Tại sao gọi anh là tam sư

Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh [tiếng Anh: England national football team] là đội tuyển của Hiệp hội bóng đá Anh và đại diện cho Anh trên bình diện quốc tế.[2] Sân nhà của đội tuyển Anh là sân vận động Wembley, London. Trung tâm huấn luyện quốc gia của đội tuyển là St George's Park tại Burton upon Trent. Huấn luyện viên hiện tại của đội là Gareth Southgate.

Anh

Đội hình ra sân trong trận chung kết World Cup 1966 của tuyển Anh

Những năm đầuSửa đổi

Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là đội bóng lâu đời trên thế giới, được thành lập cùng một lúc với đội tuyển bóng đá Scotland. Trận đấu giữa đội tuyển Anh và đội tuyển Scotland đã diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1870 được tổ chức bởi Hiệp hội bóng đá Anh [FA]. Một trận đấu giao hữu được tổ chức lại bởi Đội tuyển bóng đá Scotland vào ngày 30 tháng 11 năm 1872. Trận đấu này, diễn ra tại Crescent Hamilton ở Scotland, được xem như là trận đấu bóng đá quốc tế chính thức đầu tiên.[3]

Đội tuyển bóng đá Anh gia nhập Liên đoàn bóng đá thế giới vào năm 1906 và thi đấu giao hữu với các đội bóng khắp châu Âu ngoài Vương quốc Anh vào năm 1908. Sân vận động Wembley được khai trương vào năm 1923 và trở thành sân nhà của đội. Mối quan hệ giữa FA và FIFA trở nên căng thẳng và đội bóng rời khỏi FIFA vào năm 1928, trước khi gia nhập lại vào năm 1946. Kết quả là, Anh không tham dự World Cup cho đến năm 1950.[4][5]

Vô địch World Cup 1966 & sau đóSửa đổi

Nữ hoàng Anh Elizabeth II trao tặng Cúp thế giới năm 1966 cho Đội trưởng Bobby Moore.

World Cup năm 1966 được tổ chức tại Anh, Alf Ramsey dẫn dắt tuyển Anh giành chiến thắng với tỷ số 4-2, chiến thắng trước Tây Đức sau thời gian ở hiệp phụ trong trận chung kết, trong đó Geoff Hurst ghi một hat-trick. Đội tuyển Anh đủ điều kiện tham dự World Cup năm 1970 được tổ chức tại México với tư cách là nhà đương kim vô địch. Đội vào đến vòng tứ kết nhưng đã bị loại bởi Tây Đức. Anh tuy dẫn trước 2-0 nhưng cuối cùng đã bị đánh bại 3-2 sau hiệp phụ.[6]

Sau đó là thập kỷ 70 đen tối khi bóng đá Anh không vượt qua được vòng loại 2 kỳ World Cup: 1974 và 1978, cũng như 2 kỳ Euro: 1972 và 1976.

Bước vào thập niên 80, đội tuyển Anh có chút khởi sắc khi lọt vào vòng chung kết Euro 1980 nhưng bị loại từ vòng bảng. Tại World Cup 1982, Anh dừng bước ở vòng bảng thứ 2. Đội không vượt qua vòng loại Euro 1984 trước khi dự World Cup 1986, nơi mà đội Anh đã chơi xuất sắc trước khi bị loại ở tứ kết bởi Argentina bằng hai bàn thắng nổi tiếng của Diego Maradona. Đội tiếp tục vượt qua vòng loại của Euro 1988, nhưng bị loại ngay ở vòng bảng với thành tích ba trận toàn thua.

1990-2000Sửa đổi

Sang thập niên 90, đội tuyển Anh gây ấn tượng ở vòng chung kết World Cup 1990 khi lọt vào đến bán kết và chỉ chịu thua Tây Đức trong loạt sút luân lưu. Tại giải này, đội giành hạng tư chung cuộc. Anh vượt qua vòng loại Euro 1992. Tại bảng A với Thụy Điển, Đan Mạch và Pháp, Anh xếp cuối bảng và bị loại. Sau đó, đội chơi không tốt và không vượt qua vòng loại World Cup 1994.

Tuyển Anh là chủ nhà của Euro 1996, họ đứng nhất bảng A sau hai chiến thắng trước Scotland và Hà Lan, cùng một trận hòa trước Thụy Sĩ. Tại tứ kết, Anh vượt qua Tây Ban Nha sau loạt đá luân lưu, trước khi dừng bước tại bán kết trước đội vô địch Đức cũng trên chấm 11 mét.

