Kinh tế nhà nước có vai trò như thế nào


Nhận thức về vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước

Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác.

Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vai trò kinh tế nhà nước là bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với trình độ phát triển hiện nay và trong những năm tới của lực lượng sản xuất ở nước ta, kinh tế nhà nước chỉ có thể tập trung phát triển trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ then chốt, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đặc biệt đến quốc phòng an ninh ... về quy mô nói chung thuộc loại vừa và lớn, công nghệ hiện đại, kinh doanh có hiệu quả cao.

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa] thì kinh tế nhà nước được xác định đóng vai trò chủ đạo trong nền  kinh tế quốc dân. Vậy hiểu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước như thế nào? Theo tôi cho rằng: vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần được hiểu và thực hiện trên những phương diện cơ bản sau đây:

Thứ nhất, vai trò chủ đạo không phải biểu hiện ở số lượng cơ sở kinh tế của Nhà nước nhiều hay ít và cũng không phải ở tỷ trọng giá trị sản lượng do kinh tế nhà nước tạo ra chiếm bao nhiêu trong GDP. Mà vai trò chủ đạo trước hết phải được thể hiện ở trình độ công nghệ, trình độ quản lý, năng suất hiệu quả kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh cao.

Thứ hai, kinh tế nhà nước phải đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường.

Thứ ba, kinh tế nhà nước độc quyền những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và hoạt động bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân như ngân hàng, vận tải đường không ... Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, phạm vi độc quyền của kinh tế nhà nước càng rộng bao nhiêu thì tác động tích cực của cạnh tranh càng bị thu hẹp bấy nhiêu, nghĩa là một trong những động lực mạnh nhất của kinh tế thị trường bị triệt tiêu. Bên cạnh đó, cần xác định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với kinh tế nhà nước độc quyền được biểu hiện cụ thể ở doanh nghiệp nhà nước nhất định, để không chuyển độc quyền của kinh tế nhà nước thành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Vì trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước độc quyền là để có điều kiện định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu nhất định và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội. Do vậy, nếu một doanh nghiệp nhà nước nào đó được độc quyền thì hoạt động của nó phải hướng tới với tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước vì mục tiêu kinh tế - xã hội, vì quốc kế dân sinh, chứ không phải vì bản thân doanh nghiệp. Trong trường hợp hoạt động của doanh nghiệp không đạt được yêu cầu nói trên thì không nên trao cho doanh nghiệp đặc lợi độc quyền. Nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước độc quyền nhưng không làm triệt tiêu “luật chơi” của kinh tế thị trường và không vì lợi ích cục bộ của doanh nghiệp nhà nước, mà hướng tới vì lợi ích kinh tế - xã hội thì hoạt động của doanh nghiệp mới đúng nghĩa là thực hiện vai trò chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, kinh tế nhà nước định hướng, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, để mọi thành phần kinh tế hoạt động theo mục tiêu định sẵn của Nhà nước thông qua hai cách thức được thực hiện đồng thời là:

- Quy hoạch chiến lược phát triển ngành, vùng, sản phẩm của bản thân kinh tế nhà nước cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, các thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.

- Cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và những dịch vụ công cộng với chất lượng cao, giá cả rẻ cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà nhà nước muốn khuyến khích họ đầu tư.

Thứ năm, kinh tế nhà nước hỗ trợ, kích thích các thành phần kinh tế khác phát triển. Có thể hiểu sự hỗ trợ, kích thích của kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế bao gồm:

- Ưu đãi về vay vốn, lãi suất, thuế, tiền thuê đất cho hoạt động của các thành phần kinh tế.

- Tìm kiếm và mở rộng thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào lẫn thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế.

- Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần thiết.

- Hỗ trợ khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công  nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh.

- Duy trì kích thích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Tóm lại, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua bao gồm cả ở hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô như: chính sách tài chính - tiền tệ, đất đai ... và cả ở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để giải phóng mọi năng lực của nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

1. Mở đầu vấn đề

Trước đây, chính sách thương mại hầu như còn độc quyền trong tay các quốc gia riêng biệt. Các quy định và thông lệ do nhà nước tự quyết định, các hiệp định thương mại với các đối tác bên ngoài không thường xuyên có và nếu có chỉ ở phạm vi hạn hẹp. Cơ cấu và mức độ áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, việc thực hiện và các biện pháp có hiệu lực về kinh tế và các quyết định chính sách thương mại được ban hành theo những ưu tiên trong nước [chính sách công nghiệp, nhu cầu tài chính, v.v...]. Các thương gia và nhà xuất khẩu từ nước khác không có sự lụa chọn nào hơn là phải tuân theo một loạt biện pháp, quy định và thông lệ của quốc gia đó.

