Thỏa thuận ấn định giá bán để loại bỏ đối thủ cạnh tranh được hiểu là

Thoả thuận ấn định giá là một trong những dạng thoả thuận hạn chế cạnh tranh phổ biến. Các thoả thuận này có đặc điểm chung là thông qua thoả thuận, các bên đã loại bỏ cạnh tranh về giá giữa các bên tham gia thoả thuận thông qua việc xác lập một mức giá chung hoặc thông qua các hình thức ấn định giá gián tiếp.

Theo điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh 2004 [Nghị định số 116/2005/NĐ-CP] thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

  1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.
  2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.
  3. Áp dụng công thức tính giá chung.
  4. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.
  5. Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.
  6. Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.
  7. Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.
  8. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Nhìn vào bản chất của các thoả thuận được liệt kê trong điều 14 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, có thể chia thoả thuận ấn định giá thành hai nhóm là: nhóm thỏa thuận ấn định giá trực tiếp và nhóm thỏa thuận ấn định giá gián tiếp.

3.1.1.1. Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp

Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp là các thỏa thuận thống nhất hành động giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Đặc trưng quan trọng của các thỏa thuận này là thông qua thỏa thuận, các bên đã trực tiếp xác lập một mức giá chung, qua đó loại bỏ khả năng lựa chọn giá của khách hàng, nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận.

Các hành vi thỏa thuận ấn định giá trực tiếp bao gồm:

  1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng.
  2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.
  • Áp dụng công thức tính giá chung.
  1. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.
  2. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Trong đó, thoả thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng là thoả thuận điển hình cho tính chất trực tiếp của thỏa thuận ấn định giá. Theo đó, các doanh nghiệp tiến hành thỏa thuận ấn định mức giá thống nhất đối với khách hàng. Sự khác nhau giữa thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng và thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể đó là: Nếu thoả thuận thống nhất mức giá là thoả thuận hướng đến việc ổn định ở một mức giá thì thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể hướng đến việc thay đổi giá. Nhưng sự thay đổi giá này phải mang tính thống nhất, qua đó nhằm loại bỏ phản ứng không cần thiết ảnh hưởng đến khả năng gia tăng lợi nhuận của nhóm thỏa thuận.

Bản chất bóc lột khách hàng trong thoả thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng thể hiện rõ nét trong tình huống thỏa thuận ấn định giá của 19 doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam năm 2008. Cụ thể, ngày 15 tháng 9 năm 2008, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đã tổ chức Hội nghị các Tổng giám đốc Phi nhân thọ lần thứ VI. Tại hội nghị này, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã kí bản thoả thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và điều khoản phí bảo hiểm vật chất xe ô tô [Bản Thoả thuận]. Ngày 18 tháng 9 năm 2008, thêm 4 doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã kí kết Bản Thoả thuận, nâng số doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận này là 19 doanh nghiệp.

Theo Bản thoả thuận, 19 doanh nghiệp bảo hiểm đã thống nhất áp dụng công thức tính phí chung với các tỷ lệ tính phí bảo hiểm cụ thể để từ đó triệt tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thoả thuận. Cụ thể, mức phí bảo hiểm vật chất xe ô tô 1 năm [chưa bao gồm VAT], theo các điều khoản chuẩn được tính như sau: 

Phí tiêu chuẩn

=

1,56% x STBH

Phí BH đối với ô tô vận tải hàng hoá

=

1,83% x STBH

Phí BH đối với ô tô kinh doanh vận tải hành khách liên tỉnh

=

2,07% x STBH

Phí BH đối với ô tô chở hàng đông lạnh

=

2,62% x STBH

Phí BH đối với ô tô đầu kéo

=

2,84% x STBH

Phí BH đối với taxi

=

3,95% x STBH

Trong đó: Phí BH là Phí bảo hiểm, STBH là số tiền bảo hiểm.

Trong khi đó, thoả thuận tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể được coi là một thoả thuận mang tính linh hoạt. Thoả thuận này bao gồm hai lựa chọn: hoặc là tăng giá hoặc là giảm giá. Đặc biệt trong thoả thuận này không chỉ có tăng giá bán mà còn bao hàm cả việc giảm giá ở mức cụ thể. Lựa chọn việc tăng giá hay giảm giá nhưng vẫn đáp ứng cho mục tiêu lợi nhuận của các bên tham gia thoả thuận tăng, như trên đã phân tích liên quan đến hệ số co giãn về cầu. Thoạt nhìn, thoả thuận giảm giá sẽ không mang tính bóc lột. Tuy nhiên khi nhìn từ khía cạnh kinh tế, sẽ dễ dàng nhận diện rõ bản chất bóc lột này. Có thể hình dung hành vi qua sơ đồ sau:

Giả sử, giá thị trường của hàng hóa đang ở mức giá P1 như trong hình. Tương ứng với mức giá đó, tổng sản lượng của toàn thị trường là Q1. Ở mức giá này, tổng doanh thu của các doanh nghiệp trước khi tham gia thỏa thuận sẽ bằng giá nhân với sản lượng: P1 x Q1 [chính là tứ giác OP1AQ1]. Với đặc thù của hàng hóa có hệ số co giãn của cầu theo giá cao, việc tăng giá bán sẽ làm cho lượng mua giảm đi. Cho nên, các doanh nghiệp có thể tăng sản lượng bằng cách giảm giá từ P1 xuống P2. Theo đó, khi giá giảm sẽ kích thích người tiêu dùng mua nhiều hơn. Kết quả là lượng cầu tăng từ Q1 lên Q2. Lúc này, doanh thu của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ bằng giá mới nhân với sản lượng mới: P2 x Q2 [chính là tứ giác OP2BQ2]. Phần chênh lệch giữa tứ giác OP2BQ2 so với tứ giác OP1AQ1 chính là phần doanh thu tăng thêm của các doanh nghiệp.

Cho nên, tính linh hoạt của Khoản 2 Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP chính thể hiện ở khía cạnh nhà làm luật đã có cách tiếp cận hợp lý khi đã xác định đúng bản chất kinh tế của thoả thuận. Cùng mục đích thay đổi giá để bóc lột khách hàng, nhưng tùy thuộc vào đặc thù riêng của hàng hóa mà doanh nghiệp sẽ tiến hành tăng hoặc giảm giá. Doanh nghiệp sẽ tăng giá nếu như các doanh nghiệp đang kinh doanh loại hàng hóa có hệ số co giãn thấp nhưng doanh nghiệp sẽ không đạt được mục tiêu tăng lợi nhuận, nếu như áp dụng việc tăng giá đối với hàng hóa có hệ số co giãn cao. Cho nên, như đã phân tích các thoả thuận ấn định giá và thoả thuận kiểm soát sản lượng có quan hệ mật thiết với nhau. Và cũng vì lẽ đó tính bóc lột của thoả thuận giảm giá được lí giải về khía cạnh kinh tế học của sự co giãn của cầu là như vậy. Nguyên lý này tương tự như việc một doanh nghiệp độc quyền tối đa hóa lợi nhuận. Bởi vì đường cầu liên quan đến tổng sản lượng mà người tiêu dùng sẵn lòng thanh toán để mua được sản phẩm. Nên sau khi doanh nghiệp độc quyền đã xác định sản lượng bằng với doanh thu biên và chi phí biên, nó sẽ dùng đường cầu để xác định mức giá cao nhất mà nó có thể định giá đối với mức sản lượng vừa xác định.

Cùng là thỏa thuận giảm giá, nhưng thỏa thuận giảm giá ở mức cụ thể theo Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP và thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh theo Khoản 6 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 [sau đây gọi tắt là thoả thuận ngăn cản] và thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận theo Khoản 7 của Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 [sau đây gọi tắt là thoả thuận loại bỏ] là hoàn toàn khác nhau xét về bản chất kinh tế. Cụ thể, theo qui định tại Khoản 6 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 thoả thuận ngăn cản được chia thành hai nhóm như sau:

  1. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:
    1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
    2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan.
    3. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:
  2. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
  3. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Theo qui định tại Khoản 7 của Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới hình thức quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Nghị định này hoặc mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.

Mặc dù, Nghị định số 116/2005/NĐ-CP không hướng dẫn cụ thể mức giá để ngăn cản và/hoặc loại bỏ như thế nào, nhưng về mặt logic bản chất của mức giá ngăn cản hoặc loại bỏ phải là mức giá thấp hơn mức giá thị trường hoặc thậm chí là thấp hơn chi phí sản xuất. Bản chất của hai dạng thoả thuận này hướng đến việc tạo ra cuộc đua về giá, qua đó gây nên những tổn hại cho doanh nghiệp đối thủ, để các doanh nghiệp này không thể mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh hay thậm chí khắc nghiệt hơn là buộc phải rút lui khỏi thị trường.

Nhóm hai thoả thuận áp dụng công thức tính giá chung duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan liên quan đến một khía cạnh kinh tế khác hẳn so với hai thoả thuận trên. Khía cạnh kinh tế của hai thoả thuận áp dụng công thức tính giá chung và duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan liên quan đến tính cá biệt hóa của sản phẩm và sự khác nhau về chi phí sản xuất của các doanh nghiệp. Tính cá biệt hóa của sản phẩm được nhìn nhận ở chỗ mặc dù các doanh nghiệp đang được xét đến trong trường hợp này, được xác định từ đầu là cùng nằm trên cùng một thị trường liên quan, tức là các sản phẩm mà các doanh nghiệp kinh doanh phải có khả năng thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.

Tuy vậy, việc xác định tính có khả năng thay thế này chỉ mang tính tương đối. Nhằm mục đích cạnh tranh, các nhà sản xuất luôn cố gắng cá biệt hóa sản phẩm của mình. Chính những khác biệt nhất định này, giúp cho doanh nghiệp có thể tạo nên sự khác biệt về giá so với các doanh nghiệp khác kinh doanh sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đồng thời chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ là khác nhau. Chi phí sản xuất là giá trị của tất cả những thứ mà một người bán phải bỏ ra cho việc sản xuất một loại hàng hóa. Chi phí sản xuất trung bình của mỗi nhà sản xuất sẽ phụ thuộc vào công nghệ mà nhà sản xuất sở hữu và chi phí thuê, mua các nhân tố sản xuất như nhân công, nguyên liệu.

Ở mỗi nhà sản xuất, các yếu tố này là khác nhau, dẫn đến hệ quả là chi phí sản xuất của các nhà sản xuất cũng khác nhau. Hệ quả của chi phí sản xuất khác nhau sẽ dẫn đến mức giá bán trên thị trường liên quan sẽ khác nhau. Cho nên nếu thỏa thuận ấn định giá mà không tính đến yếu tố này sẽ làm cho các doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mâu thuẫn lẫn nhau liên quan đến khía cạnh phân chia lợi ích. Cũng vì thế mà Herbert Hovenkamp đã coi tính đồng nhất của sản phẩm hoặc tiêu chuẩn thống nhất về sản phẩm là một trong những điều kiện thuận lợi cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Do vậy, nhìn từ góc độ của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, họ cũng sẽ có những thay đổi để cho thỏa thuận ấn định giá trở nên dễ thực hiện và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia. Theo đó, hành vi áp dụng công thức tính giá chung duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan chính là nhằm giải quyết các khác biệt này. Thông qua các thỏa thuận không xác định mức giá mà chỉ xác định công thức tính giá hoặc duy trì tỉ lệ cố định, các doanh nghiệp tham gia đã thỏa thuận không làm thay đổi tương quan về giá cả giữa mà các bên đã thiết lập trước đó trên thị trường liên quan, mà chỉ đơn thuần là cộng thêm một tỉ lệ nhất định vào trong giá bán của các bên để nhằm thu lợi nhuận cao hơn.

Thỏa thuận ấn định giá gián tiếp

Các thỏa thuận ấn định giá gián tiếp được hiểu là các thỏa thuận thống nhất hành động của các doanh nghiệp cạnh tranh trên cùng thị trường liên quan, liên quan đến các yếu tố bổ trợ của giá hàng hóa dịch vụ, thông qua đó tác động đến mức giá áp dụng với khách hàng, nhà phân phối, nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận.

Các thỏa thuận ấn định giá gián tiếp bao gồm các dạng như không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất, dành hạn mức tín dụng cho khách hang và không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận.

Bản chất của yếu tố “chiết khấu” và “hạn mức tín dụng” cho khách hàng được coi là các yếu tố mang tính bổ trợ hoặc liên quan đến giá hàng hóa, dịch vụ. Các biện pháp sử dụng chiết khấu hoặc dành hạn mức tín dụng cho khách hàng đặc biệt hữu ích trong bối cảnh thông tin về giá hàng hóa được phổ biến công khai. Doanh nghiệp sẽ rất khó để giảm hoặc tăng giá mang tính cục bộ mà không ảnh hưởng đến các phần còn lại. Cho nên, chính sách chiết khấu được hiểu là việc giảm giá dựa trên mức giá đã công bố rộng rãi.

