Tại sao cần có sự can thiệp của nhà nước vào thị trường

Chiều 13/12, tại hội thảo khoa học về sử dụng, phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, Phó trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn cho biết, sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị, đã đạt được một số kết quả. Song, đại dịch Covid-19 đã đặt ra thách thức lớn, đòi hỏi những nhận thức mới.

Phó trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn. Ảnh: Hiếu Duy

Giáo sư Đỗ Thế Tùng [nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh] cho rằng, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, phải phát huy tối đa những nguồn lực gắn với các nhân tố sức sản xuất của lao động. Đó là người lao động [nhân lực], khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, điều kiện tự nhiên.

Riêng về tổ chức và quản lý, GS Tùng nhấn mạnh phải xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Ngày nay, hầu hết nước đều phát triển nền kinh tế hỗn hợp - tức là kinh tế thị trường có sự quản lý [hay điều tiết] của nhà nước. Vai trò của quản lý nhà nước thể hiện ở việc tạo ra môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi, điều tiết sản xuất, điều tiết phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.

Quảng cáo

Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý kinh tế để phát huy tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực của thị trường, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp và người dân. Không thể xác định những nguyên tắc chung hay những phương thức thống nhất để xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cho mọi nước, vì việc xử lý này tùy thuộc vào mô hình kinh tế cụ thể của từng nước.

Ví dụ, nước theo lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới [như Mỹ], nêu khẩu hiệu "Nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn"; nước theo mô hình kinh tế thị trường hướng vào phúc lợi xã hội [như Thụy Điển] lại nhấn mạnh "xã hội hóa phân phối là căn bản"; còn nước theo hô hình kinh tế thị trường xã hội [như nước Đức] lại theo phương châm "thị trường ở mọi lúc mọi nơi, nhà nước ở những lúc, những nơi cần thiết".

Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 chứng tỏ khẩu hiệu "nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn" đã dẫn đến buông lỏng quản lý của nhà nước và gây ra hậu quả tồi tệ. Việc xã hội hóa phân phối ở Thụy Điển lại chỉ ra giới hạn điều tiết của nhà nước. Còn phương châm "thị trường ở mọi lúc mọi nơi, nhà nước ở những lúc những nơi cần thiết" tỏ ra ưu việt hơn so với hai cách xử lý ở trên.

Thị trường vận hành thuận lợi, cạnh tranh tự do lành mạnh sẽ sử dụng được các nguồn tài nguyên một cách tối ưu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, thu được lợi nhuận cao hơn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nhưng cạnh tranh tự do tất yếu đòi hỏi phải phân phối tương xứng với phần đóng góp của mỗi người, và sẽ không tính đến những khía cạnh nhân đạo, xã hội. Bởi vậy nhà nước cần phải có những chính sách để điều tiết giảm bất công xã hội thông qua thuế, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội...

Quảng cáo

Theo các chuyên gia, sự can thiệp của nhà nước chỉ cần thiết ở nơi nào cạnh tranh không hiệu quả; bởi vậy, dù cần một chính phủ mạnh và một lực lượng kinh tế mạnh làm chỗ dựa vững chắc cho sự điều tiết của nhà nước nhưng không có lý do gì để nhà nước can thiệp vào nơi thị trường đang hoạt động có hiệu quả. Nhà nước phải cân nhắc thận trọng khi hành động vì sai lầm của nhà nước còn tai hại hơn khuyết tật của thị trường.

"Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, Cộng hòa Liên Bang Đức là một trong những nước ít chịu ảnh hưởng nhất, và vượt qua suy thoái sớm", GS Tùng nói. Ông cho rằng ở Việt Nam, quản lý doanh nghiệp chưa được hoàn toàn tự chủ, quản lý nhà nước còn nhiều nhược điểm vì có nhiều quy định ràng buộc hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra những sự can thiệp không cần thiết của bộ máy nhà nước.