2. Sự xuất hiện Hiệp định [GATT] và Tổ chúc thương mại Thế giới [WTO]

Tuy nhiên như vừa nói ở mục 1 - bức tranh đó đã bắt đầu thay đổi. Ngày càng rõ, đặc biệt là kết quả hoạt động trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại [GATT] và Tổ chúc thương mại Thế giới [WTO] cộng với số các nước tham gia cấc tổ chức này đang tăng lên, từ vựng và những công cụ của thương mại quốc tế đã được tổ chúc hợp lý, việc sử dụng các thủ tục và các quy tắc giải quyết tranh chấp được chấp nhận. Các nước có thể đồng ý trong một diễn đàn quốc tế hoặc thông qua đàm phán với các nước khác về các điều kiện thương mại chung và do vậy cả về những phần quan trọng trong chính sách thương mại của họ.

Từ một góc độ rất chính thức, điều đó có nghĩa là từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia, bởi vì một khi đã đồng ý bước vào một hiệp định quốc tế, các nước không còn tự mình tự do thay đổi chính sách và tập quân thương mại theo ý muốn riêng. Tuy nhiên, phần lớn các nhà hoạch định chính sách quốc gia chấp nhận nó như một “hiệu ứng phụ” không thể tránh được. Tác động này thường được bù đắp lại lớn hơn cả việc tăng cường thâm nhập các thị trường khác, hơn cả một môi trường kinh tế có thể thấy trước đối với các nhà hoạt động kinh te và câc quy tắc có thể có hiệu lục trong những trường họp tranh chấp.

Sự thay đổi trọng tâm từ tựu trị sang các quy tắc và thông lệ được quốc tế chấp nhận không chỉ có ý nghĩa rằng các quy tắc và thông lệ đóng vai trò và được thực hiện hoàn toàn tách khỏi những cân nhắc về chính sách trong nước. Sự kết nối chặt chẽ tiếp tục tồn tại suốt các quá trình đàm phán, thừa nhận và thực hiện các hiệp định quốc tế, những điều quan tâm và thực tế trong nước ảnh hưởng đáng kê đến giải pháp ở cấp độ quốc tế. Điều dễ nhận thấy của việc liên kết này là nghĩa vụ của quốc gia ký kết phê chuẩn hiệp định quốc tế bảo đảm rằng các điều khoản của hiệp định được thực thi trên lãnh thổ của họ.

3. Vai trò nhà nước trong nền kinh tế của một quốc gia

Vai trò của Nhà nước với tư cách là một nhà hoạch định kế hoạch chi tiết cấc chính sách và các hoạt động kinh tế và là một nhà điều hành kinh tế đã bị suy giảm rất nhiều do sự cáo chung của nhiều chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản. Một quá trình chuyển đổi đã bắt đầu khởi động tại phần lớn các nước liên quan, với việc Nhà nước đang được thay thế các nhà điều hành kinh tế tư nhân với tư cách là lực lượng thống trị trong nền kinh tế và bằng sự năng động của “cung và cầu”. Trong quá trình này, vai trò của Nhà nước trong kinh tế đang từng bước bị giảm đi.

Tại các nước không hoạt động theo chế độ Nhà nước lập kế hoạch thì Nhà nước vẫn tham gia với mức độ khác nhau trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế với tư cách là một nhà điều hành kinh tế. Thêm nữa, Nhà nước thường đưa ra trực tiếp, hoặc giàn tiếp sự ủng hộ đối với các nhà điều hành kinh tế tư nhân. Ngay cả ở các nước này, sự dính líu của Nhà nước cũng đang giảm đi bằng những thay đối rõ rệt theo xu hướng cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, câc dịch vụ công cộng và giảm bớt trợ cấp.

Mặc dù có sự phát triển chung như trên vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế của một nước cũng cần phải được cân nhắc. Nhà nước có thể đồng thời là yếu tố quyết định quan trọng vừa đối với lập trường của một nước trong cuộc đàm phán quốc tế, lại vừa đối với việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế ở trong nước, vấn đề là phải đặt trọng tâm rõ rệt hoàn toàn vào chỗ nào có sự đồng bộ khi đề ra luật lệ cho các nhà điều hành kinh tế: liệu doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân có được đối xử giống nhau? Câu hỏi này bình thường được trả lời là có, nhưng trong nhiều hiệp định coi là cần thiết phải đề cao các quy tắc và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước để phân biệt các hoạt động đâu là Nhà nước hành động theo các chức năng công cộng, đâu là Nhà nước tham gia vào mỗi tác động qua lại của câc hoạt động kinh tế tư nhân thuần tuý.

