Tóm tắt truyện người lạ bên bờ biển
Kafka bên bờ biển (海辺のカフカ, Umibe no Kafuka?) là tiểu thuyết của nhà văn người Nhật Bản Murakami Haruki (2002). Sự xuất sắc của tác phẩm này đã giúp ông được trao giải thưởng văn học Franz Kafka năm 2006[1]. Bản dịch tiếng Việt của Dương Tường được hoàn tất và đưa ra công chúng trong năm 2007.
Gần như đã định hình thành mô típ, nhân vật trong các tác phẩm của ông đều có nét khác người thường:
Con Quạ màu đen hay trò chuyện với Kafka Tamura và chính là nửa cái tôi của cậu, nó luôn động viên Kafka là "trang thiếu niên 15 tuổi kiên cường nhất trên thế giới". Không phải ngẫu nhiên khi tác giả lựa chọn loài vật này vì Kafka trong tiếng Séc có nghĩa là con quạ.
Murakami sử dụng đa dạng các thủ pháp cũng như đưa vào rất nhiều kiến thức thuộc các lĩnh vực khác nhau, như dịch giả Dương Tường đã viết ở phần giới thiệu: Nói theo thuật ngữ chưởng thì Murakami tung ra hơi nhiều "chiêu thức".
So với các tác phẩm trước đây đã từng được dịch sang tiếng Việt, kết cấu của truyện có phần khác lạ. Câu chuyện được xẻ đôi thành hai tuyến, với chương lẻ tập trung vào Kafka Tamura và chương chẵn là ông lão Nakata, người đọc cảm thấy họ không liên quan tới nhau ở những phần đầu nhưng càng về cuối mắt xích nối họ lại với nhau càng rõ nét.
Xét về yếu tố huyền ảo, nó xuất hiện ít ở hai tác phẩm trước của ông là Phía nam biên giới, phía tây mặt trời và Rừng Na Uy, tuy rằng người đọc có cảm thấy sự chuyển biến mạnh ở tác phẩm Biên niên ký chim vặn dây cót với khá nhiều tình huống hư hư thực thực nhưng phải ở tác phẩm này huyền ảo mới được Murakami đẩy lên cao độ và trở thành một phần trọng yếu của tác phẩm[3][4]. Người đọc rơi vào một thế giới gần như hoang đường với những trận mưa đỉa, mưa cá, linh hồn sống, vùng đất kỳ lạ mà thời gian không còn quan trọng...
Mặc cảm OedipusTác giả người Nhật Bản đưa vào tác phẩm của mình cả nội dung thuộc lĩnh vực phân tâm học của Sigmund Freud, Kafka mang lời nguyền giống như nhân vật huyền thoại Oedipus sẽ giết cha và ngủ với mẹ. Độc giả tự hỏi, Murakami muốn gửi gắm gì qua thông điệp này, phải chăng nó đại diện cho phần bản ngã xấu xí luôn hiện diện trong mỗi con người? Chấn thương tâm lýĐó là Nakata khi còn là học sinh tiểu học, sau khi bị cô giáo-một người trước đó luôn luôn hiền dịu tát mạnh vào mặt, đã hôn mê và sau khi tỉnh dậy mất hết khả năng đọc. Nhưng cái tát chỉ là giọt nước tràn ly, bởi vì ở đứa trẻ này từ trước đã mất đi tính hồn nhiên và trong môi trường gia đình phải nhận sự đối xử bạo ngược. Âm nhạcNhư mọi tiểu thuyết trước đây, ông không bao giờ quên đưa những giai điệu vào tác phẩm của mình, lần này không chỉ có những ca khúc nhạc pop dân dã đã quen thuộc mà còn có nhạc không lời của các tác giả trứ danh như Beethoven, Franz Schubert, Joseph Haydn, nhạc kịch của Giacomo Puccini… Truyền thốngRõ ràng yếu tố phương Tây là luôn nổi bật trong mọi tác phẩm của Murakami và Kafka bên bờ biển cũng vậy tuy nhiên người ta vẫn thấy truyền thống Nhật Bản được nhắc đến, ví dụ như thơ tanka, haiku, truyện kể Genji... Bản dịch tiếng Việt do Dương Tường thực hiện dựa chủ yếu trên bản tiếng Anh Kafka on the shore của Philip Gabriel, ngoài ra để tránh sai sót ông có tham khảo bản tiếng Pháp Kafka sur le rivage của Cornne Atlan. Dịch giả Dương Tường còn nhờ cô Suzuki Kotona ở Đại sứ quán Nhật Bản xem những đoạn mà ông cảm thấy chưa thực sự tin tưởng[5].
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kafka_bên_bờ_biển&oldid=68526270” Bất cứ ai đủ quen thuộc với Haruki Murakami và truyện của ông sẽ sẵn sàng, trong khi đọc, cảm thấy vừa bối rối vừa bị cuốn hút. Kafka bên bờ biển là một bí ẩn kì diệu nữa, những trang sách tràn ngập mèo biết nói, cá rơi từ trên trời, và một linh hồn hay cái gì đó giống thế, có tên Colonel Sanders.