GS.TSKH Võ Đại Lược. Ảnh: Hoàng Phong

GS.TSKH Võ Đại Lược cũng cho rằng, ở những nước đang chuyển sang kinh tế thị trường như nước Việt Nam, thì Nhà nước càng có vai trò quan trọng việc xóa bỏ các rào cản của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng và đổi mới thể chế kinh tế - xã hội để tạo môi trường, điều kiện và khung pháp lý cần cho kinh tế thị trường ra đời và phát triển.

Khi chưa có thị trường, Nhà nước phải tạo dựng các thị trường, khi đã có thị trường, Nhà nước phải sử dụng các công cụ thị trường mới có thể điều tiết, định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế một cách hiệu lực và có hiệu quả. Khi thị trường đã phân bổ phần lớn các nguồn lực, Chính phủ mới có thể tập trung vào thực hiện những chức năng nâng cao hiệu quả, khuyến khích công bằng, ổn định kinh tế vĩ mô ...

Theo GS Lược, các Đại hội Đảng đều đã khẳng định "thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Do đó, để phát triển kinh tế thị trường, ông đề ra 5 giải pháp. Đó là đẩy mạnh thực hiện các cam kết quốc tế của các Hiệp định thương mại tự do [FTA] mà Việt Nam đã ký kết về phát triển kinh tế thị trường cả về chiều rộng và chiều sâu; giảm độc quyền, giảm bảo hộ, bỏ bao cấp; xác định một lộ trình cho việc giãn dần và bỏ chế độ tỷ giá cố định, gia tăng tính thị trường của tỷ giá, đảm bảo tỷ giá luôn thấp hơn một chút so với giá trị thực của VND.

"Cần có những giải pháp và lộ trình thích hợp để VND có thể chuyển đổi tự do trên các tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Giải pháp quan trọng nhất là phải chuyển mạnh theo hướng cân bằng xuất nhập khẩu và xuất siêu, điều này đòi hỏi phải mở cửa thị trường bên ngoài hơn nữa, điều chỉnh tỷ giá, ưu đãi cho xuất khẩu", theo GS Lược.

Bên cạnh đó, cần phát triển các hình thức tài chính phi ngân hàng, các công ty tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán - đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được bán trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, mở room cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty cổ phần mà nhà nước không cần nắm giữ, ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược...

Cuối cùng, GS Lược đề nghị cần nghiên cứu, soạn thảo, sớm ban hành những bộ luật của kinh tế thị trường mà Việt Nam chưa có. Đồng thời, sớm sửa đổi một số Luật như Luật Phá sản, Luật Cạnh tranh, Luật Dân sự... cho phù hợp với kinh tế thị trường, giao quyền soạn thảo luật cho Quốc hội, không để các Bộ soạn thảo như hiện nay.

Nhiều người ủng hộ thị trường tự do cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào giá khẩu trang mà hãy để cho thị trường tự điều chỉnh. Họ muốn để cho “bàn tay vô hình” của thị trường sắp xếp lại mọi thứ, thay vì nhìn thấy “bàn tay hữu hình” của nhà nước nhúng vào.

Tôi cho rằng đây là cách tiếp cận theo hướng cực đoan hóa chủ nghĩa thị trường tự do. Đến cuối cùng, sau hàng thế kỷ phát triển của nhà nước và pháp luật, đã không ai, kể cả những nhà kinh tế học hàng đầu, còn tin vào thị trường tự do tuyệt đối. 

Thị trường chỉ có thể tự điều chỉnh nếu thị trường còn lý tính, thường được biết đến trong tiếng Anh với tên gọi Rational Market Theory [hay đôi khi là Efficient Markets Hypothesis]. Nói ngắn gọn, thuyết thể hiện một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng tiếp cận thông tin và khả năng đưa ra các quyết định hoàn toàn lý tính của những chủ thể tự do tham gia vào thị trường.

Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết những nhà kinh tế học đều buộc phải thừa nhận rằng thị trường sẽ lý tính và làm rất tốt nhiệm vụ điều chỉnh giá cả của mình chỉ khi tồn tại những điều kiện nhất định như về tài nguyên, thời gian, sự ổn định chính trị và quan trọng nhất là giả định về một môi trường thông tin hoàn hảo tuyệt đối. 

Những yếu tố này có thể được duy trì không khi đang diễn ra một căn đại dịch khiến cả thế giới lo lắng, Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] báo động mức độ cấp cao, di chuyển và giao thương vào vùng dịch bị cô lập hoàn toàn, và Việt Nam thì nằm sát “ổ dịch”? 

Tôi dám cá là không.

Một số người cho rằng chỉ cần nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về số lượng khẩu trang có thể sản xuất được, chứng minh năng lực cung cấp khẩu trang dồi dào, người bán tự sẽ mất động cơ để đầu cơ, còn người mua tự mất cơ sở để hốt hoảng, thị trường khẩu trang lại “nên thơ” như thuở ban đầu. Đó chính là một giả định về sự lý tính của các chủ thể trong thị trường.

Nhưng nhu cầu và điều thúc đẩy những chủ thể này hành động như họ đang hành động hiện nay, xin thưa không phải vì thông tin từ chính phủ Việt Nam đưa ra. Có trời mới biết còn bao nhiêu người Việt Nam tin tưởng vào những gì chính phủ tuyên bố. Thứ khiến họ nháo nhào, chen chúc nhau đi mua khẩu trang là thông tin về dịch bệnh ở tầm quốc tế, là kỳ vọng và nỗi lo sợ của họ về tình hình và thời gian kéo dài của dịch bệnh. 

Chỉ cần tại Vũ Hán có thông tin số lượng người tử vong gia tăng, chỉ cần con số bệnh nhân ở Singapore tăng lên vài người, chỉ cần xuất hiện thông tin rằng có hiện tượng xuất khẩu vài triệu khẩu trang cho Trung Quốc, không chỉ thị trường Việt Nam, mà thị trường nào trong tình thế địa chính trị tương tự Việt Nam cũng sẽ mất hết lý tính. Kỳ vọng các chủ thể thị trường hành động như những con chữ trong học thuyết cũng đã là phi lý tính rồi.  

Câu trích này có vẻ sẽ không công tâm, vì Keynes là người đứng đầu của chủ nghĩa can thiệp Tây phương, nhưng như ông từng nói: “Thị trường có thể duy trì sự phi lý tính của nó lâu hơn bạn có thể chịu đựng”. Đây là một nhận định hoàn toàn có cơ sở. 

Tôi hoàn toàn tin rằng ở một thời điểm nào đó trong tương lai, thị trường khẩu trang tại Việt Nam sẽ tự điều chỉnh mình. Nhưng tương lai đó chưa được xác định. Và mức giá khẩu trang “tự do” hiện tại đang là một thất bại tạm thời của thị trường. Mà đã là thất bại thì cần được điều chỉnh. Sự can thiệp của nhà nước về giá, như vậy, là cần thiết. 

Tôi xin được phép dẫn chứng một nghiên cứu rất gần và rất thiết thực với vấn đề dịch tễ hiện nay, mang tên “Hàng hóa y tế công cộng: Lý luận kinh tế và các công cụ ưu tiên hóa” [Common Goods for Health: Economic Rationale and Tools for Prioritization] của nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Giáo sư Kinh tế về y tế cộng đồng Peter C. Smith của trường Imperial College London. Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định danh nghĩa các loại hàng hóa cần phải được nhà nước ưu tiên can thiệp và kiểm soát, đặc biệt sau khi họ quan sát những thất bại của thị trường trong những nạn đại dịch trước đây như Ebola, SARS, Zika, và các loại bệnh truyền nhiễm khác.

Cụ thể, nhóm nghiên cứu tin rằng, trong những trường hợp cụ thể khi mà một loại hàng hóa y tế nhất định gây ảnh hưởng đến một số lượng lớn người tiêu dùng, nhà nước có thể can thiệp để quản lý quyền thống lĩnh thị trường, và bằng nhiều biện pháp dân sự hay hành chính khác, kể cả bơm tiền và tạo dựng các dịch vụ nhà nước. Theo họ, can thiệp vào thị trường là cách tốt nhất để tối đa hóa lợi ích xã hội.

Trong đó, có hai điều kiện quan trọng liên quan [trong số bốn điều kiện mà chúng ta không đủ thời gian xem xét ở đây] để xem xét loại hàng hóa nào có thể được xác định là hàng hóa sức khỏe công cộng và cần nhà nước can thiệp:

  • Hàng hóa đó phải là hàng hóa công [public goods]. Đây là loại hàng hóa [hoặc dịch vụ] mà việc sử dụng chúng không mang tính loại trừ, tức việc sử dụng của người này không nên và không thể bị giới hạn bởi việc sử dụng của một người khác. Với trường hợp của khẩu trang, quyền tiếp cận khẩu trang trong mùa dịch phải được liệt kê là dạng hàng hóa không mang tính loại trừ.
  • Có tình trạng bất cân xứng thông tin [information asymmetries]. Tức khi người dùng tiềm năng không có đủ thông tin để tận dụng dịch vụ, giá trị hàng hóa một cách tối ưu. Khi mà đỉnh điểm của dịch còn chưa bùng phát, và thông tin về sự nghiêm trọng của dịch có thể vẫn còn bị chính phủ Trung Quốc che giấu, thời gian kéo dài bệnh dịch là vô định, và người sử dụng gần như không còn lựa chọn nào khác là phải chấp nhận mua và dự trữ loại hàng hóa dùng một lần này. 

Nếu bạn không cảm thấy thỏa mãn vì nghiên cứu trên chưa nói về giá, một báo cáo hoàn thiện được kết hợp thực hiện bởi nhóm các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế [OECD] và WHO cũng chỉ rõ sự cần thiết của kiểm soát giá đối với các mặt hàng y tế. Trả lời cho câu hỏi vì sao nhà nước nên can thiệp vào việc định giá mặt hàng này, nhóm nghiên cứu khẳng định rằng trong môi trường y tế thông thường, người bán và người cung cấp dịch vụ nắm nhiều thông tin hơn người mua. Và người mua, vì lý do áp lực sức khỏe, không bao giờ có đủ năng lực để đàm phán và đánh giá giá trị dịch vụ, hàng hóa ngang bằng trong xã hội. Khi tình huống này diễn ra, và khẩu trang trở thành một mặt hàng y tế thiết yếu, việc chính phủ can thiệp giá là hoàn toàn phù hợp. 

Hiển nhiên, tôi thừa nhận rằng việc định giá là không đơn giản, báo cáo được đề cập cũng phải dành rất nhiều thời lượng để bàn về việc chính phủ nên định giá như thế nào nhằm bảo đảm công bằng và khuyến khích đầu tư [Mục 6.1. Adjustments and add-ons to ensure payment adequacy and fairness], song thẩm quyền can thiệp của nhà nước đã được các nhà nghiên cứu thừa nhận một cách hiển nhiên. Và đối với mặt hàng sản xuất đơn giản như khẩu trang, việc duy trì khung lợi nhuận hợp lý cho các nhà sản xuất và phân phối, đồng thời bình ổn và bảo vệ trật tự thị trường là vô cùng dễ dàng. 

Đến đây, tôi cần khẳng định rằng mình không ủng hộ sự hù dọa và những bình luận có phần hơi dân túy của các chính trị gia, nhưng việc kiểm soát giá khẩu trang hiện nay không phải là một hành vi thừa, hay trái khoa học, như đã chứng minh ở trên. Đến cuối cùng, khi mà các quốc gia có năng lực quản lý kinh tế cao như Thái Lan, Malaysia, Đài Loan và Nhật Bản đều đã áp dụng các biện pháp can thiệp và kiểm soát giá khẩu trang, cho rằng những người ủng hộ chính sách này là độc tài như một số nhà bình luận phân tích rõ ràng không công bằng cho lắm.

Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi về địa chỉ .

Video liên quan

Chủ Đề