Phật giáo thời lý đặc biệt phát triển vì sao

Và 24 năm sau - năm 1080, theo gương của các tiền nhân, vua Nhân Tông lại cho đúc chuông chùa Diên Hựu. Nhưng có lẽ vì quá to và nặng đến mức không thể treo, nên người dân Thăng Long “đành” mang ra ruộng để cho rùa vào làm tổ và gọi là chuông Quy Điền.

Cùng với chùa, tháp Báo Thiên là rất nhiều các ngôi chùa khác được dựng trên đất Thăng Long, trong đó có chùa trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam như chùa Một Cột [Diên Hựu tự] được dựng năm 1049, sau một giấc mơ của vua Lý Thái Tông… Có thể thấy, Diên Hựu [kéo dài tuổi thọ] là một tên gọi hết sức ý nghĩa ở vào thời điểm chúng ta mới thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc và bắt đầu bắt tay vào xây dựng, củng cố một quốc gia độc lập thật sự. Và vì thế, mong muốn kéo dài tuổi thọ của Hoàng đế Thái Tông không phải chỉ vì bản thân, mà cao hơn, đó chính là mong ước đất nước, dân tộc được trường tồn và trường tồn với tư cách là một quốc gia độc lập, không phụ thuộc vào kẻ thù lớn phương Bắc sau gần 1000 năm bị lệ thuộc.

Theo các tài liệu, chùa Diên Hựu được dựng trên hồ Linh Chiểu, ở vườn Tây Cấm trong kinh thành Thăng Long: giữa hồ là cột đá cao, trên đỉnh cột dựng ngôi chùa gỗ, bên trong đặt pho tượng Quan Âm bằng vàng. Nhìn từ xa, chùa như đóa sen nghìn cánh vươn lên từ gương nước trong xanh, biểu hiện một sự thanh cao, trong sạch, thấm đượm tinh thần của Phật giáo và cũng biểu trưng cho cốt cách tinh thần của người Việ

Ngoài chùa Diên Hựu, những ngôi chùa khác được xây dựng với quy mô lớn như chùa Bà Tấm [Gia Lâm – Hà Nội] với chiều ngang của bậc cửa vào chùa rộng 12m và chiều dài từ bậc cửa vào đến giữa tòa Thượng điện là 60m. Chỉ cần vài số đo ấy ta cũng có thể thấy khu “nội tự” rộng đến mức nào…

Có thể khẳng định, cho đến trước khi dựng Văn Miếu, mở trường học- năm 1070, thì ngôi chùa là trường đào tạo nhân tài và đội ngũ trí thức lúc bấy giờ phần lớn có xuất phát điểm từ chùa. Các thiền sư không những uyên thâm giáo lý Phật giáo mà còn tinh thông Nho giáo, dịch lý và Đạo giáo, là những thầy giáo toàn diện. Và tinh thần ấy còn được truyền cho đến những triều đại sau, để lịch sử được chứng kiến những vị vua sẵn sàng cởi bỏ hoàng bào, rời bỏ ngai vàng không mảy may nuối tiếc.

Cùng với hệ thống di sản văn hóa vật thể, kinh đô Thăng Long còn lưu giữ những di sản văn hóa phi vật thể của Phật giáo hết sức độc đáo và đặc sắc. Ví như: Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý đã tạo dựng một bản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Đối với sinh hoạt văn học, Phật giáo cũng có những đóng góp to lớn. Nền văn học Đại Việt mà chúng ta được biết tới ngày nay tuyệt đại đa số là trước tác của các thiền sư; và có thể nói, văn học Phật giáo đã trở thành dòng văn học chủ đạo của thời kỳ này.

Những lễ hội Phật giáo cũng được tổ chức khá thường xuyên, như lễ tắm Phật được thực hiện hàng năm, Nhân vương hội [hội tụng kinh Phật thuyết Nhân vương Bát Nhã Bà La Mật kinh] được tổ chức nhiều lần trong cung, rồi việc rước các vị Phật Tứ pháp về kinh để cầu đảo cũng nhiều lần được sử sách ghi lại… đã tạo ra một diện mạo phong phú trong đời sống tinh thần của người dân Thăng Long thời Lý.

