông tin như vậy thì cũng không có gì phải nghi ngờ về hai trường hợp trên [nghĩa là mắt, tai và tâm ý phải thỏa mãn được "sự vô can" về món thịt đó]. Trong thời Đức Phật sanh tiền, có nhiều lời dạy về việc ăn các lọai thịt thú cầm, thịt nào ăn thanh tịnh, thịt nào ăn không thanh tịnh và chỉ bàn đến việc ăn thịt thanh tịnh [tam tịnh nhục], hoặc không bàn đến việc ăn thịt hay không ăn thịt, như trong kinh Trung Bộ II, số 55, Phật dạy Jivaka, như sau: "Có thể vì những lời đồn đãi, xuyên tạc đầy ác ý trên nên mở đầu kinh Jivaka, trước khi nói rõ về Tam tịnh nhục, tức ba thứ thịt thanh tịnh mà các Tỷ kheo được phép thọ dụng, Thế Tôn đã minh định: “Này Jivaka, những ai nói như sau: Vì Sa môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi [vì mình mà giết]. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi [vì mình mà giết]. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Ngoài ra, còn có thuyết Ngũ tịnh nhục, tức tam tịnh nhục vừa kể trên cùng với thịt của các con thú tự chết và thịt mà các loại thú khác ăn còn dư. Ngày nay các giáo phái nguyên thủy Nam tông Việt Nam, Nam tông Khmer có còn giữ được như thế hay không? Hay quý Sư có khi ăn chay theo Bắc tông. Một số chùa ở Tp.Hồ Chí Minh, ở Đồng Nai quý Sư ăn chay trường, một số chùa do tín đồ cúng dường, giữ theo truyền thống Đức Phật ai cúng thức ăn gì thì dùng thức ăn đó, không chọn lựa, phân biệt chay mặn. Điều nầy cho thấy quý Sư vẫn còn giữ theo truyền thống Phật và Tăng đoàn theo hệ thống Nam truyền xưa.

III. Xuất xứ ăn chay?

Năm niên hiệu Thiên Giám thứ X [nhằm năm Tân Mùi 511], Tiêu Diễn sau khi phế nhà Tề, lập nên Nhà Lương, vua Lương Võ Đế, là vị vua minh quân chính trực, Phật tử thọ Bồ tát giới tuyên bố Nhà Lương thuộc quốc giáo Phật giáo, xây dựng nhiều chùa tháp quy mô cúng dường Phật. Nhà Vua biên sọan sách Phật, 4 tập nhan đề: "Đoạn Nhục Văn”, chủ trương bỏ uống rượu ăn thịt và đồng thới hạ sắc chỉ chư Tăng Ni trong các chùa phải ăn chay trường mới được ở chùa. Nhà Vua nói: "Tất cả Tăng sĩ đều tin tưởng một cách đúng đắn Luật Nhân quả, Kinh Thuyết, Phật Thuyết. Kinh Phật đã nói rõ ác chắc sẽ có ác báo, làm thiện sẽ có thiện báo. Tu sĩ xuất gia cần phải lấy việc thiện làm gốc, không nên ăn thịt, cá. Giờ đây đệ tử Phật mà vẫn còn thèm thịt, thì đều đó là tội lỗi, tội này nhất định sẽ bị quả báo. Do đó những Tăng sĩ cần đoạn tuyệt với việc thịt cá và uống rượu.” [ Đọan Nhục Văn - trích dẫn cuộc đơi và sự nghiệp vua Lương Võ Đế năm 502-550]. Nhà Vua nói tiếp: "Tăng chúng ngày nay mỗi người đều phải cần kiệm, nếu như được mặc áo của Như Lai, mà không làm việc của Như Lai, thì đó chỉ là những kẻ giả danh Tăng Sĩ, họ chẳng khác gì những tên đạo tặc. Nếu có Tăng Sĩ nào vẫn tiếp tục thèm thịt và thèm rượu, thì cứ theo pháp vua mà xử tội.”[ Đọan Nhục Văn - trích dẫn cuộc đơi và sự nghiệp vua Lương Võ Đế năm 502-550]. Thuyết ăn chay, cũng gọi thọ trai, chữ “trai” xuất phát đọc trại chữ “chay”, lần hồi lưu truyền trong nhân gian Việt Nam trở thành một từ thông dụng trong ngôn ngữ Việt có từ thời nhà Lương bên Trung Hoa

Khuyến giáo ăn chay

Ăn chay trường giữ trọn giới sát, tuy nhiên làm Phật tử, khi được giới sư truyền giới, có giảng về cách ăn chay trường, ăn chay kỳ như nhị trai [ăn chay một tháng 2 ngày], tứ trai [ăn chay một tháng 4 ngày] lục trai [ăn chay một tháng 6 ngày], thập trai [ăn chay một tháng 10 ngày], hoặc tam ngoạt trai [ăn chay rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười]. Những ngày ăn chay của Phật tử là những ngày lành tháng tốt, những ngày cân nhắc nam nữ Phật tử làm lành lánh dữ, lánh xa các hành vi làm tổn thương đến sanh mạng chúng sanh, tạo điều kiện cho chúng có cuộc sống đoàn tụ cùng bầy, cùng gia đình, cùng tổ tông, huyết thống của chúng. Ăn chay không phải là vấn đề lớn, ăn chay chưa phải là Thầy Tu, không quyết định cho sự giải thoát sanh tử luân hồi hay thành Phật. Nhưng người tu Phật mà không bàn đến ăn chay, không biết ăn chay là điều dở nhất trong thế giới những người con Phật. Chúng ta thử phân tích kỹ ăn chay có những lợi ích gì trước khi nói đến việc đắc đạo thành Phật: - Đem lại sự tinh khiết cho thân tâm. Đồ đạc ly tách, chén bát sạch sẽ. Môi trường trong sạch, không có những mùi bất tịnh lan tỏa trong cuộc sống quanh ta - Ăn chay mau tiêu hóa, làm cho thân không bệnh họan bất thường do bộ tiêu hóa làm việc không ngừng nghỉ. - Dứt các hành động ác, không gặp những biến thái nhân quả thú biến thành người, người biến thành thú, người giết thú, thú giết người trong nhãn tiền, không còn có sự đau đớn hận thù bất tận. - Ăn chay mang lại cho thế giới nền hòa bình chân chính, vì ăn chay thì không sát sanh, nên không có những cuộc xâm lăng tàn sát, của dân tộc nầy với một dân tộc của các quốc gia khác, không làm tổn hại sanh mạng con người.

