Nội dung nào dưới đây không phải là những cơ sở và điều kiện dân tới sự ra đời của nhà nước Văn Lang

.

Cập nhật lúc: 08:24, 24/04/2018 [GMT+7]

Trong lịch sử dựng nước, thời kỳ các vua Hùng với Nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam được hình thành với những đặc trưng của hình thái nhà nước nguyên thủy, đã để lại dấu ấn về nền văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Người dân viếng Đền thờ Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ. Ảnh: T.THÚY

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân [theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông] cùng vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

* Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN, có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải [tức Biển Đông], Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành]; lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” [Lịch triều hiến chương loại chí].

Trong hội thảo về văn hóa Hùng Vương năm 2011, có học giả Trung Quốc cho rằng Hùng Vương là người… Trung Quốc, bởi người Việt không có họ Hùng. Đây là lập luận “cưỡng từ đoạt lý”. Theo các nhà ngôn ngữ học, “Hùng” xuất phát từ “Kun” của người Mường, từ “Khun” trong tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái, nhằm để chỉ tù trưởng hoặc thủ lĩnh. Vua Hùng hay Hùng Vương là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang - bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ thời bấy giờ, cơ sở tiền đề hình thành Nhà nước Văn Lang. Cách biến âm này có thể thấy ở tên gọi của vùng đất Mê Linh vốn có từ gốc là Mling - tên của một loài chim được tôn là vật tổ [totem] của bộ lạc.

Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ [trước là 15 bộ lạc], tổ chức hành chính dưới bộ là các công xã nông thôn [gọi là kẻ, chiềng, chạ] mà đứng đầu là bố chính. Tuy nhiên, nhà vua không áp đặt quản lý ở các đơn vị hành chính cơ sở mà do dân suy cử những người, dòng họ có thế lực, có uy tín. Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Về 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi [nhánh/ngành]; mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

* Những thành tựu rực rỡ

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên [truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh], sử dụng dụng cụ nông nghiệp [cày, cuốc, mai, thuổng] và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo [gạo nếp và gạo tẻ], dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm [cơm lam], làm bánh [sự tích bánh chưng, bánh giầy]; ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

Dâng lễ vật, hương hoa ở đền thờ Hùng Vương phường Bình Đa, TP.Biên Hòa.

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu [sự tích trầu cau], xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long [thuồng luồng] làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời [ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời], thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước [thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…], mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...

 Trống đồng Đông Sơn hiện đã tìm thấy được ở nhiều nơi, là bằng chứng khắc họa tiêu biểu cho nền văn hóa thời đại Hùng Vương. Trên mặt trống chạm khắc những hình người thổi kèn, diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng, vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công [một loài chim tiêu biểu của vùng nhiệt đới] hoặc đeo mặt nạ.

Sự có mặt của trống đồng Đông Sơn ở một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như phát hiện về những lưỡi qua đồng thời Chiến quốc [Trung Quốc] ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn; đồng thời ghi chép trong Thông giám cương mục là năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu [năm 2353 TCN], Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần dài hơn 3 thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau; vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch; năm 1110 TCN Hùng Vương cũng sai sứ qua Trung Quốc, tặng Thành Vương nhà Chu chim trĩ trắng, cho thấy nền móng ngoại giao giữa Nhà nước Văn Lang với các triều đại phong kiến phương Bắc cùng sự giao thương, trao đổi hàng hóa giữa cư dân Văn Lang với các quốc gia quanh vùng.

Thanh Thúy

Truyền thuyết này thông tin cho ta thấy đất nước Việt Nam rộng dài có rừng vàng biển bạc. Dân ta là loài con rồng cháu tiên, được hợp huyết giữa giống người từ phía Bắc xuống và từ Nam Đảo vào.