Ngoài ra, nghệ thuật dân gian cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của Phật giáo, ví như nghệ thuật múa rối nước và múa rối cạn đã đạt được những thành tựu tuyệt vời: trong ngày hội đèn Quảng Chiếu giữa kinh đô Thăng Long, cả vua và dân đã được thấy cây đèn độc đáo hình nhà sư, vặn máy biết giơ dùi đánh chuông, nghe tiếng sáo biết quay mặt lại chào khán giả…

Bên cạnh đó, dù ngay tại kinh đô hay các vùng miền khác, ngôi chùa thời Lý không chỉ đơn thuần là nơi tu hành của các bậc đại sư mà còn có nhiều chức năng khác: chùa đồng thời là nơi chữa bệnh cho dân, là trường học dạy chữ cho người Việt [ở những thời điểm mà Nho giáo chưa đảm trách được công việc này].

Điểm lại ảnh hưởng của Phật giáo trong các lĩnh vực thuộc đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của nước Đại Việt thời Lý nói chung, đất Thăng Long nói riêng để khẳng định: Phật giáo tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và có tác động đến mọi lĩnh vực của cuộc sống. Và chính điều đó đã làm nên bản sắc riêng của kinh đô Thăng Long với các địa phương khác trong cả nước. Thời gian trôi qua, dù có lúc thăng trầm, đã đôi lúc tưởng như Phật giáo không còn vai trò trong việc hình thành nhân cách của người Việt nói chung, người Thăng Long- Hà Nội nói riêng, nhưng những việc mà họ đã và đang làm lại cho thấy: Phật giáo chưa bao giờ mất đi ảnh hưởng của mình trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trong tiến trình tạo dựng văn hóa Thăng Long. Và mái chùa muôn đời vẫn là nơi “che chở hồn dân tộc”, nơi giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt và giúp con người hướng thiện, đến với điều lành, tránh điều ác. Và những việc làm đầy tính nhân bản, vì con người thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “thương người như thể thương thân”… rõ nét hơn hết ở mỗi người dân Thăng Long- Hà Nội đã thấm đãm tinh thần từ bi của Phật giáo. Đó chính là kết quả của việc đồng hành cùng kinh đô Thăng Long ngay từ buổi đầu khi vùng đất Đại La được lựa chọn là kinh đô của một quốc gia độc lập, một triều đại tuy non trẻ nhưng đầy khí thế.

Với những đóng góp của Phật giáo từ 1000 năm trước, những người con Phật hôm nay thấy vô cùng tự hào vì tinh thần hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc, đóng góp vào lịch sử và văn hiến của Thăng Long – Hà Nội của Phật giáo, những cũng thấy cần khơi dậy ý thức trách nhiệm, lòng quyết tâm tu tập và dấn thân hoằng dương Phật pháp. Bởi chỉ có như vậy, mạng mạch Phật pháp trên đất Rồng bay mới được tiếp nối, duy trì và xiển dương, đưa Phật giáo Thăng Long trở lại vị thế xứng đáng mà các thế hệ tiền nhân thời Lý đã làm./.

- Thời Lý – Trần, Nho giáo chưa ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Đạo Phật giữ vị trí đặc biệt quan trọng và khá phổ biến. Vì :

     + Phật giáo vốn được du nhập vào nước ta từ lâu, đã ăn sâu trong tâm thức người Việt.

     + Nhà Lý, Trần tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Vua, quan thời Lý, Trần nhiều người theo đạo Phật, góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, viết giáo lí nhà Phật. Chùa chiền được xây dựng ở nhiều nơi.

- Đến thời Lê sơ, đạo Phật suy dần. Vì thời Lê sơ, Nho giáo được chính thức nâng lên địa vị độc tôn để củng cố và bảo vệ vương quyền; ban hành nhiều điều lệnh nhằm phát triển sự phát triển của Phật giáo.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Việc dựng bia Tiến sĩ có tác dụng gì?

Xem đáp án » 21/03/2020 3,462

Hãy nhận xét về đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý, Trần, Lê

Xem đáp án » 21/03/2020 1,243

Đặc điểm của thơ văn các thế kỉ XI – XV.

Xem đáp án » 21/03/2020 1,132

Thống kê các thành tựu văn học, nghệ thuật ở các thế kỉ XI – XV

Xem đáp án » 21/03/2020 1,102

Trình bày tóm tắt sự phát triển của giáo dục qua các thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê sơ

Xem đáp án » 21/03/2020 569

Nhận xét vị trí của Phật giáo ở các thế kỉ X – XIV

Xem đáp án » 21/03/2020 371

     Là một tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, tiếp thu từ phật giáo của Ấn Độ, phật giáo của Trung Quốc, các tư tưởng của Nho giáo, các lễ thức của Đạo giáo hình thành nên một tôn giáo của dân tộc – Phật giáo Việt Nam. Thời Đinh – Tiền Lê, nước ta thoát khỏi ách đô hộ của phương Bắc bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ, phật giáo có điều kiện để phát triển hơn, nhưng phải đến thời nhà Lý, Phật giáo mới phát triển cao nhất và được xem như quốc giáo của quốc gia Đại Việt.