Ở đây không thiếu những nét đặc Murakami (Murakami-ism), tất nhiên không thiếu dàn nhân vật sống đời song song không liên quan đến nhau (cho đến lúc, chúng ta hy vọng và tin tưởng, rằng một lúc nào đó họ sẽ đi ngang đời nhau). Đầu tiên chúng ta gặp người kể chuyện, Kafka Tamura khắc kỷ bỏ nhà đi năm mười lăm tuổi. Mẹ Kafka bỏ nhà đi lúc cậu ta bốn tuổi, mang theo chị cậu và bỏ lại thằng con với ông bố lạnh lùng. Kafka tìm đến một thư viện tư nhân ở vùng quê, nơi cậu gặp cô Saeki thư viện trưởng mà cậu nhanh chóng tin là mẹ mình. Câu chuyện của Kafka được kể xen kẽ với chuyện ông già thất học Nakata. Là một đứa trẻ sinh ra sau Thế chiến II, Nakata nằm trong nhóm những đứa nhóc bỗng nhiên ngã gục khi đang hái nấm – ông không bao giờ hồi phục trí nhớ và đầu óc nữa. (Luôn nói về chính mình ở ngôi thứ ba, ông bảo mọi người ông gặp một cách chân thành và ngọt ngào, “Nakata không được thông minh lắm.”) Hiện giờ ông sống, trong những trưa nắng ở Tokyo, nói chuyện gẫu với những con mèo ở địa phương. Sau khi chạm trán một người lạ mặt tên Johnny Walker – Murakami có vẻ rất thích đặt bừa tên nhãn hiệu cho các biểu tượng trong truyện của ông – cuộc gặp kỳ quái và rùng rợn kết thúc với chuyến đi xuyên quốc gia của Nakata, cùng một phía với Kafka. Murakami thường viết về những linh hồn lạc lối đi để được lấp đầy, và ở đây cũng thế. Điều đặc biệt về tiểu thuyết lần này là nhân vật chính còn rất trẻ. Kafka tự thuật trong những trang mở đầu: “Sinh nhật thứ mười lăm của tôi là lúc lý tưởng để bỏ nhà. Sớm hơn sẽ là quá sớm, và muộn hơn sẽ lỡ mất cơ hội. ”Một câu tương tự có thể được đúc kết từ cách Murakami chọn viết từ ngôi kể của một kẻ thù ghét loài người, kẻ chạy trốn khỏi người cha, kẻ luôn nhớ người mẹ đã xa rất lâu. Có vẻ gọi câu chuyện này là nỗi buồn thiếu niên thì hơi đơn giản quá, nhưng một cách nào đó, trong tác phẩm có lẽ là phức tạp nhất của Murakami tới nay, sự không hề đơn giản của tuổi thiếu niên khiến Kafka thành người dẫn chuyện lý tưởng. Độc giả gặp Kafka với con người trưởng thành, quy củ, nghiêm khắc trong sinh hoạt hàng ngày; nhưng đây chỉ là một nỗ lực chôn sâu khủng hoảng tuổi mười lăm của cậu. Nakata với trí tuệ không được tuyệt vời lắm là sự tương phản hoàn hảo. Nakata là một màu xám đen không có ký ức – ông khó có thể phân biệt ngày này với ngày khác – còn Kafka cố hết sức chạy trốn khỏi tuổi thơ đau buồn hành hạ cậu. Có một lời tiên đoán của cha cậu đặc biệt làm Kafka ám ảnh: Kafka sẽ giết cha cậu, sau đó ngủ với mẹ cậu và chị cậu. Đừng cho rằng sự giống nhau với Oedipal này là hiếm (Oedipal: nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp được tiên đoán sẽ giết cha và lấy mẹ). Khi độc giả kiên nhẫn đợi đời Nakata và Kafka cắt ngang, Murakami kết nối thêm những liên hệ triết học, lịch sử, thần thoại, âm nhạc và văn học, thả chúng vào lối văn trần thuật khô khan độc quyền của ông như thể chúng là những dấu hiệu nhỏ cần được gạch chân và đánh dấu để khám phá một kết thúc hé mở một bí mật nào đó. Cái hy vọng khám phá này, cùng với sự tò mò của chúng ta đối với bí mật tinh tế ẩn dưới vỏ một câu chuyện – là thứ Murakami dựa vào để lôi chúng ta đi. Và thực sự ông đã thành công – người đọc bị lôi đi đến hết Kafka bên bờ biển. Cái cách Murakami gần như lúc nào cũng ném ra một cái tên (Aristophanes, Napoleon, Hegel, Kafka, tấtnhiên, và Prince chỉ là một vài trong số đó), hay cách ông cố tình hình tượng hóa mọi thứ (tất cả từ nấm cho đến máu cho đến màu xanh khiến bạn vò đầu bứt trán để hiểu ý nghĩa) có thể có ẩn ý, có thể chỉ đơn giản là giữ chúng ta tiếp tục lật trang tìm ẩn ý. Khi chúng ta đến trang cuối, dù sao đi nữa, điều đó cũng chẳng quan trọng nữa rồi. Một lần nữa chúng ta bị bỏ lại, ngẩn ngơ, mê đắm, và sau tất cả…là ám ảnh. Kafka bên bờ biển là một hành trình thực sự thú vị, nhưng khó có thể nói hành trình đó cùng những khúc quanh trong đó – dù đúng hay sai – là thỏa mãn hay không thỏa mãn. Những tính từ đấy đơn giản là không dùng được. Murakami có vẻ không nhắm đến sự thỏa mãn bằng việc chế ra một câu chuyện hấp dẫn và làm đảo điên người đọc. Ông đã thành công, từ đầu tới cuối và hơn thế nữa. Hãy nghĩ đến điều này một lần nữa khi đã đóng quyển sách lại, vì sự thật này cũng thú vị như chính bản thân sách vậy. Tags: |