Cư dân Lạc Việt sống bằng nghề nông trồng lúa nước. Từ nền văn minh sông Hồng, văn hoá lúa nước với nghề thủ công đúc đồng phát triển các bộ tộc Lạc Việt đã liên minh lại cho ra đời nhà nước đầu tiên lấy Phong Châu, Việt Trì làm kinh đô [các ngành khoa học khảo cổ, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hoá dân gian... đã chứng minh giai đoạn lịch sử này]. Truyền thuyết về bà Âu Cơ cho biết nhà nước Văn Lang ra đời tuy tổ chức xã hội đã thuộc thời kỳ người đàn ông làm chủ [trăm người con trai, có con trai trưởng làm vua] tuy thế ảnh hưởng của xã hội thị tộc mẫu quyền còn rất lớn. Nhà nước được phát triển lên từ tổ chức xã hội của người mẹ Âu Cơ chứ không phải từ người cha Lạc Long Quân. Sau này Vua Hùng thứ sáu cũng truyền ngôi cho người con trai út là Lang Liêu chứ không có truyền thuyết nào tương truyền Vua Hùng truyền ngôi cho các mị nương công chúa. Dấu ấn mẫu hệ mạnh nên từ xưa dân ta vẫn có đền mẫu Âu Cơ nguy nga hơn đền thờ Lạc Long Quân. Nhân loại bất cứ đâu cũng là các tổ chức xã hội đầu tiên gồm những người có chung dòng máu mẹ. Thông thường hai thị tộc ghép lại thành một bộ lạc. Theo ước hẹn đàn ông của thị tộc nọ sang giao hoan với đàn bà của thị tộc kia. Buổi đầu của thị tộc loài người chưa nhận thức nổi do giao hoan mà sinh con đẻ cái. Con người khi ấy mới biết mẹ, chưa biết cha. Do vậy mà tô tem giáo ra đời. Mỗi dân tộc mới ra đời một vật Tổ để thờ. Mỗi họ người Mường ngày nay vẫn thờ một vật Tổ riêng. Do khoa học phát triển mà giờ đây đồng bào giải thích về vật Tổ mỗi nơi mỗi khác, thí dụ tổ tiên họ chui vào bụi rậm để trốn chạy giặc. Giặc thấy động chưa kịp sục tìm thì thấy con rắn chạy ra nên giặc bỏ đi. Từ đấy họ Đinh thờ con rắn là ân nhân cứu mạng mình.

Dấu ấn mẫu hệ không chỉ đậm ở thời Hùng Vương mà đi qua cả thời kỳ nhà nước Âu Lạc, khi quan Hán sang, Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa cả nước đã nổi lên theo Hai Bà đánh giặc. Nếu cuộc khởi nghĩa ấy thành công chắc chắn lịch sử nước ta sẽ là thời kỳ phụ nữ cầm quyền. Các di tích thờ các nhân vật thời Hai Bà ở cả nước nếu có thờ chồng của các nữ tướng thì bài vị của họ đều đặt dưới hoặc bên cạnh bài vị của vợ. Kiệu rước bài vị của họ cũng luôn phải đi sau kiệu rước bài vị của vợ.

Vì ảnh hưởng phong kiến phương Bắc trọng nam khinh nữ chưa cao nên dân ta với lòng yêu nước nồng nàn đã nhất tề theo Bà Trưng nổi dậy để đánh giặc cứu nước. Ngày nay ta tuyên dương mẹ anh hùng, không tuyên dương bố anh hùng được đồng bào hưởng ứng vì nhờ có truyền thống thờ mẫu trên.