Thông thường, chiết khấu xảy ra trong mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Nhìn từ góc độ chuỗi sản xuất, hàng hóa đến tay người tiêu dùng sẽ trải qua các giai đoạn: Sản xuất – Phân phối – Tiêu dùng cuối. Chi phí dành cho phân phối được tính là một trong những chi phí sản xuất.

Do đó, thông qua việc áp dụng hoặc không áp dụng chiết khấu, doanh nghiệp đã tác động trực tiếp đến chi phí. Cho nên, mặc dù giá hàng hóa là không đổi [áp dụng với người dùng cuối], nhưng việc dành hay không dành lợi ích cho khách hàng thông qua việc áp dụng hay không áp dụng chính sách chiết khấu, đã gián tiếp ảnh hưởng đến mức giá thực sự mà khách hàng phải thanh toán cho các sản phẩm.

Trong khi đó, dành hạn mức tín dụng cho khách hàng được hiểu là việc cho khách hàng được hưởng ưu đãi về một khoản tiền nhất định đối với hành vi mua hàng. Hiểu đơn giản là, người mua sẽ được trả chậm trong khoảng thời gian nhất định khi họ mua một khối lượng/ giá trị hàng hóa nào đó. Việc trả chậm này có thể áp dụng đối với toàn bộ lô hàng hoặc một phần của lô hàng, tùy vào chính sách mà doanh nghiệp muốn áp dụng đối với khách hàng của mình.

Tín dụng là một trong những loại chi phí sản xuất. Việc mua hàng nhưng được trả chậm là một ưu đãi về khía cạnh tài chính dành cho khách hàng. Cho nên, ngay cả khi không giảm giá thì được hạn mức tín dụng là một ích mà khách hàng được thụ hưởng.

Thoả thuận cuối cùng trong nhóm các thỏa thuận ấn định giá theo hướng dẫn của Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP là thoả thuận không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận. Theo đó, các doanh nghiệp thỏa thuận sẽ chỉ giảm giá với điều kiện đã thông báo trước cho các doanh nghiệp khác trong thỏa thuận. Bản chất của thoả thuận này chính là yếu tố trao đổi thông tin về giá.

Điều này xuất phát từ đặc thù của các thỏa thuận ấn định giá thông thường là luôn bán ở mức giá cao hơn so với giá thị trường. “Khi một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được tiến hành, có hai điều sau đây là đúng. Một là bởi vì các thỏa thuận luôn hướng đến việc cắt giảm sản lượng, cho nên các doanh nghiệp luôn bán ít hơn so với sản lượng mà nó bán trước khi thỏa thuận và có lẽ là ít hơn so với năng lực sản xuất của chính nó. Hai là giá bán trong các thỏa thuận luôn mang lại lợi nhuận cao”.

Khi đó, doanh nghiệp sẽ có động cơ để bán giảm giá và bán được số lượng nhiều hơn, từ đó đạt được lợi nhuận cao hơn. Bản chất của hành vi trong trường hợp này là hành vi phản bội thỏa thuận, doanh nghiệp phản bội sẽ thu lợi trên chính những thiệt hại của các doanh nghiệp khác khi tiến hành bán với mức giá thấp hơn. Để giải quyết mâu thuẫn này, giải pháp là các doanh nghiệp có quyền giảm giá, nhưng với điểu kiện các doanh nghiệp còn lại trong thỏa thuận phải biết trước về quyết định giảm giá này. Qua đó, sẽ tránh thiệt hại cho các doanh nghiệp còn lại và bảo đảm sự hành động nhất quán về giá giữa các doanh nghiệp.

So với Luật Cạnh tranh 2004 thì Luật Cạnh tranh 2018 khi qui định về thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đã có sự thay đổi trong cách tiếp cận. Theo đó, Luật Cạnh tranh 2018 có hai thay đổi quan trọng. Thay đổi thứ nhất là các thoả thuận ấn định giá không chỉ là thoả thuận giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên qua mà nó còn bao gồm thoả thuận giữa các giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định [Khoản 1, Khoản 4 Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018]. Thay đổi thứ hai là đối với các thoả thuận ấn định giá hàng hoá dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp được tiến hành bởi các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan, nhà làm luật đã xác định đây là thoả thuận vi phạm nghiêm trọng nên thoả thuận này sẽ bị cấm tuyệt đối mà không xét đến các yếu tố thị phần như trong Luật Cạnh tranh 2004.

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan

Mục tiêu trong dài hạn của doanh nghiệp là gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ đạt được mục tiêu này khi có những điều kiện cần thiết nếu xét ở góc độ cấu trúc thị trường. Một thị trường tồn tại nhiều doanh nghiệp, sức ép của cạnh tranh sẽ làm cho doanh nghiệp không thu được lợi nhuận cao như mong đợi. Cho nên nhằm phục vụ mục tiêu tăng lợi nhuận trong dài hạn, doanh nghiệp trong một vài trường hợp sẽ phải thực hiện hành vi ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường, phát triển kinh doanh hoặc loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường liên quan. Về lý thuyết doanh nghiệp có hai lựa chọn để ngăn cản việc gia nhập thị trường, mở rộng kinh doanh hoặc hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường thông qua việc thực hiện riêng lẻ hoặc song hành: [i] chiến lược bán hàng giá thấp [ii] chiến lược tẩy chay.

Từ góc độ lý thuyết giá các TTSDG nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan được hiểu là các thỏa thuận trong đó doanh nghiệp sử dụng phương thức bán hàng giá thấp nhằm mục đích ngăn cản doanh nghiệp khác mở rộng qui mô kinh doanh, gia nhập thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp đối thủ ra khỏi thị trường liên quan, qua đó củng cố hoặc mở rộng thị phần trên thị trường liên quan. Qua đó, có thể nhận diện thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan thông qua ba dấu hiệu.Thứ nhất là chủ thể thực hiện thoả thuận là các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan. Thứ hai là công cụ được các doanh nghiệp sử dụng trong thoả thuận mức giá thấp nhằm mục đích làm cho doanh nghiệp khác không thể thu được lợi nhuận đủ lớn để mở rộng qui mô, không đủ hấp dẫn để gia nhập thị trường hoặc khốc liệt hơn là bị thua lỗ trong dài hạn, phải rút lui khỏi thị trường. Thứ ba là mục đích của các doanh nghiệp tham gia thoả thuận là nhằm củng cố vị trí hiện tại trước nguy cơ bị mất thị phần bởi các doanh nghiệp đối thủ trên thị trường liên quan hoặc bởi sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp mới hoặc gia tăng lợi nhuận thông qua việc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh.

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới

Thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới được hiểu là thỏa thuận thống nhất hành động giữa các đối thủ cạnh tranh, thông qua việc giảm giá nhằm mục đích ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới. Theo qui định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

  1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
  2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan. 

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh

Thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh được hiểu là hành vi thỏa thuận thống nhất hành động giữa các doanh nghiệp đối thủ trên cùng thị trường liên quan, bằng cách sử dụng chiến lược bán hàng giá thấp, làm cho doanh nghiệp không phải là một bên trong thỏa thuận không thể phát triển hoặc mở rộng hoạt động động kinh doanh.

Theo qui định tại Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

  1. Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
  2. Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Theo qui định tại Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, hai thoả thuận ngăn cản việc gia nhập thị trường và thoả thuận ngăn cản doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh, có đối tượng khác nhau. Nếu như trong thoả thuận ngăn cản việc gia nhập thị trường đối tượng là doanh nghiệp đối thủ tiềm năng, chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa hoạt động trong thị trường liên quan thì đối tượng trong thoả thuận ngăn cản doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh là các doanh nghiệp đối thủ đang hoạt động trên cùng thị trường. Tuy vậy, nhìn từ góc độ chiến lược sử dụng, theo qui định của Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì cả hai thoả thuận này đều sử dụng một trong hai dạng hành vi [i] Tẩy chay hoặc [ii] Bán hàng giá thấp.

Nhìn từ góc độ giá, mức giá được ấn định phải là mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị trường liên quan hoặc với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.

Thỏa thuận sử dụng giá nhằm mục đích loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận

Các TTSDG nhằm mục đích loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận được hiểu là thỏa thuận thống nhất hành động giữa các doanh nghiệp đối thủ trên cùng thị trường liên quan, bằng cách sử dụng chiến lược bán hàng giá thấp, nhằm mục đích loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường liên quan.