Anh vượt qua vòng loại World Cup 1998, và đứng nhì bảng G sau Romania. Tại vòng 1/16, Anh để thua Argentina trong loạt sút luân lưu ở trận đấu mà David Beckham phải nhận thẻ đỏ. Đội dừng bước ngay ở vòng bảng Euro 2000 khi chỉ có được 3 điểm sau trận thắng Đức, và thua 2 trận trước Bồ Đào Nha và Romania.

Sven-Göran Eriksson, Steve McClaren và Fabio CapelloSửa đổi

Anh tái ngộ Argentina tại bảng F World Cup 2002. Bàn thắng duy nhất trên chấm phạt đền của David Beckham trước Argentina đã giúp Anh trả món nợ 4 năm về trước, và giúp họ đoạt ngôi nhì bảng của chính đối thủ[7]. Anh lọt vào vòng 1/16 và thắng Đan Mạch 3-0. Tại tứ kết, Anh để thua đội vô địch Brazil 1-2 và dừng bước.[8]

Ở vòng bảng Euro 2004., Anh thua Pháp 1-2 ngay trận đầu ra quân, nhưng đã thắng liền hai trận trước Thụy Sĩ và Croatia để đoạt ngôi nhì bảng B [sau Pháp]. Bước vào tứ kết, Anh hòa chủ nhà Bồ Đào Nha 2-2 sau 120 phút thi đấu, và để thua 5-6 trong loạt sút luân lưu với một cú sút penalty thảm họa của David Beckham.[9]

Đội tuyển Anh tại FIFA World Cup 2006

Đội nằm ở bảng B World Cup 2006 cùng các đội Thụy Điển, Paraguay và Trinidad & Tobago. Anh thắng Paraguay 1-0, thắng Trinidad & Tobago 2-0 và hòa Thụy Điển 2-2, giành vị trí nhất bảng. Anh vượt qua Ecuador 1-0 ở vòng 1/16 trước khi gặp lại Bồ Đào Nha ở tứ kết. Trong một trận đấu mà Wayne Rooney phải nhận thẻ đỏ, Anh hòa Bồ Đào Nha 0-0 trong 120 phút và thua 1-3 trên chấm luân lưu.[10]

Đội đã thi đấu không tốt tại vòng loại Euro 2008 và chỉ xếp thứ 3 tại bảng đấu sau Croatia và Nga, qua đó mất quyền dự Euro 2008 tổ chức tại Áo và Thụy Sĩ. Steve McClaren bị sa thải sau khi Anh thua 2-3 trước Croatia ngay trên sân nhà.[11]

Tại World Cup 2010, Anh vượt qua vòng bảng khi có 5 điểm[12], nhưng để thua với tỷ số 4-1 trước Đức tại vòng 16 đội, thất bại nặng nề nhất của đội bóng trong một kỳ World Cup[13]. Trận đấu có nhiều tranh cãi khi bàn thắng hợp lệ của tiền vệ Frank Lampard đã không được công nhận do trọng tài chính đã không nhìn thấy bóng lăn qua vạch vôi của khung thành.[14]

Roy Hodgson, Sam Allardyce và Gareth SouthgateSửa đổi

Vào tháng 2 năm 2012, Fabio Capello từ chức huấn luyện viên trưởng sau bất đồng với FA trong vụ việc loại bỏ đội trưởng John Terry sau cáo buộc phân biệt chủng tộc nhắm lên cầu thủ này.[15] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2012, Roy Hodgson được công bố làm huấn luyện viên mới, chỉ 6 tuần trước khi Euro 2012 khởi tranh.[16] Đội tuyển Anh vượt qua vòng bảng nhưng để thua trong loạt sút luân lưu trước Ý.[17]

Trận đấu giữa Uruguay và Anh tại FIFA World Cup 2014

Tại World Cup 2014, Anh thất bại hai trận liên tiếp trước Ý và Uruguay cùng với tỷ số 2-1. Đây là lần đầu tiên Anh thất bại hai trận đầu tiên kể từ World Cup 1950 [khi đó Anh thất bại khi đối đầu với Mỹ và Tây Ban Nha].[18] và lần đầu tiên Anh bị loại ở vòng bảng kể từ World Cup 1958.[19]

Tại Euro 2016, Anh cùng bảng với Nga, Wales và Slovakia, kết thúc vòng bảng Anh đứng nhì với 5 điểm, kém xứ Wales 1 điểm[20], lọt vào vòng 16 đội nhưng thất bại 2-1 chung cuộc trước Iceland[21]. Sau Euro 2016, huấn luyện viên Roy Hodgson quyết định từ chức.[22] Sam Allardyce được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng sau đó 1 tháng[23], nhưng từ chức sau 1 trận và 67 ngày do bê bối bị cánh báo chí quay được cảnh ông bí mật cung cấp lời khuyên lách luật chuyển nhượng cho các doanh nhân và nhận khoản tiền 400.000 bảng[24].Gareth Southgate, khi đó là huấn luyện viên U-21 Anh làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến tháng 11[25], sau đó trở thành nhà cầm quân chính thức[26]. Ông giúp Anh dễ dàng vượt qua vòng loại World Cup 2018 với thành tích bất bại.[27]