Ăn chay, ăn mặn có ảnh hưởng đến việc tu giải thoát?

Một Tăng sĩ thọ tam tịnh nhục, tức là giữ giới luật Phật theo hệ thống Nam truyền, vị Tăng sĩ đó suốt đời ăn động vật, sanh mạng của muôn thú, ở Sri Lanca chỉ ăn cá, không ăn thịt, hiện nay quý Sư lần lượt không ăn thịt nữa, mà ăn chay. Số quý Sư ăn chay ngày càng gia tăng [Trang nhà Quảng Đức - Luật tam tinh nhục của Đức Phật -Vấn đề ăn chay ăn mặn trong Đạo Phật] Theo quan điểm giáo lý Nam truyền thì sự tu chứng của chư Tăng [không có Ni] chỉ đến thánh quả Thanh văn, trong đó có tứ quả Tu đà huờn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, không có quả vị Bồ tát, Phật. Theo hệ thống Bắc truyền thì ăn chay trường, tuyệt đối không giết, không ăn sanh mạng chúng sanh, giữ giới sát tinh nghiêm. Sự tu chứng theo giáo lý Bắc truyền đến địa vị Duyên giác, Bồ tát, Bồ tát Đẳng giác và Phật. Chư Tăng Ni chỉ tạm dùng thực vật, thảo mộc rau trái, légume. Tuy nhiên chư Tăng Ni ở một vài hệ phái ở Việt Nam không ăn chay, hoặc không ăn chay trường, mà chỉ ăn nhị trai, tứ trai, lục trai, thập trai, hoặc ăn chay trong suốt 3 tháng an cư kiết hạ mà thôi. Việc ăn chay, ăn mặn có ảnh hưởng rất lớn đế cuộc đời đạo hạnh của các tu sĩ Phật giáo. Trong giới thiền lâm, người tu sĩ phải có sự quyết tâm, làm cho tăng trưởng lòng từ, đạo hạnh thân tâm tinh khiết. Phải nhớ giới sát ăn thịt chúng sanh là mang trọng tội, phải thấy nó sống không đành thấy nó chết. Có tâm ý như vậy mới trở thành “áo giáp hộ mệnh”, giúp cho người tu sĩ quyết định tiến đến môi trường đạo giải thoát, chứng quả Niết bàn.

IV. Ăn mặn có thọ Bồ tát giới được không?

Kinh Phạm Võng Bồ tát giới, là giới truyền cho chư Tăng Ni, nam nữ Cư sĩ đệ tử của Đức Phật thì giới Bồ tát thuộc hệ thống “đạo tục dung thông” giới có thể truyền cho người xuất gia, sau khi đã thọ Tỳ kheo giới, được Bổn sư cho phép thọ Bồ tát giới. Đối với các tu sĩ trẻ tuổi thọ Sa di giới thuộc ứng pháp chưa có hạn định cho thọ giới Bồ tát, vì giới Bồ tát là giới cao, nếu làm Sa di ứng pháp mà thọ Bồ tát giới thì không còn thọ Tỳ kheo giới được nữa, chỉ trừ những vị Sa di danh tự, Sa di hình đồng trên 60 tuổi mới cho thọ giới Bồ tát. Giới luật theo hệ thống Nam truyền thuộc giới Thanh văn, Đức Phật không có ban hành giới Bồ tát truyền cho chư Tăng tu theo hệ thống Nam truyền.

Đối với những vị Cư sĩ, Phật thuyết Kinh Phạm Võng ở giới thứ 3 và giới thứ 10 là giới sát thuộc vào nhóm “giới trọng”. Giới thứ nhứt trong 6 giới trọng của giới Bồ tát giới Cư sĩ, Phật dạy không sát sanh, giới thứ 10 trong 28 giới khinh của Cư sĩ Phật dạy: “nước có trùng không được uống, uống thì tổn hại lòng từ bi, các giới khác ít nhiều cũng khuyên không sát sanh. Khi thọ giới, các Cư sĩ đạo hạnh vẫn được giáo hóa ăn chay trường mới được truyền giới Bồ tát. Tại Đồng Nai, chư giới sư khi truyền giới Bồ tát cho Cư sĩ có khảo hạch giới tử ăn chay trường bao nhiêu năm? Nếu dưới 5 năm sẽ không trúng tuyển thọ giới Bồ tát.

Phật giáo có hai truyền thừa Bắc, Nam lưu xuất xưa nay vẫn còn Nam truyền giữ cội thủy nguyên Bắc thì chay lạt giữ viềng đạo xưa Tam tịnh nhục gọi tiểu thừa

Trì trai giới sát sớm trưa tịnh thiền

HT. Thích Giác Quang

Video liên quan

Chủ Đề