Theo qui định tại Điều 20 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới hình thức quy định tại Điểm a Khoản 1 và Khoản 2 Điều 19 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP hoặc mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan. Từ qui định này, có vài điều cần làm rõ:

Thứ nhất: Đối tượng của thoả thuận là doanh nghiệp đối thủ đã tồn tại trên thị trường liên quan.

Thứ hai: Chiến lược được sử dụng trong thỏa thuận vẫn là chiến lược tẩy chay và bán hàng giá thấp. Tuy vậy, so với thoả thuận ngăn cản việc phát triển kinh doanh thì thỏa thuận loại bỏ doanh nghiệp khác có mức độ khốc liệt hơn. Chính vì vậy, trong Điều 19 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, thoả thuận ngăn cản chỉ thực hiện một trong hai chiến lược thì trong thoả thuận loại bỏ, doanh nghiệp thực hiện đồng thời cả hai chiến lược tẩy chay và bán hàng giá thấp.

Thứ ba: Mức giá bán trong trường hợp này là mức giá thấp. Mặc dù ba thoả thuận được qui định tại Khoản 1 Điều 19, Khoản 2 Điều 19 và Điều 20 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đều đề cập đến mức giá “đủ để ngăn cản”, nhưng Luật Cạnh tranh 2004 và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP đều không có qui định hoặc hướng dẫn chi tiết hơn cho mức giá này. Xét về khía cạnh lập pháp cách tiếp cận này là rất khác so với cách mà nhà luật áp dụng khi định nghĩa hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Theo đó, Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP qui định trừ những trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn tổng các chi phí dưới đây:

  1. Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Điều 24 của Nghị định này hoặc giá mua hàng hóa để bán lại;
  2. Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Điều 25 của Nghị định này.

Luật Cạnh tranh 2018 đối với các thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan cũng theo cách tiếp cận tương tự. Theo đó, Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 cũng lần lượt qui định hai dạng thoả thuận: thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh và thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.

Như vậy, mặc dù mang tên gọi khác nhau, nhưng thoả thuận sử dụng giá nhằm mục đích củng cố vị trí trên thị trường liên quan đều mang bản chất là các thoả thuận hi sinh các lợi ích trong ngắn hạn để qua đó ngăn cản việc gia nhập thị trường, mở rộng thị trường hoặc thậm chí là loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường liên quan. Nhưng như trên đã phân tích, xét từ góc độ kinh tế các doanh nghiệp không có động cơ để thoả thuận thống nhất bán hàng hóa dưới chi phí biến đổi bình quân để tiêu diệt đối thủ.

Thay vào đó, khi muốn củng cố vị trí trên thị trường liên quan [ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới hoặc ngăn cản sự phát triển hoặc loại bỏ các đối thủ hiện hữu] các doanh nghiệp có khuynh hướng sử dụng các công cụ khác thay vì hi sinh lợi ích bằng việc giảm giá. Thực tiễn của Hoa Kỳ, chỉ cần có thỏa thuận về giá thì sẽ bị coi là hành vi thỏa thuận ấn định giá, mà không cần quan tâm đến mức giá cao hay thấp. “Thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh gần như luôn luôn là bất hợp pháp, bất kể mức giá được ấn định ở mức tối thiểu, tối đa hay ở một quãng dao động nào đó”.

Với qui định tại Khoản 5, 6 Điều 11 trong Luật Cạnh tranh 2018 xét về mặt ngôn ngữ, chưa cho phép chúng ta kết luận liệu rằng các qui định về thoả thuận ngăn cản, loại bỏ đối thủ có bao hàm việc sử dụng giá thấp như trong Luật Cạnh tranh 2004 hay không hay các thoả thuận này chỉ là các thoả thuận mang tính tẩy chay để qua đó làm tăng chi phí sản xuất của đối thủ, một cách giúp các doanh nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh giành ưu thế trên thị trường.

Tuy vậy, nhìn từ góc độ kinh tế tác giả ủng hộ cách tiếp cận của Hoa Kỳ, có nghĩa là các thoả thuận sử dụng giá, bất kể mức giá cao hay thấp đều được đưa vào nhóm các thoả thuận ấn định giá. Còn nội hàm của các thoả thuận ngăn cản việc tham gia thị trường, ngăn cản việc mở rộng thị trường hoặc thoả thuận loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường chỉ bao gồm các chiến lược không liên quan đến công cụ giá.

Đánh giá của bạn:

Video liên quan

Chủ Đề