Tóm tắt nhạc sĩ Văn Cao và bài hát Làng tôi

1. Nhạc sĩ Văn Cao (1923 - 1995) Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớp đầu tiên của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại. Những bài hát Suối mơ, Thiên thai, Đàn chim Việt, Thăng long, hành khúc ca… cải ông sáng tác trước Cách mạng đã được nhiều người ưa thích. Năm 1944, ông sáng tác bài Tiến Công, tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bài hát đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị chọn làm Quốc Ca. Từ đó bài Tiến Quân Ca đã trở thành Quốc Ca của nước Việt Nam

Văn Cao (15 tháng 11, 1923 – 10 tháng 7, 1995) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của "Tiến quân ca", quốc ca của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Văn Cao còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn "Bến xuân", "Suối mơ", "Thiên Thai", "Trương Chi",… ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết "Tiến quân ca", "Trường ca Sông Lô", "Tiến về Hà Nội",… trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Sau vụ việc Nhân Văn – Giai Phẩm, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Trừ "tiến quân ca", ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác, không được lưu hành ở miền Bắc. Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại. Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất.

Câu hỏi: Tóm tắt nhạc sĩ Văn Cao

Trả lời:

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng, xuất thân trong một gia đình viên chức. Thuở nhỏ, Văn Cao học tại trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học Tân nhạc. Cuối những năm 30, Tân nhạc Việt Nam ra đời.

Cuối những năm 1930,tân nhạc Việt Namra đời. ỞHải Phòngkhi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong nhưĐinh Nhu,Lê Thương,Hoàng Quý... Văn Cao tham gia vàonhóm Đồng Vọngcủa Hoàng Quý cùngTô Vũ,Canh Thân,Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúchướng đạovui tươi khác như "Gió núi", "Gò Đống Đa", "Anh em khá cầm tay". Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen vớiPhạm Duy, khi đó là ca sĩ tronggánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát "Buồn tàn thu", giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. ỞHuế, Văn Cao đã viết "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế", được coi là bài thơ đầu tay.

Năm 1942, nghe theo lời khuyên củaPhạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lênHà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45Nguyễn Thượng Hiền- và theo học dự thính tạiCao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trênTiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm". Đặc biệt tác phẩm "Cuộc khiêu vũ những người tự tử" ("Le Bal aux suicidés") được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Cùng Top lời giải tìm hiểu về con đường hoạt động nghệ thuật của nhạc sĩ Văn Cao nhé!

1. Sự nghiệp sáng tác của Văn Cao

Có thể nói, Văn Cao là một người nghệ sĩ đa tài, thử sức trên mọi lĩnh vực: truyện, thơ, tranh vẽ…Nhưng người ta vẫn biết đến nhiều hơn về ông với tư cách là một nhạc sĩ rất mực tài hoa. So với 2 nhạc sĩ Phạm Duy ( có khoảng 1000 ca khúc) và Trịnh Công Sơn (600 ca khúc), Văn Cao sáng tác không nhiều, nhưng những tác phẩm của ông đều được thính giả đón nhận rất say mê nhiệt tình bởi tính lãng mạn và giá trị nghệ thuật sâu sắc trong từng lời ca, điệu nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm 2 mảng chính: tình ca và hùng ca. Ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa… tố khúc giao hưởng anh Bộ đội cụ Hồ.

Với “chữ tâm – chữ tài” dành cho quê hương, đất nước, Văn Cao xứng đáng là một tác gia lớn của nền âm nhạc nước nhà, là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, với những giai điệu đi cùng năm tháng…

a. Nhạc thời tiền chiến

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như các nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết nhạc phẩm trữ tình, mang nặng âm hưởng phương Đông như Buồn tàn thu, Suối Mơ, Thu cô liêu, Trương Tri,…được đánh giá là “cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam”.

Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân làCung đàn xưavàBến xuân. Nhạc phẩmBến xuâncó sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tênĐàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công.Buồn tàn thuđược biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúctân nhạccòn mới phôi thai nên trở nên phổ biến.Suối mơ,Bến xuânđược Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.

Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả làThiên ThaivàTrương Chi. BảnThiên Thaiđược nhà xuất bản Tinh Hoa ởHuếin năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi:"Ảnh hưởng sông nước khúcThiên Thaicổ trong khung cảnh huyền diệu củaĐường Thivới hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ,Thiên Thaicó tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phimNgười Mỹ trầm lặngđược thực hiện,Thiên Thaiđược sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống nhưThiên Thai,Trương Chicũng dựa trêntích chuyện cổnhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thưởng không trình diễn:Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.

b. Nhạc cách mạng

Ngay từ khi còn trongnhóm Đồng VọngởHải Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúchướng đạokhoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trongGò Đống Đa,Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... NgoàiTiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác nhưTiến về Hà Nội,Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúcChiến sĩ Việt Nam,Công nhân Việt Nam,Không quân Việt Nam...

Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết trường caSông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc.Phạm Duyviết:"Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy,Trường ca sông Lôphải là đỉnh cao nhất củanhạc kháng chiếnnói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam.

Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừTiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúcKhông quân Việt Namđược sử dụng làm bài hát chính thức củaKhông lực Việt Nam Cộng hòamặc dù chưa được phép của tác giả.

2. Tìm hiểu ca khúc Tiến quân ca

a. Hoàn cảnh ra đời của bài Quốc ca

Vào mùa đông năm 1944, Văn Cao gặp Vũ Quý- một cán bộ Việt Minh tại ga Hàng Cỏ. Vũ Quý đã động viên Nam Cao viết về những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca.. Ông đề nghị Văn Cao thoát ly hoạt động cách mạng, và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành khúc cho quân đội Việt Nam.

Văn Cao viết bài hát đó trong nhiều ngày tại căn gác số 45 Nguyễn Thượng Hiền. Ông có viết lại trong một ghi chép năm 1976 như sau: “…Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bơ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được…“

Sau khi hoàn thành tác phẩm, Văn Cao gặp và hát cho Vũ Quý nghe. Vũ Quý rất hài lòng, giao cho Văn Cao tự tay viết bài hát lên đá in. Và lần đầu tiênTiến quân cađược in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944 bằng bản in đá do chính Văn Cao viết.

b. Lịch sử của bài “Tiến quân ca” – Quốc ca Việt Nam

Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, trong cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội trước Nhà hát lớn, bài Tiến quân ca đã được cất lên lần đầu tiên trước đông đảo dân chúng. Cũng tại đây, ngày 19 tháng 8 năm 1945, trong cuộc mít tinh lớn, dàn đồng ca của Đội Thiếu niên Tiền phong đã hát bài Tiến quân ca chào lá cờ đỏ sao vàng.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Tiến quân ca chính thức được cử hành trong ngày Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình bởi Ban nhạc Giải phóng quân do Đinh Ngọc Liên chỉ huy. Trước ngày biểu diễn, nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên và nhạc sĩ Nguyễn Hữu Hiếu đã bàn với Văn Cao thống nhất sửa hai chữ trong Tiến quân ca, cụ thể là rút ngắn độ dài của nốt rê đầu tiên ở chữ “Đoàn” và nốt mi ở giữa chữ “xác” làm cho bản nhạc khỏe khoắn hơn.

Đến năm 1946, Quốc hội khóa I đã quyết định chọn Tiến quân ca làm quốc ca. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam, tại điều 3 ghi rõ: “Quốc ca là bài Tiến quân ca”. Năm 1955, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá I đã quyết định mời tác giả tham gia sửa một số chỗ về phần lời của quốc ca. Văn Cao sau này đã luyến tiếc vì một số chữ sửa đã làm mất khí thế hùng tráng của ca khúc.

Sau năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, ngày 2 tháng 7 năm 1976, hai miền Nam Bắc thống nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và quốc ca là Tiến quân ca. Năm 1981, Việt Nam tổ chức thay đổi quốc ca.[11] Một cuộc thi được mở ra nhưng sau hơn một năm, cuộc thi này không được nhắc tới nữa và cũng không có tuyên bố chính thức gì về kết quả. Tiến quân ca vẫn là quốc ca Việt Nam cho tới ngày nay.