Xót người đạp tuyết tầm mai Cuối đường tay trắng vương vài giấc mơ nghĩa là gì
Con người ấy thời tuổi trẻ lầm tưởng thế gian là vĩnh cửu nên lòng xao xuyến mừng vui khi xuân về hoa nở, xót xa tiếc nuối khi xuân đi hoa tàn, giờ đây hiểu được lẽ thật của cuộc đời nên có thể an nhiên nhìn sự vật vần xoay. Cái lớn của nhà thơ là nhận thức sự hữu hạn của đời người không phải để mang nặng bi kịch trong tâm tư mà là để chấp nhận nó như một thực tế tự nhiên và có thể vui sống hết mình những thời khắc hiện tại. Giống như khi Trần Quang Khải trở lại bến đò Lưu Gia từng in dấu kỷ niệm thời trai trẻ, soi bóng xuống dòng sông năm nào thấy mái tóc xanh đã thay màu bạc trắng, vẫn giữ được sự thư thái và thanh thoát của tâm hồn vì không hối tiếc với những gì mình đang sống: “Thi khách trùng lai đầu phát bạch, (Khách thơ trở lại mái đầu đã bạc, Một bài thơ có tính chất ghi lại sự việc nhưng khá đáng chú ý là Tây chinh đạo trung của Trần Nhân Tông. Bài thơ làm trên đường hành quân về biên giới phía Tây bộc lộ tâm trạng và cảm nghĩ rất chân thật của nhà thơ. Ở đây là một ông vua, người lãnh đạo quốc gia, nắm quyền lực cao nhất, nhưng tâm trạng và cảm nghĩ đó lại là của một con người đời thường. Đi “chinh phạt” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì chẳng đặng đừng, đó không phải là lòng ham muốn, là sự hăm hở, niềm đam mê chinh phục. Bài thơ rất lạ ở chỗ viết về chuyện đi đánh giặc, và là người trực tiếp cầm quân, chỉ đạo đánh giặc, lại bộc lộ sự chán ghét chiến tranh và lòng hướng về hòa bình:
(Cảnh đi đường lạnh lẽo lại thêm vương vấn giấc mơ cung nội,
Ở cấp độ con người – cá thể, tiêu biểu cho ý thức phản tỉnh, không thể không nhắc đến Trần Minh Tông với bài thơ khá đặc biệt – Dạ vũ (Mưa đêm). Đêm mưa, đặc biệt đêm mưa thu, là đề tài thường gặp trong thơ trung đại. Phần nhiều đó là những đêm mưa thu trên đất khách, quê người, và người trong cảnh thường là kẻ phiêu dạt, long đong nơi “thiên nhai hải giác”. Người đã buồn, cảnh càng làm tăng nỗi buồn, nhớ và cô đơn đến phải bật lên tiếng thơ để giải tỏa nỗi niềm. Nhưng cảnh ngộ của Trần Minh Tông trong bài thơ Dạ vũ thật khác. Nhà thơ không xa quê quán, không nhớ đến người thân mà đang ở ngay tại quê nhà mình, trong chăn êm nệm ấm, không phải là kẻ thất chí, lỡ vận, mà là một vị hoàng đế quyền uy tối thượng. Cũng không mang nỗi buồn thời thế, vì đất nước đang thanh bình, yên ổn. Vậy mà mưa đêm đã để lại cho đời một tuyệt tác thấm đẫm nỗi buồn rất riêng của một ông vua – thi sĩ đủ làm lay động trái tim nhiều thế hệ đi sau.