Trận đấu giữa Bỉ và Anh tại FIFA World Cup 2018

Tại World Cup 2018, Anh đứng nhì bảng G khi xếp sau Bỉ[28]. Tại vòng 16 đội, Anh hòa Colombia 1-1 & thắng 4-3 ở loạt sút luân lưu 11m[29], Anh thắng Thụy Điển 2-0 tại tứ kết, qua đó lọt vào bán kết sau 28 năm[30], nơi họ để thua Croatia 1-2 trong hiệp phụ[31]. Sau đó trong trận tranh hạng 3, họ thua Bỉ 0-2 và giành hạng 4 chung cuộc.[32] Tiền đạo Harry Kane đạt giải vua phá lưới với 6 bàn thắng[33].

Tại UEFA Nations League 2018–19, Anh thi đấu thành công và lọt vào bán kết lần đầu tiên, sau đó giành vị trí thứ 3 chung cuộc sau chiến thắng 6-5 trước Thụy Sĩ ở loạt đá luân lưu 11m sau khi hai đội hòa không bàn thắng trong suốt 120 phút thi đấu chính thức.[34]

Vào ngày 14 tháng 11 năm 2019, Anh đã chơi trận đấu Quốc tế thứ 1000 khi đánh bại Montenegro 7–0 tại Wembley tại vòng loại UEFA Euro 2020.[35]

Tại Euro 2020, Anh nằm cùng bảng D cùng Croatia, Scotland và Cộng hòa Séc. Anh kết thúc vòng bảng với 7 điểm sau 3 trận vòng bảng, thắng 1–0 trước Croatia và Séc, hòa 0–0 với Scotland. Tại vòng 16 đội Anh hạ Đức 2-0[36], thắng Ukraine 4-0 tại tứ kết[37] & Đan Mạch 2-1 để có lần đầu tiên lọt vào trận chung kết[38], và chỉ chịu thất thủ trước Ý ở loạt sút luân lưu 11m sau khi hai đội hòa nhau 1-1, trong đó Marcus Rashford, Jadon Sancho và Bukayo Saka đều đá hỏng quả 11m quyết định, qua đó giành vị trí á quân.[39]

Logo và áo thi đấuSửa đổi

Logo của Đội tuyển Anh cũng chính là logo của Hiệp hội Bóng đá Anh, với hình chiếc khiên trắng chứa ba con sư tử màu xanh đậm, được cách điệu từ huy hiệu Hoàng gia Vương quốc Anh [Kingdom of England] và sau này là một phần trong Quốc huy của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Từ logo đó, Đội tuyển cũng được gọi với biệt danh là "Tam Sư".[40][41]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh.

Màu áo sân nhà truyền thống của Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là áo sơ mi trắng, quần ngắn màu xanh dương, tất màu trắng hoặc màu đen. Nhà tài trợ áo đấu đầu tiên là Umbro vào năm 1954. Các trường hợp ngoại lệ là giai đoạn 1959-1965 được tài trợ áo đấu bởi Bukta và giai đoạn 1974-1984 được tài trợ áo đấu bởi Admiral. Từ năm 2013 đến nay, trang phục được tài trợ bởi hãng Nike.[42]

Nhà sản xuất áo đấu Giai đoạn
St. Blaize and Hope Brothers[43][44] 1949–1954
Umbro 1954–1961
Bukta 1959–1965
Umbro 1965-1974
Admiral 1974–1984
Umbro 1984–2013
Nike 2013–nay

Danh hiệuSửa đổi

  • Vô địch thế giới: 1
Vô địch: 1966
  • Vô địch châu Âu: 0
Á quân: 2020
  • UEFA Nations League: 0
Hạng ba: UEFA Nations League 2018–19

Sân vận độngSửa đổi

Sân vận động Wembley tổ chức một trận đấu giao hữu giữa tuyển Anh và Đức

Trong 50 năm đầu tiên tồn tại đội tuyển chơi các trận sân nhà của họ trên khắp nước Anh. Ban đầu đội sử dụng các sân cricket rồi mới sử dụng các sân của các câu lạc bộ bóng đá. Sân vận động Empire hay sau này là Sân vận động Wembley được xây tại Wembley, Luân Đôn để phục vụ cho Triển lãm Đế quốc Anh.

Anh thi đấu trận đấu đầu tiên tại sân vận động này vào năm 1924 với đội tuyển Scotland và trong khoảng 27 năm tiếp theo, sân Wembley được sử dụng chỉ để thi đấu giao hữu với Scotland. Sân vận động Wembley trở thành sân nhà của anh trong những năm 1950. Sân đóng cửa vào năm 2000 và bắt đầu xây dựng lại. Trong thời gian sau đó, đặc biệt là vòng loại World Cup 2006, đội tuyển Anh thi đấu tại các sân trung lập tại các địa điểm khác nhau trên khắp đất nước. Phần lớn các trận thi đấu diễn ra trên sân vận động Old Trafford của Manchester Untied và một số trận tại sân vận động St. James' Park của Newcastle United khi sân Old Trafford không thể đáp ứng. Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh trở lại thi đấu tại Sân vận động Wembley mới vào năm 2007.

Trận đấu đầu tiên của họ trên sân vận động Wembley mới là vào tháng 3 năm 2007 khi họ hòa với Brazil. Sân vận động hiện thuộc sở hữu của FA, thông qua công ty con Wembley National Stadium Limited.

Ban huấn luyệnSửa đổi

Tính đến 25 tháng 5 2021Chức vụ Tên
Huấn luyện viên trưởng Gareth Southgate
Trợ lý huấn luyện viên Steve Holland
Huấn luyện viên thủ môn Martyn Margetson
Huấn luyện viên đội 1 Chris Powell[45]
Paul Nevin[46]
Bác sĩ Đội 1 Mark Williams[47]
Huấn luyện viên thể lực Bryce Cavanagh[48]
Bác sĩ vật lý trị liệu Steve Kemp[49]

Lịch thi đấuSửa đổi

2022Sửa đổi

Anh v Thụy Sĩ

London, Anh
26 tháng 3, 2022[2022-03-26] Giao hữu Anh 2–1 Thụy Sĩ
17:30

  • Shaw 45+1'
  • Kane 78'[ph.đ.]

Chi tiết

  • Embolo 22'

Sân vận động: Sân vận động Wembley
Lượng khán giả: 78,881
Trọng tài: Andreas Ekberg [Thụy Điển]


Anh v Bờ Biển Ngà

London, Anh
29 tháng 3, 2022[2022-03-29] Giao hữu Anh 3–0 Bờ Biển Ngà
19:45

  • Watkins 30'
  • Sterling 45'
  • Mings 90+3'

Chi tiết Sân vận động: Sân vận động Wembley
Lượng khán giả: 73,405
Trọng tài: Erik Lambrechts [Bỉ]


Anh v Iran

Doha, Qatar
21 tháng 11, 2022[2022-11-21] World Cup 2022 Anh v Iran
16:00 Sân vận động: Sân vận động Al Thumama


Anh v Hoa Kỳ

Al Khor, Qatar
25 tháng 11, 2022[2022-11-25] World Cup 2022 Anh v Hoa Kỳ
22:00 Sân vận động: Sân vận động Al Bayt


Scotland/Wales/Ukraina v Anh

Doha, Qatar
29 tháng 11, 2022[2022-11-29] World Cup 2022 Scotland/Wales/Ukraina v Anh
18:00 Sân vận động: Sân vận động Al Thumama


Cầu thủSửa đổi

Đội hình hiện tạiSửa đổi

Đội hình 26 cầu thủ được triệu tập cho vòng loại World Cup 2022 gặp Albania và San Marino vào tháng 11 năm 2021.
Số liệu thống kê tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2021 sau trận gặp San Marino.