Truyền thuyết là những truyện dân gian về lịch sử. Nó không là lịch sử nhưng là tâm hồn của lịch sử. Lịch sử được thăng hoa phóng đại bởi sự thần thoại hoá, kỳ vĩ hoá của dân gian. Khi có chữ viết giới trí thức đã ghi lại truyền thuyết để nó song song tồn tại bằng văn hoá truyền miệng và văn hoá đọc. Nhận thức về thế giới, quan niệm về xã hội mỗi thời khác nhau nên truyền thuyết được ghi lại ở thời nào đều mang ít nhiều bóng dáng của thời đó. Vì thế trong một truyền thuyết hoặc truyện kể dân gian nói chung thường chứa đựng dấu ấn văn hoá của nhiều niên đại chồng lợp lên nhau. Lớp văn hoá nguyên thuỷ của truyền thuyết bà Âu Cơ sinh trăm người con trai là xuất phát từ sự ra đời của nhà nước Văn Lang, nhà nước của người đàn ông làm chủ. Yếu tố này được tầng lớp trí thức thời trung đại và cận hiện đại nhấn mạnh lên do tư tưởng phong kiến nho giáo trọng nam khinh nữ. Bà Âu Cơ để người con trai trưởng ở lại làm vua, điều này càng phù hợp với tư tưởng phong kiến ở ta thời cận đại thậm chí cả khi đã bước vào xã hội hiện dại.

Qua truyện Vua Hùng truyền ngôi cho chàng út Lang Liêu ta cũng có thể đoán lịch sử thời cổ đại tổ tiên ta chỉ chọn người tài ra làm thủ lĩnh bộ tộc hoặc liên minh các bộ tộc [Vua Hùng]. Vì xã hội Văn Lang là xã hội của cư dân nông nghiệp lúa nước, trọng nghề nông nên Lang Liêu vì giỏi nghề nông, biết chế biến sản vật nông nghiệp thành bánh trưng bánh dày, thứ đặc sản hơn mọi sơn hào hải vị nên mới được truyền ngôi Vua. Thời cổ đại vì thế công bằng và dân chủ hơn: Ai tài thì lên cầm quyền bất luận anh hay em, già hay trẻ. Người Mường gốc gác dân Lạc Việt ta ngày nay vẫn quan niệm ai thấy mặt trời trước thì làm anh người thấy mặt trời sau. Con em đẻ trước được làm anh con anh đẻ sau là vì vậy.

Lang Liêu biết làm bánh trưng bánh dày để thể hiện cho trời tròn đất vuông. Từ xã hội nguyên thuỷ tổ tiên ta đã có quan niệm về trời đất sinh ra mọi vật. Tín ngưỡng thờ mặt trời ra đời rất sớm. Tương truyền hàng năm Vua Hùng lên đền Thượng [khu đền Hùng] để tế trời đất. Trống đồng Đông Sơn thời vua Hùng có hình tia mặt trời ở giữa, con người và vạn vật quay quanh theo chiều ngược kim đồng hồ, biểu hiện mặt trời đi từ Đông sang Tây. Quan niệm nguyên thuỷ về trời đất còn được thể hiện ở hầu hết các lễ hội cổ truyền ở vùng Đất Tổ với tục cúng và cướp quả cầu, quả phết và ném quả còn là những vật tròn hình tượng mặt trời.

Hình tượng bánh trưng bánh dày mà Lang Liêu dâng tiến vua cha, ngoài ý nghĩa khuyến nông còn chứa đựng tín ngưỡng thờ mặt trời được bắt nguồn từ kinh nghiệm trực giác do dân gian quan sát thấy để rồi người ta phải quy phục mà trông trời, trông đất, trông mây. Khi triết học âm dương hình thành truyền thuyết ấy lại được cấy thêm lớp ý nghĩa triết học với mặt trời tròn là dương được biểu trưng bằng hình bánh dày và bánh trưng vuông tượng trưng cho đất là âm. Truyền thuyết bánh trưng bánh dày của Lang Liêu ngoài thông tin về tổ chức xã hội thời Hùng Vương, dân gian còn cấy vào đấy những quan niệm của các thời đại về thế giới tự nhiên.

Đậm đặc hơn cả trong các tập sách về truyền thuyết Hùng Vương là các truyện Vua Hùng và các nhân vật thời Hùng dạy dân trị thuỷ, dạy dân trồng trọt, bảo dân trồng kiệu, làm dưa cải, kéo mật, trồng dâu nuôi tằm. Đặc biệt nhất là truyền thuyết dạy dân cấy lúa ở đồng Nú làng Minh Nông. Buổi trưa vua tôi nghỉ công việc đồng áng đưa nhau lên gốc Da Đồn nghỉ ăn cơm. Tương truyền xóm Cây Da Đồn ở cạnh đồng Nú, chợ làng Minh Nông ngày nay. Trước đây mùa xuân hàng năm dân làng mở hội [lễ] tịch điền ở đồng Nú. Một người đóng vai Vua Hùng xuống cày những đường cày đầu tiên làm lễ mở đầu cho một mùa vụ cày cấy mới.

Vì truyền thuyết không phải là lịch sử nhưng dân gian đã ký thác vào đấy tâm hồn lịch sử của mình để ca ngợi cái cốt lõi của thời Hùng mà nhà vua rất chú trọng nghề nông, vua tôi đồng cam cộng khổ cùng làm cùng ăn. Đấy cũng là lớp cốt lõi của truyền thuyết này. Mãi về sau từ thời trung cận đại dân gian lại cấy thêm vào truyền thuyết lớp Vua Hùng làm lễ tịch điền ở đồng Nú. Thực ra tịch điền mới chỉ có từ thời Vua Lê Đại Hành. Nhà Vua xuống ruộng thờ cày đường cày làm lễ. Từ đó các làng Việt mới theo Vua Lê mở lễ tịch điền, lễ xuống đồng đầu tiên cho vụ cày cấy trong năm.

Vua Hùng dạy dân trồng lúa nghĩa là Vua Hùng rất chú ý khuyến nông. Nghề nông ở Việt Nam ra đời từ gần vạn năm trước. Tương ứng với các nền văn hoá khảo cổ Hoà Bình và Bắc Sơn. ở các di chỉ đó người ta đã đào được các hiện vật của sơ kỳ đồ đá mới. Xã hội trước đó là những bày người nguyên thuỷ sống bằng hái lượm tự nhiên chưa biết trồng trọt. Do hái lượm nên chỉ cần công cụ thô sơ dùng cạnh sắc của đá cuội ghè để giết muông thú và chặt đẽo gậy gộc thô sơ. Nhưng khi biết trồng trọt thì con người buộc phải mài đá làm công cụ để canh tác. Sơ kỳ đồ đá mới xuất hiện khi nào thì nông nghiệp sơ khai ra đời khi ấy. Bốn ngàn năm trước Việt Trì còn là cửa biển. Đồng làng Minh Nông ngập trong nước mặn, ít ra là nước lợ không thích hợp cho việc ra đời nghề trồng trọt cây lúa nước. Hơn nữa khi nghề nông đã phát triển, đã có cả nền văn minh sông Hồng, văn hoá lúa nước đồng thời nghề thủ công đúc đồng đã ở mức tinh sảo, của cải xã hội tích luỹ nhiều hơn, nạn cướp của và bắt tù binh làm nô lệ đã xảy ra thường xuyên buộc các cộng đồng người phải liên kết lại thành bộ tộc và liên minh các bộ tộc. Khi ấy người đàn bà chân yếu tay mềm đã phải bàn giao quyền quản lý xã hội và gia đình cho người đàn ông. Hội đủ các điều kiện trên nhà nước mới ra đời, đại tộc trưởng hay Vua Hùng mới xuất hiện. Nhà nước Văn Lang vì thế chỉ có thể ra đời cách đây ngót ba ngàn năm tương ứng với văn hoá đồ đồng Đông Sơn mà trống đồng Ngọc Lũ là tiêu biểu.

Trước đây ở đền Hùng có thờ mô hình hạt lúa to bằng thuyền hai cắng. Tín ngưỡng thờ hồn lúa và truyền thuyết Vua Hùng dạy dân trồng lúa đều được xuất phát từ nguyện vọng, tâm linh tâm thức của cộng đồng cư dân lúa nước Việt Nam có nền văn hoá lúa nước rực rỡ.

Tìm hiểu truyền thuyết Hùng Vương chính là tìm về cội nguồn dân tộc.

Nguyễn Hữu Nhàn

Video liên quan

Chủ Đề