Vnch 1975 nguyên nhân thất bại
Để trả lời câu hỏi trên người viết đã tìm kiếm tài liệu, đúc kết thành bài viết này để gửi đến người đọc hầu có chứng cớ dễ dàng đưa ra nhận định về vần đề mà Tướng Westmoreland nêu ra vào năm 1995. Nhưng trước khi bàn đến đề tài trên, người viết xin bổ túc thêm thông tin về câu hỏi đã nêu “Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975”[1]. Các đoạn văn viện dẫn, được trích từ cuốn The Final Collapse của tác giả Cao Văn Viên. Về nguyên nhân VNCH bị sụp đổ, trong cuốn The Final Collapse tác giả tường thuật khá chi tiết nguyên nhân xa gần dẫn đến sự thất bại của cuộc chiến Việt Nam, thí dụ như tin tức về hậu cần, thiếu thiết bị quân sự cung ứng cho chiến tranh, mà theo tác giả cũng là nguyên do đẫn đến sự thất bại. Và còn nguyên do nào khác dẫn đến việc VNCH bị sụp đổ hay không, xin đọc hết bài viết này với tài liệu dẫn chứng trích từ tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc, giải mật và công bố 2002, và The Pentagon Papers, tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam được Bộ Quốc Phòng giải mật và công bố vào ngày 13 Jun. 2011 [2] sẽ rõ. Một đoạn văn trong tác phẩm của Đại Tướng Viên viết: “Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hy vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những
gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được. “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ. Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.”[3] Trong cuốn sách The Final Collapse có thuật lại hai phiên họp trước khi rút quân khỏi Pleiku và Kontum. Đó là phiên họp ngày 11 tháng 3 năm 1975, xác nhận có sự hiên diện của TT Thiệu, TT Khiêm, Tướng Quang và Tướng Viên, coi như đó là phiên họp trù bị. Còn phiên họp tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975, có ghi (đoạn này). Có nghĩa là các nhân vật có mặt trước đó 3 ngày thời đều tháp tùng Tổng Thống Thiệu đến họp tại Cam Ranh ngày 14.3.1975[4] Với phần trích dẫn bổ túc tin tức của Tướng Viên nêu trên hy vọng vần đề khá rõ rệt, ai phải chịu trách nhiệm về vụ ra lệnh rút quân, và Thủ Tướng TT Khiêm biết hay không biết việc rút quân tưởng đã sáng tỏ, người viết bài xin nhường bạn đọc thẩm định. (Cuốn sách của Tướng Viên nêu trên phát hành 1983). Về tinh thần chiến đấu… tác giả Cao Văn Viên nhận định: “Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy.” Nhưng có tinh thần chiến đấu mà không có phương tiện thì… “Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn. Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có được một chánh phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục tìm cách lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nỗi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không” Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào số quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.”[3] Phương tiện phục vụ cho quân đội thì lại bị lệ thuộc vào nước ngoài, vì VNCH không có khả năng tự lực… Trong khi đó thì Quốc Hội Mỹ cắt ngân khoản viện trợ quân sự… Đoạn văn Tướng Viên viết về khả năng quân đội VNCH còn cầm cự nổi trong ngắn hạn nếu không triệt thoái Pleiku và Kon tum, nhưng trong dài hạn thì cần có viện trợ quân sự từ phía Mỹ. Điều này phù hợp với ước tính tình báo cuả viên chức DIA, là nếu có đủ phương tiện quân sự thì quân Bắc Việt khó có thể mở cuộc tổng tấn công trong thời gian khoảng 6 tháng tới. Nguồn: Michael B. Petersen / DIA Đoạn văn trên được trích từ cuốn The Viet Nam Cauldron[5] của Michael B. Petersen do cơ quan Tình Báo Quân Đội Mỹ công bố năm 2012. Trong tài liệu này cũng bàn về sự cắt giảm viện trợ cho VNCH phù hợp với những chi tiết mà Tướng Viên nêu ra. Còn nguyên nhân nữa làm Sàigòn thất thủ là sự rút quân đội Mỹ ra khỏi VN thể theo yêu cầu cuả Trung Cộng vì quyền lợi chung của hai nước Mỹ – TQ. Điều này được ghi lại trong biên bản phiên họp giữa TS Kissinger và Thủ Tướng Chu Ân Lai ngày 9 tháng 7 năm 1971: oạn văn trên trích trong các biên bản chuyến đi TQ của TS Kissinger năm 1971. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[6] Sang năm 1972, Tổng Thống Nixon chính thức thăm TQ, và biên bản phiên họp giưã Tổng Thống Nixon và Thủ Tướng Chu có đoạn ghi: Tổng Thống Nixon cũng nhắc lại lời đề nghị của Thủ Tướng Chu là sớm giải quyết vấn đề VN, và rằng vần đề VN sẽ không còn chia rẽ hai nước… (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[7]. Ngoài ra còn một lý do rút quân Mỹ khỏi VN, đó là: Về phía Trung Quốc coi vấn đề VN không quan trọng bằng vần đề Liên Xô, Thủ Tướng Chu muốn biết quan điểm của Mỹ đối với Liên Xô… Trả lời về vấn đề Liên Xô, Tổng Thống Nixon cho biết nếu tiếp tục chiến tranh thì lợi thế sẽ nghiêng về phía Liên Xô, vì Liên Xô muốn Mỹ xa lầy tại VN. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[8] Về chuyện Mỹ-Trung hợp tác chống Liên Xô Vào năm 1979 Ông Đặng Tiểu Bình đi Mỹ, Ông ta hô hào chống Liên Xô, kêu gọi Mỹ hợp tác “trói con gấu Bắc cực”, và có đoạn ghi trong cuốn Mưu Lược Đặng Tiểu Bình như sau: “Trong tình hình không có hy vọng hòa hoãn với Liên xô, Đặng không thể không kế thừa chiến lược quốc tế của những năm cuối đời Mao Trạch Đông: Liên hiệp với Mỹ để cùng ngăn chặn dã tâm bành trướng của Liên xô. Phương pháp này quả nhiên đem lại hiệu quả. Qua việc Đặng sang thăm Mỹ đầu năm 1979, Liên xô giữ thái độ im lặng khi Trung quốc dạy bài học cho Việt Nam.”[9] Cho nên có thể nói, chiến tranh tại Việt Nam có ảnh hưởng đến sự tan rã cuả khối Xô Viết 1989, và có thể coi đây cũng là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi đem chiến tranh chống giải phóng (Counter – Insurgency Program – CIP) [10] vào Việt Nam năm 1961 nhằm chống Liên Xô, vì trước đó, năm 1960 Liên xô đã chọn VN để phát động chiến tranh giải phóng[11] như tài liệu The Pentagon Papers[12] được Bộ Quốc Phòng Mỹ giải mật 13/6/2011 đã phơi bày. (Mặt Trận DTGPMNVN ra đời 20/12/1960). Phó TT Đặng Tiểu Bình và TT Jimmy Carter ký kết quan hệ ngoại giao January 29, 1979. Nguồn: OntheNet Một yếu tố khác liên quan đến tiêu đề tưởng cũng nên ghi lại để rộng đường dư luận. Phía Mỹ đã hai lần từ chối không ký kết thỏa ước quân sự hỗ tương (Mutual Defense Treaty) với VNCH. Lần đầu vào năm 1957[13] Lý do từ chối phía Mỹ viện cớ vì VNCH đã nằm trong khối SEATO – Thế nhưng, Phi Luật Tân là nước cũng nằm trong khối SEATO[14] thì Mỹ lại ký kết Mutual Defense với nước Phi ngày 30/8/1951[15]. Ngoài ra Mỹ cũng ký kết Thoả Hiệp Quân Sự Hỗ Tương với các nước khác trong vùng như Nam Hàn, Nhựt Bản và Đài Loan [16]; Và lần thứ hai vào năm 1961 VNCH nhắc lại yêu cầu Mỹ ký Thỏa Hiệp Quân Sự[17], và VNCH chỉ muốn nhận viên trợ quân sự, mà không muốn Mỹ đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam [18]. Kết cuộc dẫn đến cuộc đảo chánh 1963, và Chính Phủ kế nhiệm đã chấp thuận cho Mỹ đưa quân vào Việt Nam để Mỹ thực hiện chiến lược CIP. Điều này phù hợp với Counter – Insurgency Program của Mỹ đề ra 1961, chứng tỏ rằng Mỹ chỉ xử dụng VNCH như là chiến trường nhằm chống Liên Xô qua chiến tranh giải phóng do Liên Xô khởi xướng (1960). Sau 48 năm kể từ ngày lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm (1963), ngày 13/6/2011 phía Bộ Quốc Phòng Mỹ cho công bố tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam đã chính thức thừa nhận hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đảo chánh 1963, và còn thừa nhận “việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo”[19]. (Ngoài ra, còn một yếu tố về vụ lật đổ chế độ Đệ I VNCH, theo CIA, Ông Nhu đề ra “giải pháp” Bắc – Nam 1963[20]. Nếu giải pháp Bắc-Nam thành hiện thực thì CIP program của Mỹ dùng VN để chống Liên Xô sẽ không thể áp dụng được, vì Chính phủ Diệm chống việc đưa quân đội Mỹ vào VN, và tự tìm đường lối hòa giải với miền Bắc để chấm dứt chiến tranh). Nay thì nền Đệ I và Đệ II VNCH đã sụp đổ, người viết xin ghi lại câu nói của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị sát hại (1963), “… bởi vì ông ta (Ngô Đình Diệm) từ chối là một chính phủ bù nhìn.” (parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet)[21] và tuyên bố từ chức của TT Thiệu (1975): “…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu tín nghĩa, vô nhân đạo, đốt một đồng minh đang chịu đau khổ …” [22] để suy xét về số phận của một nước nhược tiểu. [1] Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975, Tướng Phú hay TT Thiệu và tài liệu CIA (2009) viết gì về vụ này? [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1 - trang 1 - số bên góc trái là trang 10/197) (công bố 2011)] 1961 (The Kennedy Counter Insurgency Program) – Negotiations with Diem came to an end in May, not because the issues had been resolved, but because the U.S. decided to forget trying to pressure Diem for a while and instead try to coax him into reforming by winning his confidence. [19] [Trích đoạn trong The Pentagon Papers: Overthrow of Ngo Dinh Diem--IV-B-5-1 - Released 13 Jun. 2011 - số trang viii, hay là 12/126] For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. (Về cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm, chính phủ Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Từ Tháng 8 – 1963, chúng ta đã ban hành nhiều biện pháp, nhằm cho phép, tán thành, khuyến khích các tướng lãnh người Việt đứng ra làm cuộc đảo chánh và chúng ta hứa hẹn sẽ hoàn toàn hậu thuẫn một Chính phủ kế nhiệm. Tháng 10-1963 chúng ta trực tiếp cự tuyệt và cắt đứt viện trợ dành cho Diệm, bật tín hiệu đèn xanh cho phe tướng lãnh. Chúng ta kín đáo duy trì liên lạc với phe đảo chánh xuyên suốt quá trình từ lúc lên kế hoạch cho đến khi tiến hành cuộc đảo chánh, chúng ta đã duyệt kế hoạch hành động của họ và đề ra thành phầntân chính phủ. Cho nên, sau 9 năm cầm quyền của Chính phủ Diệm đã bị chấm dứt bằng sự đổ máu. Vì thế, sự đồng lỏa của chúng ta trong việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo) “ For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. Beginning in August of 1963 we variously authorized, sanctioned and encouraged the coup efforts of the Vietnamese generals and offered full support for a successor government. In October we cut off aid to Diem in a direct rebuff, giving a green light to the generals. We maintained clandestine contact with them throughout the planning and execution of the coup and sought to review their operational plans and proposed new government. Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam.” [20] [Trích đoạn trong CIA: Giải pháp hoà giải Bắc - Nam 1963 - trang 2-đoạn 2- tài liệu giải mật 2001] Theo CIA: Hai ông Diệm, Nhu, ngoài việc chống đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam, còn tự ý liên hệ với miền Bắc nhằm đề nghi một giải pháp hoà giải… “Do đó, ở một thời điểm nào đó, họ có thể tìm ra một giải pháp chung sống với miền Bắc, do họ tin rằng giải pháp hòa giải với những người cùng một dân tộc vẫn hay hơn là cúi đầu trước áp lực của ngọai bang (Mỹ) (They might at some juncture seek to work out a modus vivendi with the North, out of belief that a deal with kindred peoples was better than submitting to foreign (US) pressures.) [Trích đoạn trong: CIA: Giải pháp hoà giải Bắc-Nam 1963 - trang 2, đoạn 3) (Bản văn thiết lập ngày 14.9.1963 và cuộc đảo chánh ngày1.11.1963 - giải mật và công bố Apr. 2001] Cho nên, việc hai ông Diệm, Nhu tự ý đi tìm thỏa hiệp với miền Bắc được coi như là chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài chôn vùi chế độ Đê I VNCH bởi… các tướng lãnh Miền Nam VN… “ If it became known that Diem and Nhu seriously intended to seek an accommodation with the North, this might well precipitate a coup attempt by certain South Vietnamese military leaders.” [21] – Video clip: Ông Ngô Đình Nhu lên tiếng về các vụ biểu tình 1963. Nguyên văn lời tuyên bố của ông Nhu trong video trích dẫn: “l’affaire bouddhiste et l’affaire des étudiants ont été montées de toutes pieces et répercutées de facon orchestrée et puissante pour intoxiquer l’opinion interieure comme l’opinion internationale contre le gouvernement du Sud Vietnam parce que ce gouvernement combat le communisme et parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet.” [22] – Video clip: Diễn văn từ chức của TT Nguyễn Văn Thiệu, 21.4.1975 Tướng Westmoreland: Chúng tôi đã biết trước cuộc tổng công kích sẽ xảy ra. Và tôi sẽ thú tội với mọi người khi nghĩ lại, là tôi đáng lý ra đã phải loan báo những tin tức này đến mọi người. Và tôi biết rất rõ ràng những chi tiệt. Tôi biết biết rõ ràng khi nào họ sẽ tấn công, và tôi cũng có đầy đủ những chi tiết để tiên đoán hậu quả của cuộc tấn công này. Đây là con đường tiếp tế huyết mạch của miền Bắc vào Miền Nạm. Không may cho chúng ta Ông Averell Harriman là một người rất có uy tín trong thời gian đó, và có thời gian từng giữ chức vụ phụ tá Tổng Trưởng Ngoại giao, và là cố vấn của Tổng Thống. Ông Averell rất là cứng rắn khi cho rằng cuộc chiến không được lan rộng ra khỏi lãnh thổ miền Nam và điều này đã trở thành chủ trương của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc chiến tại miền Nam, là chúng ta không phát triển cuộc chiến ra ngoài phạm vi lãnh thổ này. Chúng tôi đã có những cuộc xâm nhập bí mật vào đường mòn HCM và tấn công những đơn vị Bắc Việt dùng con đường này để tiếp tế cho Miền Nam, nhưng chúng tôi không bao giờ được quyền đế cắt đứt con đường này dù chúng tôi dư sức làm điều đó, vi` con đường này là mạch sống của địch quân và việc cắt đứt con đường này sẽ giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều. Câu hỏi: Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi mở chiến tranh chống giải phóng (CIP) tại Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này người viết bài đã đi sưu tầm tài liệu và đúc kết thành bài viết trình bầy nêu trên. Nguồn: Đào Văn/DCVonline.net |