0#0 Vt Cầu thủ Ngày sinh [tuổi] Trận Bt Câu lạc bộ Aaron Ramsdale Sam Johnstone Jordan Pickford Kyle Walker Trent Alexander-Arnold Harry Maguire Conor Coady Tyrone Mings Ben Chilwell Reece James John Stones Kalvin Phillips Jude Bellingham Emile Smith Rowe Conor Gallagher Bukayo Saka Harry Kane [đội trưởng] Phil Foden Tammy Abraham
1 1TM 14 tháng 5, 1998 [23tuổi] 1 0 Arsenal
13 1TM 25 tháng 3, 1993 [29tuổi] 3 0 West Bromwich Albion
22 1TM 7 tháng 3, 1994 [28tuổi] 42 0 Everton
15 2HV 28 tháng 5, 1990 [31tuổi] 65 0 Manchester City
2 2HV 7 tháng 10, 1998 [23tuổi] 16 1 Liverpool
4 2HV 5 tháng 3, 1993 [29tuổi] 41 7 Manchester United
5 2HV 25 tháng 2, 1993 [29tuổi] 8 1 Wolverhampton Wanderers
6 2HV 13 tháng 3, 1993 [29tuổi] 16 1 Aston Villa
12 2HV 21 tháng 12, 1996 [25tuổi] 17 1 Chelsea
14 2HV 8 tháng 12, 1999 [22tuổi] 10 0 Chelsea
16 2HV 28 tháng 5, 1994 [27tuổi] 55 3 Manchester City
7 3TV 2 tháng 12, 1995 [26tuổi] 19 0 Leeds United
8 3TV 29 tháng 6, 2003 [18tuổi] 10 0 Borussia Dortmund
11 3TV 28 tháng 7, 2000 [21tuổi] 2 1 Arsenal
18 3TV 6 tháng 2, 2000 [22tuổi] 1 0 Crystal Palace
3 45 tháng 9, 2001 [20tuổi] 14 4 Arsenal
9 428 tháng 7, 1993 [28tuổi] 67 48 Tottenham Hotspur
10 428 tháng 5, 2000 [21tuổi] 13 2 Manchester City
17 42 tháng 10, 1997 [24tuổi] 10 3 Roma

Triệu tập gần đâySửa đổi

Vt Cầu thủ Ngày sinh [tuổi] Số trận Bt Câu lạc bộ Lần cuối triệu tập Nick Pope Dean Henderson Luke Shaw Kieran Trippier Fikayo Tomori Ben White Ben Godfrey Eric Dier Michael Keane Ainsley Maitland-Niles Jordan Henderson [đội phó] Mason Mount Declan Rice James Ward-Prowse Jesse Lingard Harry Winks Raheem Sterling Jack Grealish Marcus Rashford Jadon Sancho Ollie Watkins Patrick Bamford Dominic Calvert-Lewin Mason Greenwood
TM 19 tháng 4, 1992 [30tuổi] 7 0 Burnley v. Ba Lan, 8 September 2021
TM 12 tháng 3, 1997 [25tuổi] 1 0 Manchester United UEFA Euro 2020 INJ
HV 12 tháng 7, 1995 [26tuổi] 19 1 Manchester United v. San Marino, 15 November 2021 INJ
HV 19 tháng 9, 1990 [31tuổi] 35 1 Atletico Madrid v. Hungary, 12 October 2021
HV 19 tháng 12, 1997 [24tuổi] 2 0 Milan v. Hungary, 12 October 2021
HV 8 tháng 10, 1997 [24tuổi] 2 0 Arsenal UEFA Euro 2020
HV 15 tháng 1, 1998 [24tuổi] 2 0 Everton UEFA Euro 2020 PRE
HV 15 tháng 1, 1994 [28tuổi] 45 3 Tottenham Hotspur v. Ba Lan, 31 March 2021
HV 11 tháng 1, 1993 [29tuổi] 12 1 Everton v. Iceland, 18 November 2020
HV 29 tháng 8, 1997 [24tuổi] 5 0 Arsenal v. Iceland, 18 November 2020
TV 17 tháng 6, 1990 [31tuổi] 68 2 Liverpool v. San Marino, 15 November 2021 INJ
TV 10 tháng 1, 1999 [23tuổi] 26 4 Chelsea v. San Marino, 15 November 2021 WD
TV 14 tháng 1, 1999 [23tuổi] 27 2 West Ham United v. Albania, 12 November 2021 WD
TV 1 tháng 11, 1994 [27tuổi] 9 2 Southampton v. Albania, 12 November 2021 WD
TV 15 tháng 12, 1992 [29tuổi] 32 6 Manchester United v. Hungary, 12 October 2021
TV 2 tháng 2, 1996 [26tuổi] 10 1 Tottenham Hotspur v. Iceland, 18 November 2020
8 tháng 12, 1994 [27tuổi] 72 18 Manchester City v. San Marino, 15 November 2021 WD
10 tháng 9, 1995 [26tuổi] 18 1 Manchester City v. San Marino, 15 November 2021 INJ
31 tháng 10, 1997 [24tuổi] 46 12 Manchester United v. Albania, 12 November 2021 WD
25 tháng 3, 2000 [22tuổi] 23 3 Manchester United v. Hungary, 12 October 2021
30 tháng 12, 1995 [26tuổi] 5 1 Aston Villa v. Hungary, 12 October 2021
5 tháng 9, 1993 [28tuổi] 1 0 Leeds United v. Ba Lan, 8 September 2021
16 tháng 3, 1997 [25tuổi] 11 4 Everton v. Hungary, 2 September 2021 INJ
1 tháng 10, 2001 [20tuổi] 1 0 Manchester United UEFA Euro 2020 PRE / INJ

Chú thích:

  • RET = Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia
  • INJ = Cầu thủ rút lui vì chấn thương

Kỷ lụcSửa đổi

Cập nhật ngày 29 tháng 3 năm 2022.