Người ta thường lý luận rằng vì các mục đích chính sách thưong mại, mức độ dính líu của Nhà nước vào kinh tế sẽ không còn là vấn đề chừng nào Nhà nước thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế. Trong khi điều này đúng về nguyên tắc nhưng thường khó bảo đảm trong thực tế sẽ như vậy. Do đó, một nhiệm vụ quan trọng suốt quá trình đàm phán hay gia nhập là phải đạt được sự hiểu biết về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế của một quốc gia, về điều rất có thể là khu vực công cộng và các doanh nghiệp Nhà nước sẽ có khả năng thực hiện đầy đủ các điều khoản của hiệp định. Ngay cả sau khi hiệp định bắt đầu có hiệu lực, hoặc một bên đã tham gia điều ước cũng cần phải có thủ tục kiểm tra khả năng có thể vi phạm nguyên tắc này.

Đôi khi, rõ ràng ngay từ đầu việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp chính sách thương mại lại không thể hoặc hầu như không thê được bảo đảm.

Ví dụ:

- về các công cụ chính sách thương mại nào đó, giá cả do ấp lực thị trường đặt ra là quyết định định ưong thực tiễn kiểm tra của các nhà điều hành kinh tế [ví dụ luật chống phá giá]. Công cụ này sẽ mất đi hiệu lực khi giá cả do Nhà nước đặt ra và các quy định phải được điều chỉnh theo.

- Để xác định việc trợ cấp có phù hợp với luật lệ quốc tế hay không, Nhà nước phải có các thủ tục lập ngân sách và kế toán tin cậy, rõ ràng. Nếu không thì không thể phân biệt được giũa các chức năng của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu các công ty và với tư cách là người phân phát viện trợ cho khu vực kinh doanh.

- Nếu cơ chế thi hành một hiệp định không độc lập với Nhà nước vốn đóng vai trò điều hành kinh doanh, hoặc ngay cả trong cùng một cơ chế cũng sẽ khó hành động chống lại việc vi phạm hiệp định của các doanh nghiệp Nhà nước.

Trong các trường hợp khác, tình hình không rõ rệt và có thể đòi hỏi việc kiểm tra sâu hơn để xác định liệu có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế trong thực tế có phù họp với lời văn và tinh thần của hiệp định đã nêu hay không.

4. Nhà nước là gì?

Nhà nước là một tổ chức xuất hiện và gắn liền với sự ra đời của giai cấp, nhà nước là cơ quan nắm giữ quyền lực, chính trị của xã hội quyết định những vấn đề trọng yếu của đất nước và thực hiện điều hành, vận hành hoạt động của nhà nước của xã hội.

Nhà nước sẽ có vùng lãnh thổ nhất định, nhà nước sẽ tổ chức ra một bộ máy chính quyền nắm giữ mọi quyền lực của đất nước, thiết lập các chính sách chính trị- xã hội, ban hành và yêu cầu mọi người dân thực hiện pháp luật, điều tiết tất cả các hoạt động của đất nước.

Nhà nước thường được thiết lập thành một bộ máy bao gồm các cơ quan thực hiện các nhiệm vụ chuyên trách trong các lĩnh vực như các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp tức cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Nhà nước là tổ chức duy nhất mang tính chất quyền lực nhà nước, đây chính là đặc điểm cơ bản để có thể nhận diện nhà nước với các tổ chức xã hội khác.

Quan điểm Mác – Lê nin về nguồn gốc nhà nước:

+ Theo quan điểm này nhà nước không xuất hiện hay ra đời từ những yếu tố siêu nhiên, mà nhà nước ra đời khi xã hội đã phát triển đến một cột mốc nhất định. Nhà nước ra đời gắn liền với sự xuất hiện của các giai cấp trong xã hội, các giai cấp này có sự đối kháng với nhau.

+ Nhà nước thực hiện nhiệm vụ điều tiết xã hội, thực hiện và bảo vệ các lợi ích chung trong toàn xã hội.

5. Quốc gia, đặc điểm quốc gia?

Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.

Quốc gia [không nên nhầm với quốc gia tự trị vốn có vị thế nhỏ hơn] là một khái niệm không gian, văn minh, xã hội và chính trị; trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.

Quốc gia cũng có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước, như "Nước Việt Nam là một quốc gia ở vùng Đông Nam Á". Hai khái niệm này, mặc dù vẫn thường được dùng thay cho nhau, có sắc thái khác nhau.

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề