Ưu và nhược điểm của tâm lý học Gestalt

1.Tâm lý học hành vi [Watsơn, 1878-1958, Mĩ]

Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý học Mỹ J.Watsơn sáng lập. Ông có ý định xây dựng một nền tâm lý học tối tân và khoa học, chỉ có đối tượng nghiên cứu là hành vi của con người và ở động vật không tính đến yếu tố nội tâm. Chính vì lẽ đó mà phái này gọi là hành vi chủ nghĩa.

Chủ trương không mô tả hay giảng giải các trạng thái ý thức, mà nghiên cứu hành vi của con người [cơ thể người]. Hành vi này được hiểu là tổng số các cử động bề ngoài được nẩy sinh để đáp ứng một kích thích nào đó, theo công thức kích thích – phản ứng [S – R]. Các cử động này thực hiện chức năng thích nghi với môi trường chung quanh. Vì có thể quan sát được các cử động này, nên có thể và phải nghiên cứu chúng một cách khách quan. Từ đó người ta rút ra kết luận có thể điều khiển và hình thành hành vi cuả con người theo phương pháp thử và sai. Đây là một dòng tâm lý học duy vật máy móc từ chỗ coi con người như là một cái máy, như là một động vật biết nói, coi con người chỉ như là một cơ thể riêng có khả năng phản ứng để thụ động kích thích vào hoàn cảnh. Đây là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, thực dụng và phi lịch sử, không phản ánh được cuộc sống thực của con người cụ thể, đang sống và làm việc và hoạt động trong các điều kiện lịch sử xã hội.

Ưu điểm: Với công thức trên, J. Watsơn đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lí học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”.

Nhược điểm: Chủ nghĩa hành vi quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lí bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí con người với tâm lí  con vật.

Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.

Ví dụ:

* Skiner [ trường ĐH Havvard Mỹ] đã dùng nguyên lý tăng cường để huấn luyện chim, bồ câu, chuột. Để chuột cống đói trong hộp Skiner chứa thức ăn nhưng không nhìn thấy được có gắn đòn bẩy. Sau một thời gian chuột mò mẫm lấy chân thử ấn vào đòn bẩy lập tức thức ăn bật ra và từ đấy trở đi, khi nào đói chuột tiếp tục ấn chân vào đòn bẩy để lấy thức ăn.

* TS tâm lý Hà lan Achian Kortlandt đã nghiên cứu nhiều hành vi tập tính của Hắc Tinh Tinh ở vùng châu Phi phát hiện nhiều tư liệu khá lý thú. Khi Hắc Tinh Tinh đưa bàn tay ra nhưng úp lòng bàn tay xuống là dấu hiệu phục tùng, chìa ngón tay trỏ xuống là nguy hiểm tói gần. Hai bàn tay giơ cao lên trời có nghĩa là đường không đi được.

2.Tâm lý học Gestalt gọi là tâm lý học cấu trúc do bộ ba Vecthaimơ, Côlơ, Côpca sáng lập ở Đức.

Học thuyết tâm lý học Gestalt ra đời ở Đức thuộc trường phái tâm lý học duy tâm khách quan. Các nhà tâm lý học cấu trúc cho rằng bản chất hiện tượng tâm lý đều vốn có tính cấu trúc, vì vậy nghiên cứu phải theo xu hướng tổng thể với cả một cấu trúc chỉnh thể.

Đây là một trong những dòng tâm lý duy tâm khách quan chuyên nghiên cứu tri giác và ít nhiều nghiên cứu tư duy trong những mối liên hệ thực giữa sự vật được tri giác hay hoàn cảnh đòi hỏi tư duy với người tri giác hay tư duy. Nhờ vậy đã tìm ra tính chất ổn định của tri giác, quy luật hình thành nền trong tri giác, quy luật bổ sung khi tri giác, quy luật bừng hiểu trong tư duy. Các nhà tâm lý Géstalt ít chú ý đến vai của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.

3. Phân tâm học do bác sĩ người Áo đề xướng:

Học thuyết này cho rằng không chỉ nghiên cứu ý thức mà bỏ qua vô thức. Ông cho rằng chính yếu tố vô thức mới là yếu tố quyết định nhất trong tâm  lý con người.

Phơrớt cho rằng nhân cách con người gồm 3 phần: vô thức, ý thức, siêu thức.