Các cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhấtSửa đổi

Những cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.

Peter Shilton là cầu thủ thi đấu nhiều nhất với 125 trận

# Tên Sự nghiệp Số trận Số bàn thắng
1 Peter Shilton 1970–1990 125 0
2 Wayne Rooney 2003–2018 120 53
3 David Beckham 1996–2009 115 17
4 Steven Gerrard 2000–2014 114 21
5 Bobby Moore 1962–1973 108 2
6 Ashley Cole 2001–2014 107 0
7 Bobby Charlton 1958–1970 106 49
Frank Lampard 1999–2014 106 29
9 Billy Wright 1946–1959 105 3
10 Bryan Robson 1980–1991 90 26

Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhấtSửa đổi

Wayne Rooney là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất với 53 bàn thắng.

# Tên Sự nghiệp Số bàn thắng Số trận Trung bình
1 Wayne Rooney 2003–2017 53 120 0.4417
2 Bobby Charlton 1958–1970 49 106 0.4623
Harry Kane 2015–nay 49 69 0.72
4 Gary Lineker 1984–1992 48 80 0.6000
5 Jimmy Greaves 1959–1967 44 57 0.7719
6 Michael Owen 1998–2008 40 89 0.4494
7 Nat Lofthouse 1950–1958 30 33 0.9090
Alan Shearer 1992–2000 30 63 0.4762
Tom Finney 1946–1958 30 76 0.3947
10 Vivian Woodward 1903–1911 29 23 1.2609
Frank Lampard 1999–2014 29 106 0.2735

Thành tích quốc tếSửa đổi

Giải vô địch bóng đá thế giới [World Cup]Sửa đổi

Năm Kết quả St T H [50] B Bt Bb
1930 Không tham dự do Anh chưa phải thành viên của FIFA
1934
1938
1950 Vòng 1 3 1 0 2 2 r2
1954 Tứ kết 3 1 1 1 8 8
1958 Vòng 1 4 0 3 1 4 5
1962 Tứ kết 4 1 1 2 5 6
1966 Vô địch 6 5 1 0 11 3
1970 Tứ kết 4 2 0 2 4 4
1974 Không vượt qua vòng loại
1978
1982 Vòng 2 5 3 2 0 6 1
1986 Tứ kết 5 2 1 2 7 3
1990 Hạng tư 7 3 3 1 8 6
1994 Không vượt qua vòng loại
1998 Vòng 2 4 2 1 1 7 4
2002 Tứ kết 5 2 2 1 6 3
2006 Tứ kết 5 3 2 0 6 2
2010 Vòng 2 4 1 2 1 3 5
2014 Vòng 1 3 0 1 2 2 4
2018 Hạng tư 7 3 1 3 12 8
2022 Vượt qua vòng loại
2026 Chưa xác định
Tổng cộng 16/22
1 lần: Vô địch
69 29 21 19 91 64

Giải vô địch châu Âu [Euro]Sửa đổi

Năm Kết quả St T H [50] B Bt Bb
1960 Không tham dự
1964 Không vượt qua vòng loại
1968 Hạng ba 2 1 0 1 2 1
1972 đến 1976 Không vượt qua vòng loại
1980 Vòng bảng 3 1 1 1 3 3
1984 Không vượt qua vòng loại
1988 Vòng bảng 3 0 0 3 2 7
1992 Vòng bảng 3 0 2 1 1 2
1996 Bán kết 5 2 3 0 8 3
2000 Vòng bảng 3 1 0 2 5 6
2004 Tứ kết 4 2 1 1 10 6
2008 Không vượt qua vòng loại
2012 Tứ kết 4 2 2 0 5 3
2016 Vòng 1/8 4 1 2 1 4 4
2020 Á quân 7 5 2 0 11 2
2024 Chưa xác định
Tổng cộng 10/16
1 lần
á quân
38 15 13 10 51 37

Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu [UEFA Nations League]Sửa đổi

Thành tích tại UEFA Nations League Mùa giải Hạng đấu Bảng Pld W D* L GF GA Thứ hạng Tổng cộng 12 5 3 4 14 12 3rd
2018–19 A 4 6 2 2 2 7 8 3rd
2020–21 A 2 6 3 1 2 7 4 9th

