Trình bày quá trình hình thành, xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam

c4] 5- Công an nhân dân đoàn kết, thống nhất, dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với các cấp, các ngành, các lực lượng. Đoàn kết là sức mạnh vô địch, là truyền thống quý báu của Đảng, của dân tộc. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, 65 năm qua, lực lượng Công an nhân dân đã thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết, thống nhất thống nội bộ dựa trên các quan điểm, chủ trương,đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.Cán bộ, chiến sĩ Công an luôn nêu caơ tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, hoạn nạn; sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng đội; thẳng thắn tự phê bình và phê bình trong nội bộ. Thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân và các cấp, các ngành, đoàn thể quần chứng để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống phản cách mạng, trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, quản lý, giáo dục các đối tượng lầm lỗi tại địa bàn dân cư, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ; khắc phục hậu quả thiên tai,v.v… 6- Công an nhân dân cảnh giác, bí mật, mưu trí, dũng cảm, cương quyết, khôn khéo, tích cực phòng ngừa, chủ động tiến công kẻ địch và bọn tội phạm. Mưu trí, dũng cảm, cương quyết, khôn khéo trong chiến đấu là phẩm chất truyền thống của lực lương Công an nhân dân, được kế thừa từ tinh thần quật cường, bất khuất, tài thao lược của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 65 năm qua, lực lượng Công an nhân dân đã vận dụng đúng đắn đường lối, phương châm, nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật đấu tranh trên mặt trận bảo vệ an ninh trật tự; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, [chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và bọn tội phạm, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. 7- Công an nhân dân không ngừng học tập nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ và năng lực công tác; tiếp thu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả thành tựu khoa học -kỹ thuật và công nghệ phục vụ công tác, chiến đấu. Không ngừng học tập, tiếp thu cái mới, cầu tiến bộ là bản chất truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam. Truyền thống quý báu đó bắt nguồn từ đức tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi, cầu tiến bộ của dân tộcViệt Nam. 65 năm qua, dù trong hoàn cảnh thời chiến hay thời bình, lúc thuận lợi hay khó khăn, ác liệt các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an luôn chủ động tranh thủ mọi thời gian, mọi điều kiện để học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hoá, pháp luật, nghiệp vụ; kết hợp học tập tại trường, học trong thực tiễn công tác chiến đấu, học trong sách vở, học nhân dân; tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến phục vụ công tác đấu tranh chống kẻ địch và các loại tội phạm. Hệ thống các học viện, trường nghiệp vụ Công an nhân dân đã đào tạo hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ Công an có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ khoa học, góp phần đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ công tác an ninh trật tự trong tình hình mới. 

8-Công an nhân dân nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, có nghĩa, có tình. Dưới ánh sáng của đường lối đối ngoại của Đảng, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, lực lượng Công an nhân dân đã xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế với An ninh, Cảnh sát các nước xã hội chủ nghĩa và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với cách mạng Lào, Campuchia trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của Khmer đỏ. Ngày nay, lực lương Công an nhân dân đã và đang triển khai, thực hiện tốt đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng, Nhà nước ta, tiếp tục xây dựng, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác với lực lượng An ninh, Cảnh sát các nước trên thế giới nhằm trao đổi tin tức, kinh nghiệm, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hợp tác đào tạo nghiệp vụ công tác bảo vệ an ninh trật tự, góp phần xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, vì hòa bình, ổn định và tiến bộ xã hội./.

[Bqp.vn] - Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

 

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân [Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam] thành lập ngày 22/12/1944.

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

 

Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trong chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954.

Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn, từ khi đất nước giành được độc lập đến tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Cũng thời gian này, các đại đoàn [đơn vị tương đương sư đoàn] chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 05 năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.

 

Xe tăng Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam lại cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủng do Pônpốt cầm đầu ở Cămpuchia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Cămpuchia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pônpốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Cămpuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Cămpuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pônpốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.

Quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia xây dựng cuộc sống mới [ảnh: Tư liệu]

Bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh biên chế, tổ chức, cắt giảm gần hai phần ba quân số. Các thế hệ sĩ quan, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, một đội quân sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Thực hiện chức năng là một đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận. Nhiều đơn vị quân đội đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa; tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt, bão. Quân đội cũng tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho các tầng lớp nhân dân, phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo cho 100.000 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Quân đội tham gia mở đường Hồ Chí Minh góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệ hoá, hiện đại hoá đất nước.

Là một đội quân sản xuất, các đơn vị trong toàn quân đã tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn sản phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện đáng kể đời sống bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng các yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội đã tham gia nhiều dự án công trình trọng điểm của quốc gia như đường Hồ Chí Minh, đường dây 500 KV Bắc - Nam, dịch vụ dầu khí và nhiều công trình thuỷ điện lớn như Sông Đà, Drây H’ling. Hiện có 98 doanh nghiệp quân đội đang tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế như dịch vụ bay, dịch vụ cảng biển, viễn thông, công nghiệp đóng tàu... Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp này ngày một tăng.

Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề