Vì sao cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng

Mục lục

Thế nào là cái riêng, cái chung, cái đơn nhất? Giữa chúng có mối quan hệ như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó có ý nghĩa gì đối với nhận thức và thực tiễn? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

Quảng cáo

- Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Trong phép biện chứng duy vật:

+ “Cái riêng” dùng để chỉ mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình,... xác định, tồn tại tương đối độc lập so với các sự vật, hiện tượng, quá trình... khác.

+ “Cái chung” dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... lặp lại ở nhiều cái riêng.

+ “Cái đơn nhất” dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... chỉ tồn tại ở một cái riêng nhất định.

Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã hội khiến cho con người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả mọi người với tư cách người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những thuộc tính không lặp lại ở nhau như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,... cụ thể khác nhau.

- Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất

+ Cái chung không tồn tại trừu tượng bên ngoài những cái riêng; trái lại, cái chung chỉ tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thông qua mỗi cái riêng. Vì vậy, để nhận thức cái chung có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc nghiên cứu nhiều cái riêng.

Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Vì vậy, để giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung, đặc biệt là cái chung là cái thuộc bản chất, quy luật phổ biến...

Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà lại không tuân theo các quy tắc chung của thị trường [ví dụ quy tắc cạnh tranh...]. Nếu doanh nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường.

+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Vì vậy, chẳng những việc giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung mà còn phải xét đến cái phong phú, lịch sử khi vận dụng cái chung.

Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi vấn đề riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất [đặc thù] của nó. Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.

+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điểu kiện xác định của quá trình vận động, phát triển của sự vật. Vì vậy, tuỳ từng mục đích có thể tạo ra những điểu kiện để thực hiện sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung hay ngược lại.

Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng nào? Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì từ việc hiểu biết mối quan hệ biện chứng đó? Cho ví dụ.

    - Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật + Khái niệm tất nhiên dùng để chỉ cái xuất phát từ bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật

  • Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

    - Khái niệm nội dung và hình thức với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật Khái niệm nội dung dùng để chỉ toàn bộ các yếu tố làm cơ sở cấu thành nên sự vật; còn khái niệm hình thức dùng để chỉ phương thức kết hợp các yếu tố đó tạo nên sự tồn tại của sự vật.

  • Bản chất là gì? Hiện tượng là gì? Chúng có mối quan hê biện chứng nào? Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó. Cho ví dụ minh hoạ.

    - Khái niệm bản chất và hiện tượng với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật Khái niệm bản chất dùng để chỉ cái đặc trưng cho sự vật, quyết định quá trình biến đổi, phát triển của sự vật; còn khái niệm hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện của bản chất trong các điều kiện xác định.

  • Thực tiễn là gì? Nhận thức là gì? Theo quan điểm duy vật biện chứng: thực tiễn có vai trò gì đối với nhận thức?

    - Khái niệm thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn + Khái niệm thực tiễn dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. + Các hình thức cơ bản của thực tiễn:

  • Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực? Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó? Cho một sô ví dụ minh hoạ

    Khái niệm khả năng và hiện thực với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật Khái niệm hiện thực dùng để chỉ tất cả những gì hiện có, hiện đang tồn tại trong thực tế; còn khái niệm khả năng dùng để chỉ cái mà trong hiện tại mới chỉ thể hiện ở dạng tiềm năng, tiềm thế, xu hướng,...

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Vấn đề dân tộc và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
  • Nội dung và tác động của quy luật giá trị?
  • Phân tích tính tất yếu, đặc điểm và nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Cái riêng và cái chung

Quảng cáo

a] Phạm trù cái riêng, cái chung

Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định; còn phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.

Trong mỗi sự vật, hiện tượng ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.

b] Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung

Theo quan điểm duy vật biện chứng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan. Trong đó, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cải chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.

Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung đã được V.I.Lênin khái quát ngắn gọn: "Như vậy, các mặt đối lập [cái riêng đối lập với cái chung] là đồng nhất: cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng [nào cùng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cùng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung, V.V., V.V.. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác [sự vật, hiện tượng, quá trình], v.v.".

c] Ý nghĩa phương pháp luận

Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tuợng ngoài những cái riêng.

Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mối trường hợp cụ thể.

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải biết vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Nguyên nhân và kết quả
  • Tất nhiên và ngẫu nhiên
  • Nội dung và hình thức
  • Bản chất và hiện tượng
  • Khả năng và hiện thực
  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Vấn đề dân tộc và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
  • Nội dung và tác động của quy luật giá trị?
  • Phân tích tính tất yếu, đặc điểm và nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Cái riêng và cái chung. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận – Mẫu số 1

Mối quan hệ giữa“cái riêng”và“cái chung”là một trong những vấn đề quan trọng nhất và nan giải nhất của triết học nói riêng và nhận thức nói chung.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặpphạm trùnày sẽ giúp ta có cái nhìn khách quan để áp dụng vào quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.

I. Khái niệm

– “Cái riêng”là phạm trù được dùng để chỉmột sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻnhất định.

Ví dụ:

+ 01 quả bưởi đang ở trong tủ lạnh là cái riêng A; 01 quả bưởi ở trên bàn là cái riêng B. Cái riêng A khác với cái riêng B.

+ 01 trận bóng đã giữa đội tuyểnViệt Namvà đội tuyển Thái Lan diễn ra vào ngày 05/9/2019 là một cái riêng.

– “Cái chung”là phạm trù được dùng để chỉnhững mặt, những thuộc tính chungkhông những có một kết cấu vật chất nhất định, mà cònđược lặp lạitrong nhiều sự vật, hiện tượnghayquá trình riêng lẻ khác.

Ví dụ: Giữa 02 quả bưởi A và B nêu trên có thuộc tính chung là đều có cùi dày, nhiều múi, mỗi múi có rất nhiều tép. Cái chung này được lặp lại ở bất kỳ quả bưởi nào khác. [Quả quýt khá giống quả bưởi nhưng lại có cùi mỏng và có khối lượng nhẹ hơn quả bưởi].

– Ta cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”.

“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉnhững nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất địnhvàkhông được lặp lạiở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác.

Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với cái cá biệt.

Ví dụ: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.850 mét. Độ cao 8.850 mét của Everest làcái đơn nhấtvì không có một đỉnh núi nào khác có độ cao này.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” và “cái đơn nhất”

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,“cái riêng”,“cái chung”và “cái đơn nhất” có mối quan hệ qua lại như sau:

1. “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng”.

“Cái chung”không tồn tại biệt lập, tách rời“cái riêng”mà chỉ tồn tại trong“cái riêng”.

Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép làcái chunggiữa các quả bưởi. Rõ ràng, cùi, múi, tép ở đây [cái chung] chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định [cái riêng].

2. “Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.

– Điều này có nghĩa“cái riêng”tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có nghĩa làcô lậpvới những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa,“cái riêng”của loại này có liên hệ với những“cái riêng”của loại khác.

– Bất cứ“cái riêng”nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quan mình.

Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số“cái chung”nào đó.

– Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.

Mỗi“cái riêng”sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi biến thành một“cái riêng”khác.“Cái riêng”khác này lại biến thành“cái riêng”khác thứ ba…v.v., cứ như vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả“cái riêng”đều có liên hệ với nhau.

Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau.

3. “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”.

– Do“cái chung”được rút ra từ“cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của“cái riêng”.

– Mặt khác, bên cạnh những thuộc tính [cái chung] được lặp lại ở các sự vật khác, bất cứ“cái riêng”nào cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ“cái riêng”đó mới có. Tức là, bất cứ“cái riêng”nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”.

4. “Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại.

– Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành“cái chung”và“cái chung”biến thành “cái đơn nhất” sẽ xảy ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong nhữngđiều kiện nhất định.

– Sở dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành“cái chung”.

Ngược lại, “cái cũ” ngày càng mất dần đi. Từ chỗ là“cái chung”, cái cũ biến dần thành “cái đơn nhất”.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

Từ việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa“cái riêng” và “cái chung”, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau:

1. Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”.

Vì“cái chung”chỉ tồn tại trong và thông qua“cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về“cái chung”trong“cái riêng”chứ không thể ngoài“cái riêng”.

Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu“cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.

2. Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái riêng”.

– Vì“cái chung”tồn tại như một bộ phận của“cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận còn lại của“cái riêng”mà không gia nhập vào“cái chung”, nên bất cứ“cái chung”nào cũng tồn tại trong“cái riêng”dưới dạng đã bị cải biến.

Tức là, luôn có sự khác biệtmột chútgiữa“cái chung”nằm trong“cái riêng”này và“cái chung”nằm trong“cái riêng”kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của“cái chung”.

– Do đó, bất cứ“cái chung”nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi“cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh.

Ngược lại, nếu xem thường“cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh.

3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng.

Vì“cái riêng”gắn bó chặt chẽ với“cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới“cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua việc giải quyết những vấn đề chung.

Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.

4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại.

Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến thành“cái chung”và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành“cái chung”nếu điều này có lợi.

Ngược lại, phải tìm cách làm cho“cái chung”tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu“cái chung”không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.

Video liên quan

Chủ Đề