Huấn luyện viênSửa đổi

Số liệu tính đến ngày 27 tháng 9 năm 2016.TT Huấn luyện viên Thời gian
huấn luyện Số trận Thắng Hòa Thua Tỷ lệ
thắng [%] Danh hiệu
1 Sir Walter Winterbottom 1946–1962 139 78 33 28 56,12
2 Sir Alf Ramsey 1963–1974 113 69 27 17 61,06 Vô địch World Cup 1966, hạng 3 Euro 1968
3 Joe Mercer 1974 7 3 3 1 42,85
4 Don Revie 1974–1977 29 14 8 7 48,27
5 Ron Greenwood 1977–1982 55 33 12 10 59,99
6 Sir Bobby Robson 1982–1990 95 47 30 18 49,47
7 Graham Taylor 1990–1993 38 18 13 7 47,36
8 Terry Venables 1994–1996 23 11 11 1 47,82
9 Glenn Hoddle 1996–1999 28 17 6 5 60,71
10 Howard Wilkinson1 1999 1 0 0 1 0,00
11 Kevin Keegan 1999–2000 18 7 7 4 38,88
12 Howard Wilkinson1 2000 1 0 1 0 0,00
13 Peter John Taylor1 2000 1 0 0 1 0,00
14 Sven-Göran Eriksson 2001–2006 67 40 17 10 59,71
15 Steve McClaren 2006–2007 18 9 4 5 50,0
16 Fabio Capello 2008–2012 42 28 8 6 66,67
17 Roy Hodgson 2012–2016 56 33 15 8 58,93
18 Sam Allardyce 2016 1 1 0 0 100,00
19 Gareth Southgate 2016– 4 2 2 0 50,00 Hạng 3 UEFA Nations League 2018–19, á quân Euro 2020