Phần vô thức chứa đựng các bản năng sinh vật trong đó bản năng tình dục là trung tâm. Những bản năng sinh học là nguồn cung cấp năng lương cho hoạt động của con người. Những bản năng này tồn tại theo nguyên tắc đòi hỏi và thỏa mãn.

Phần ý thức gồm những cách thức ứng xử và suy nghĩ đã được hình thành trong cuộc sống thông qua những kinh nghiệm để đối phó với thế giới bên ngoài nhằm giúp con người thích nghi với thực tế cuộc sống.

Phần siêu thức gốm những kiểm chế thu được trong quá trình phát triển nhân cách. Đó là sự kiềm chế các họat động của phần vô thức và phần ý thức. Siêu thức ngăn không cho ý thức thực hiện những phần sai trái để thỏa mãn các bản năng. Phần siêu thức gần giống như cái mà ta gọi là lương tâm.

Dòng tâm lý này lý giải tâm lý con người bằng cách sinh vật hoá con người tác giả của nó cho rằng bằng cách đó sẽ có một khoa học khách quan về con người. Luận điểm cơ bản của ông coi bản năng sinh dục là cội nguồn của toàn bộ thế giới tinh thần, từ nội tâm đến hành vi bên ngoài, thậm chí kể cả sáng tạo nghệ thuật. Học thuyết Phơrớt là là cơ sở ban đầu của tâm lý học hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vất hoá tâm lý con người

Các dòng tâm lý trên đều tự gọi là khách quan nhưng đều bỏ qua các mối quan hệ bản chất của con người, thế là đánh mất con người cụ thể sống, làm việc, hoạt động trong trong xã hội lịch sử cụ thể, cho nên các dòng phái ấy đều không đạt tới mong muốn chân thành của họ là xây dựng một khoa học khách quan về thế giới tâm lý của con người,

4. Tâm lý học nhân văn

Đại biểu  là C.Rôgiơ và H. Maslaw. Họ cho rằng bản chất con người vốn là tốt đẹp, có lòng vị tha, có tiềm năng sáng tạo. Tâm lý học cần giúp con người tìm được bản ngã đích thực của minh. Con người cần đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở lẫn nhau

Tuy nhiên tâm lý học nhân văn tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người. Họ không thấy được nguồn gốc hình thành tính nhân văn đó có ở hoạt động sống của mỗi người trong xã hội loài người, tách con người ra khỏi mối quan hệ xã hội.

5. Tâm lý học nhận thức :

Học thuyết này do G. Piagiê, Brunơ [Thụy Sĩ] sáng lập. Trường phái này lấy hoạt động nhận thức của con người làm đối tượng nghiên cứu của mình. Họ nghiên cứu tâm lý con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với bộ não. Họ đã phát hiện ra nhiều quy luật của tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ .

6. Tâm lý học hoạt động:

Dòng phái này do các nhà tâm lý học Liên Xô [cũ] như  L.X.Vưgốtxky, X.L Lubinstein, A. Lêôchiép cùng với nhiều nhà tâm lý của Đức, Pháp, Bungari sáng lập. Trường phái này lấy triết học Mác-Lênin làm cơ sở lý luận và phương pháp luận, coi tâm lý là sự phản ánh hiện thực khác quan vào não thông qua hoạt động. Tâm lý người được hình thành trong hoạt động, giao tiếp và trong các mối quan hệ xã hội.

Tâm lý học Gestalt , trường tâm lý học được thành lập vào thế kỷ 20, cung cấp nền tảng cho nghiên cứu hiện đại về nhận thức . Lý thuyết Gestalt nhấn mạnh rằng tổng thể của bất kỳ thứ gì đều lớn hơn các bộ phận của nó. Có nghĩa là, các thuộc tính của tổng thể không được suy ra từ việc phân tích các bộ phận một cách riêng biệt. Từ Gestalt được sử dụng trong tiếng Đức hiện đại có nghĩa là cách một thứ đã được “đặt” hoặc “kết hợp lại với nhau”. Không có tương đương chính xác trong tiếng Anh. “Form” và “shape” là cách dịch thông thường; trong tâm lý học, từ này thường được hiểu là "khuôn mẫu" hoặc "cấu hình."

Lý thuyết Gestalt bắt nguồn từ Áo và Đức như một phản ứng chống lại định hướng nguyên tử của các trường phái cấu trúc và liên kết [một cách tiếp cận phân mảnh kinh nghiệm thành các yếu tố riêng biệt và không liên quan]. Các nghiên cứu về Gestalt được sử dụng thay vìhiện tượng học . Phương pháp này, với truyền thống có từ thời Johann Wolfgang von Goethe , không liên quan gì hơn đến việc mô tả trải nghiệm tâm lý trực tiếp, không có hạn chế về những gì được phép trong mô tả. Tâm lý học Gestalt một phần là một nỗ lực để thêm một chiều hướng nhân văn vào cái được coi là một cách tiếp cận vô trùng đối với nghiên cứu khoa học về đời sống tinh thần. Tâm lý học Gestalt tiếp tục tìm cách bao hàm những phẩm chất về hình thức, ý nghĩa và giá trị mà các nhà tâm lý học thịnh hành đã bỏ qua hoặc cho rằng nằm ngoài ranh giới của khoa học .

Công bố của nhà tâm lý học sinh ra ở Séc “Experimentelle Studien über das Sehen von Bewegung” của Max Wertheimer [“Nghiên cứu Thực nghiệm về Nhận thức Chuyển động”] vào năm 1912 đánh dấu sự thành lập của trường Gestalt. Trong đó, Wertheimer đã báo cáo kết quả của một nghiên cứu về chuyển động rõ ràng được thực hiện ở Frankfurt am Main , Đức, với các nhà tâm lý họcWolfgang Köhler vàKurt Koffka . Cùng với nhau, ba người này đã tạo thành cốt lõi của trường Gestalt trong vài thập kỷ tiếp theo. [Đến giữa những năm 1930, tất cả đều đã trở thành giáo sư ở Hoa Kỳ.]

Tác phẩm Gestalt sớm nhất có liên quan nhận thức , đặc biệt nhấn mạnh vàotổ chức tri giác thị giác như được giải thích bởi hiện tượng ảo giác . Năm 1912, Wertheimer phát hiện rahiện tượng phi , mộtảo ảnh quang học , trong đó đối tượng văn phòng phẩm thể hiện trong kế nhanh chóng, vượt qua các ngưỡng mà tại đó họ có thể được cảm nhận riêng biệt, xuất hiện để di chuyển. Lời giải thích về hiện tượng này — còn được gọi là sự bền bỉ của thị giác và kinh nghiệm khi xem ảnh chuyển động — đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các nguyên tắc Gestalt.

Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay

Theo giả định cũ rằng cảm giác của trải nghiệm tri giác đứng trong mối quan hệ 1-1 với thể chất các kích thích , ảnh hưởng của hiện tượng phi rõ ràng là không thể giải thích được. Tuy nhiên, Wertheimer hiểu rằng chuyển động được cảm nhận là một trải nghiệm xuất hiện, không xuất hiện trong các kích thích một cách riêng lẻ mà phụ thuộc vào các đặc điểm quan hệ của các kích thích. Khi chuyển động được cảm nhận, hệ thống thần kinh và kinh nghiệm của người quan sát không ghi nhận đầu vào vật lý một cách thụ động một cách chắp vá. Thay vào đó, tổ chức thần kinh cũng như kinh nghiệm tri giác bắt đầu ngay lập tức tồn tại như một trường toàn bộ với các bộ phận khác biệt . Trong các tác phẩm sau này, nguyên tắc này được phát biểu như là luật củaPrägnanz , nghĩa là tổ chức thần kinh và tri giác của bất kỳ tập hợp kích thích nào sẽ tạo thành một Gestalt tốt, hoặc toàn bộ, khi các điều kiện hiện hành cho phép.

Những cải tiến chính của công thức mới đã xảy ra trong những thập kỷ tiếp theo. Wertheimer, Köhler, Koffka, và các sinh viên của họ đã mở rộng cách tiếp cận Gestalt cho các vấn đề trong các lĩnh vực khác của nhận thức, giải quyết vấn đề , học tập và tư duy . Các nguyên tắc Gestalt sau đó đã được áp dụng cho động cơ, tâm lý xã hội và nhân cách [đặc biệt là bởi Kurt Lewin ] và thẩm mỹ và hành vi kinh tế. Wertheimer đã chứng minh rằng các khái niệm của Gestalt cũng có thể được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề trong đạo đức , hành vi chính trị và bản chất của sự thật. Truyền thống của tâm lý học Gestalt tiếp tục trong các cuộc điều tra tri giác được thực hiện bởiRudolf Arnheim vàHans Wallach ở Hoa Kỳ.

Video liên quan

Chủ Đề