     Thời nhà Lý, Phật giáo có sự tồn tại, phát triển của nhiều thiền phái đã có từ các thời kỳ trước như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và hình thành thiền phái mới – thiền phái Thảo Đường [1] đạt đến độ hưng thịnh và ảnh hướng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống đất nước:

      Về chính trị: “Ở thời kỳ này, lực lượng phật giáo rất lớn, càng về sau càng phát triển. Phật giáo đã đông người lại có ruộng đất riêng” [2]. Sở hữu ruộng đất thời kỳ phong kiến là do nhà nước quản lý, cũng có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân, do sự phát triển, vai trò lớn của mình, nhà chùa đã sở hữu một phần ruộng đất khá lớn trên cả nước. Hệ thống tổ chức tăng quan phát triển cả về số lượng và quyền lực chính trị. Một số tăng sĩ có đạo cao, học vấn uyên bác được các vua trọng dụng. Có người là được làm thầy dạy của vua, được trọng dụng và phong hiệu Quốc sư như: Sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, khi cần, còn cố vấn cho vua những vấn đề quản lý, an ninh của đất nước, các đại sư được trọng dụng đồng thời cũng hưởng nhiều phong thưởng, đặc quyền như: “Trường hợp sư Giác Hải khi chết được vua Lý Nhân Tông miễn thuế cho 30 hộ để hương đèn thờ phụng; sư Mãn Giác khi được phong là Hoài Tín đại sư, giao chức nhập nội đạo tràng Tử y đại sa môn thì được triều đình cấp 50 hộ; Thiền sư Giới Không năm 1135 có công cứu sống hàng ngàn người bị bệnh dịch được vua Lý Thần Tông cấp “10 hộ được miễn tô thuế để thờ phụng”” [3].

      Về văn hóa – giáo dục: Cùng với Nho giáo, những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã được truyền dạy trong giới quý tộc, quan chức, nho sĩ và là niềm tin tâm linh xoa dịu đời sống của nhân dân. Chùa chiền được xây dựng nhiều với mục đích không chỉ phổ biến kinh sách đạo Phật mà còn là thiền viện, diễn đàn của tầng lớp Nho sĩ, nhiều nhà sư là thầy dạy học cho các thái tử, là thầy thuốc chữa bệnh cho nhân dân và sáng tác các tác phẩm văn học. Văn hóa – giáo dục thời kỳ này đạt nhiều thành tựu lớn như: mở khoa thi đầu tiên ở Việt Nam để chọn nhân tài [năm 1075], mở trường đại học đầu tiên [Quốc Tử Giám] để đào tạo nhân tài cho nước nhà, nhiều tác phẩm có giá trị lớn như: Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Thiền Uyển Tập Anh…

Bản dập Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: năm Tân Mùi [1031] vua Lý Thái Tông ban chiếu cho xây dựng 950 chùa, quán ở các hương ấp.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “Đại Việt Sử ký toàn thư“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Lược dịch Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm Canh Tuất 1010. Mộc bản sách “Đại Việt Sử ký toàn thư“, quyển 2, mặt khắc 2.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

    Về Tôn giáo:  Phật giáo thực sự trở thành quốc giáo. Các vua thời Lý rất sùng đạo, một số vua được tôn là tổ của các phái thiền. Vua Lý Thái Tông là vị Tổ thuộc thế hệ thứ bảy phái Thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai Thiền phái Thảo Đường [4]. Đối với người dân lao động, đạo Phật tuy không cao siêu như là Thiền học hay Phật học, mà được đời thường hóa, dân gian hóa và gắn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của nhân dân nên thu hút được đông đảo dân chúng tin theo “dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền” [5], phát triển thành tôn giáo truyền thống của dân tộc cho đến nay.

     Về điêu khắc – kiến trúc: Đã có nhiều công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao in sâu triết lý phật giáo. Tiêu biểu nhất cho nền mỹ thuật Phật giáo thời này là bốn công trình được gọi là An Nam tứ đại khí: tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Minh, chuông Quy Điền. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nổi tiếng khác như chùa Diên Hựu [Chùa Một Cột], tháp Sùng Thiện Diên Linh, tháp Chương Sơn….

Chùa Một Cột năm 1939.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản, SLT 34 -493.

      Phật giáo phát triển cực thịnh ở thời kỳ nhà Lý do nhiều nguyên nhân có thể do được sự ủng hộ từ phía chính quyền, bản thân vua Lý Thái Tổ thuở nhỏ từng là con nuôi của sư Lý Khánh Vân, đệ tử thụ giáo của sư Vạn Hạnh, lên ngôi vua nhờ được thế lực Phật giáo của sư Vạn Hạnh và các triều thần ủng hộ, nhiều vua sau này là tổ của các phái thiền. Các nhà sư được vua và triều đình trọng dụng, phật giáo có ảnh hưởng lớn trong xã hội nhưng giáo lý vẫn chú tâm hướng con người đến cái thiện, các Quốc sư tư vấn giúp vua cai trị đất nước quốc thái, dân an, tham gia và sát cánh với quá trình bảo vệ độc lập đất nước. Giáo lý có sự tiếp thu từ các tôn giáo ngoại lai [Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung quốc] nhưng có sự kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc tạo một cách hài hòa và gắn liền với đời sống nhân dân.

Bản dập Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên” chép: việc vua Lý Thái Tổ khi còn nhỏ được
sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

      Triều Lý – triều đại mở đầu cho nền văn minh Đại Việt đã để lại những dấu ấn đậm nét trên lĩnh vực về chính trị, quân sự trong hơn 200 năm tồn tại của mình. Phật giáo thời nhà Lý được xem là giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất trong các triều đại phong kiến, tạo nên những nền tảng cơ bản về cả giáo lý, kiến trúc, văn hóa, đi sâu vào trong đời sống nhân dân và có ảnh hưởng đến sự phát triển của giai đoạn sau của Phật giáo thời nhà Trần, đặc biệt là sự ra đời của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử. Với những thành tựu để lại, có thể nói, Phật giáo Việt Nam thời kỳ nhà Lý đã khẳng định được vai trò của một tôn gáo dân tộc với giáo lý, các thiền phái riêng, hướng phát triển gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng quá trình xây dựng, phát triển nước Đại Việt.

Trúc Phương

Chú thích:

1. Theo tác giả Hoàng Thị Thơ trong bài “Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt”: Thảo Đường là thiền phái thứ ba của Việt Nam, ra đời trong thời Lý Thánh Tông, do sư Thảo Đường sáng lập và truyền đạo cho vua Lý Thánh Tông [thế hệ thứ nhất], vua Lý Anh Tông [thế hệ thứ năm]. Dòng thiền này chủ yếu phát triển trong Hoàng gia và giới quý tộc có thế lực thời đó. Do vậy, nó đã có sự tác động trực tiếp đến tư duy của họ trong đường lối trị nước.
2&3&5. Theo sách Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007, tập 1, Tr 140-141.
4. Th.S. Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.

Tài liệu tham khảo:

1. Hoàng Thị Thơ, Tư duy hướng nội của Phật giáo và vai trò của nó trong tư duy người Việt, vanhoanghean.com.vn, 08/09/2011.
2. Mai Thục, Vua Lý Thánh Tông và Thiền phái Thảo Đường, vanhoaphatgiaovietnam.net, 31/10/2016.
3. Ths.Lê Thị Cúc, Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự phát triển văn minh Đại Việt, phatgiao.org.vn, 30/06/2018.
 4. Nguyễn Công Lý, Góp phần tìm hiểu văn học Phật giáo Việt Nam trước thời Lý – Trần, //khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 14/06/2009.
5. Anh Vũ, Văn học thời Lý – mở đầu cho những truyền thống lớn của văn học viết nước ta, //nxbhanoi.com.vn, 22/06/205.
6. Đỗ Hoàng Anh, Phật giáo ở Việt Nam: Góc nhìn từ tài liệu lưu trữ, Luutruquocgia1.org.vn, 25/04/2019.
7. //langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/viet-nam-phat-giao-su-luan/chuong-08-tong-quan-ve-phat-giao-doi-nha-ly-1010-1225.
8. //thuvienhoasen.org/a18324/tho-van-ly-tran.
9. //kienviet.net/2013/05/13/chua-mot-cot-trong-ky-uc-mot-thoi-kho-khan-khoi-lua.

Video liên quan

Chủ Đề