1: Huấn luyện viên tạm quyền

Xem thêmSửa đổi

  • Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 31 tháng 3 năm 2022. Truy cập 31 tháng 3 năm 2022.
  2. ^ “Written evidence submitted by Lord Triesman”. Parliament.uk. tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2014.
  3. ^ a b “England Match No. 1 – Scotland – ngày 30 tháng 11 năm 1872 – Match Summary and Report”. englandfootballonline.com. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  4. ^ Hart, Tim [ngày 12 tháng 6 năm 2010]. “England v USA: 1950 World Cup win over the Three Lions lives long in the memory”. The Daily Telegraph. London.
  5. ^ Goodbody, John [ngày 22 tháng 11 năm 2003]. “Football's November revolution: Magnificent Magyars storm England's Wembley fortress”. The Times. London. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.
  6. ^ "Venables is also the only England manager ever to resign from his post because of the muddy personal details set to be showcased in a high-profile trial related to financial irregularities." V is for Venables. When Saturday Comes. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014.
  7. ^ Murray, Scott [7 tháng 6 năm 2002]. “England 1 - 0 Argentina”. The Guardian [bằng tiếng Anh]. ISSN0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  8. ^ Murray, Scott [21 tháng 6 năm 2002]. “England 1 - 2 Brazil”. The Guardian [bằng tiếng Anh]. ISSN0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  9. ^ Ingle, Sean [24 tháng 6 năm 2004]. “Portugal 2 - 2 England [Portugal win 6-5 on penalties]”. The Guardian [bằng tiếng Anh]. ISSN0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  10. ^ Staff, Guardian [1 tháng 7 năm 2006]. “England pay penalty for Rooney's red”. the Guardian [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  11. ^ NLD.COM.VN [22 tháng 11 năm 2007]. “Anh bị loại khỏi EURO 2008, McClaren bị sa thải!”. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  12. ^ Owen Gibson [ngày 21 tháng 6 năm 2010]. “Rifts appear as players grow tired of Capello regime”. The Guardian. London. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2010.
  13. ^ “Đức - Anh 4-1: "Tam Sư" đại bại trước người Đức”. thethaovanhoa.vn. 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  14. ^ “England v Germany: Frank Lampard denied goal by Uruguayan linesman – in pictures”. The Daily Telegraph. London. ngày 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
  15. ^ “Fabio Capello quits as England manager after meeting with FA”. BBC. ngày 8 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  16. ^ “BBC Sport – Roy Hodgson appointed England manager by FA”. BBC. ngày 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  17. ^ McNulty, Phil [ngày 24 tháng 6 năm 2012]. “England 0-0 Italy [2-4 on pens]”. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  18. ^ “World Cup 2014: England crash out after Costa Rica surprise Italy”. The Guardian. Guardian News and Media Limited. ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  19. ^ “England 0 Costa Rica 0: Winless Three Lions bow out of Brazil 2014 with a whimper”. Daily Record. ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2014.
  20. ^ “Wayne Rooney the record man helps blast England into Euro 2016 finals”. the Guardian [bằng tiếng Anh]. 5 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  21. ^ “Thua ngược Iceland 1-2, Anh chia tay Euro 2016”. ZingNews.vn. 28 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  22. ^ “Roy Hodgson quits as England manager after humiliating defeat by Iceland”. the Guardian [bằng tiếng Anh]. 28 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  23. ^ “Sam Allardyce appointed England manager and says: 'It's time to deliver'”. the Guardian [bằng tiếng Anh]. 22 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  24. ^ VnExpress. “Sam Allardyce từ chức HLV trưởng đội tuyển Anh sau một trận và 67 ngày”. vnexpress.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  25. ^ “Southgate wants job call within a month”. BBC Sport [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  26. ^ Association, The Football. “Former defender signs four-year deal to lead Three Lions”. www.thefa.com [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  27. ^ Flanagan, Aaron [5 tháng 10 năm 2017]. “England qualify for World Cup 2018 finals in Russia”. mirror [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  28. ^ Murray, Scott [28 tháng 6 năm 2018]. “World Cup 2018: England 0-1 Belgium – as it happened”. The Guardian [bằng tiếng Anh]. ISSN0261-3077. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
  29. ^ ONLINE, TUOI TRE [4 tháng 7 năm 2018]. “Anh - Colombia 1-1: Thắng 4-3 loạt penalty, Anh nghẹt thở vào tứ kết”. TUOI TRE ONLINE. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  30. ^ “Thắng nhàn Thụy Điển, ĐT Anh vào bán kết World Cup sau 28 năm”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  31. ^ ONLINE, TUOI TRE [12 tháng 7 năm 2018]. “Tỉ số trận Anh - Croatia 1-2: Thi đấu quật cường, Croatia hạ Anh ở bán kết World Cup 2018”. TUOI TRE ONLINE. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  32. ^ “Hạ đẹp Anh, Bỉ giành hạng ba World Cup 2018”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  33. ^ Sport, Telegraph [16 tháng 7 năm 2018]. “World Cup 2018 golden boot final standings: Harry Kane wins after finishing as top scorer”. The Telegraph [bằng tiếng Anh]. ISSN0307-1235. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
  34. ^ “Thắng Thụy Sĩ bằng đá luân lưu, ĐT Anh xếp hạng ba Nations League”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  35. ^ “England celebrate 1,000th game with seven-goal charge into Euro 2020 finals”. the Guardian [bằng tiếng Anh]. 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  36. ^ VnExpress. “Anh tiễn Đức khỏi Euro 2021 - VnExpress”. vnexpress.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  37. ^ VnExpress. “Anh thắng Ukraine 4-0 ở tứ kết Euro”. vnexpress.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  38. ^ ONLINE, TUOI TRE [8 tháng 7 năm 2021]. “Đánh bại Đan Mạch, Anh lần đầu vào chung kết Euro”. TUOI TRE ONLINE. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  39. ^ VnExpress. “Italy vô địch Euro 2021 - VnExpress”. vnexpress.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  40. ^ “England 1872–1960”. Historical Football Kits. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2016.
  41. ^ “How The FA found inspiration from the 1100s for its iconic Crest”. UTalk Marketing. 12 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2016.
  42. ^ “England's Uniforms and Playing Kits”. EnglandFootballOnline.com. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2014.
  43. ^ “England's Home Uniform 1949 to 1954”. England Football Online. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020.
  44. ^ “England Player Kits”. England Football Online. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020.
  45. ^ “Chris Powell joins England coaching team as part of BAME programme”. BBC Sport. 2 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  46. ^ Nevin rejoins England staff England. Retrieved 6 September 2021
  47. ^ “Mark Williams”. Linkedin. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2021.
  48. ^ “Bryce Cavanagh appointed”. The FA. 4 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  49. ^ “Steve is England's World Cup physio”. Crewe Chronicle. 13 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  50. ^ a b Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Cổng thông tin Anh
  • Cổng thông tin Bóng đá

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh.
  • Trang chủ của Hiệp hội bóng đá Anh [FA]
  • The England Fanzine
  • England AFC
  • Bóng đá Anh trực tuyến
  • englandstats.com - Thống kê về đội tuyển Anh từ năm 1872
Danh hiệu
Tiền nhiệm:
Brasil
Vô địch thế giới
1966
Kế nhiệm:
Brasil

Bản mẫu:Đội hình Anh tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008

Video liên quan

Chủ Đề