Dịch nghĩa: Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai,
Dưới thời phong kiến, những lỗi lầm của một vị hoàng đế trong quá trình cầm quyền không phải là ít nhưng sự nhận ra, và quan trọng hơn, dũng cảm thừa nhận và ăn năn về những lỗi lầm đó lại không phải là nhiều, nếu không muốn nói là rất hiếm. Trần Minh Tông là một ông vua đã làm được điều lớn lao đó, đặt lương tâm con người lên trên lòng tự tôn và quyền lực của một vị quân vương để tự trói mình trong nỗi đau suốt đời. “Đối diện tiếng mưa rơi” là đối diện với bước đi thời gian không quay trở lại. Tâm trạng “nhàn sầu” đối lập với ngoại cảnh “vũ thanh”. Tiếng mưa càng rơi là thời gian càng chồng chất và nỗi sầu không phai nhạt đi theo thời gian mà càng day dứt thêm lên. Lòng sầu đến thế thảo nào chẳng cảm nhận hơi thu át cả ánh sáng ban ngày và đêm sao như cứ dài ra mãi. Đầu và cuối bài thơ đã có sự hô ứng về ý thơ thật chặt chẽ. Cùng nghe mưa đêm, lòng buồn, thao thức, nhưng ở Thính vũ của Nguyễn Trãi, những giọt mưa cứ đứt nối cho đến trời sáng thể hiện sự thôi thúc bên trong hướng về tương lai, mong sớm làm được điều gì đó đạt thành chí nguyện. Còn ở Dạ vũ của nhà vua đời Trần những giọt điểm canh tàn lại gợi về quá khứ sau bao năm dài vẫn chưa ngủ yên dưới lớp bụi thời gian. Tiếng mưa bên ngoài có lẽ đến một lúc nào đó đã ngừng hẳn, nhưng âm thanh của nó vẫn vang trong lòng tác giả như một nỗi ám ảnh. Tiếng mưa ở cuối bài có thể chỉ là cái dư hưởng bên trong đó, nó là sự nhắc nhở không thôi của lương tri, sự phân thân, nhị hóa để không ngừng tự phán xét mình. Tiếng mưa đêm trong lòng ấy đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ đặc biệt khác với tiếng mưa đêm trong bất kỳ bài thơ nào khác, nó làm cho Dạ vũ mang vẻ đẹp riêng với một sức ám ảnh thâm trầm nhưng thật da diết khó quên. Cuối thời Trần, chính sự không còn được như xưa. Trên thi đàn xuất hiện tiếng thơ ưu thời mẫn thế thể hiện tấm lòng của những người trí thức chân chính trước thời cuộc, trước vận nước, đặc biệt là đối với số phận của người dân. Cùng một tấm lòng “lo trước” nhưng mỗi nhà thơ một phong cách khác nhau. Ở Trần Nguyên Đán, phản tỉnh tự vấn và tự thẹn là một cảm hứng khá nổi bật, mặc dù nhà thơ từng đóng góp công sức không nhỏ cho triều đại và cho đất nước. Trong thơ ông, người đọc thường gặp nỗi ray rứt khi tự soi rọi bản thân, để từ đó toát lên lời tự bạch chân thành, thẳng thắn về cái thẹn của mình, thẹn vì sở học một đời không giúp ích thiết thực được cho dân đang cơ cực, và thẹn với chính mình đã không hoàn thành được hoài bão an dân bình sinh từng ấp ủ:
(Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt.
(Soi gương tự thẹn chỉ có một việc,
(Sáu mươi năm sống trong cõi trần,
(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng son,
Nơi Trần Nguyên Đán thường xuyên có sự giằng co giữa “ở” và “về”, nhà thơ khao khát “nơi cửa sổ phía nam đặt chiếc gối ngọc làm bạn cùng chiếu trúc”[9] để nhìn “mây tụ trước hiên”, nghe “suối reo bên gối”[10], nhưng trước cảnh “cuộc sống của dân như cá trong vạc nước sôi” thì “trên chiếc thuyền về, tấm lòng chưa yên giấc mộng giang hồ”[11]. Vì thế, ngoài những bài thơ thù tạc với bạn bè, những bài thơ của riêng mình thường được ông viết về ban đêm, những đêm thao thức nghe “gió thu trong đêm vắng thổi vi vu, Buồn bã ngồi trước ngọn đèn tàn”, muốn “ngủ đi cho quên hết duyên nợ cuộc đời”[12] nhưng lại không ngủ được, “nơi quan xá, trong sương thu, nghe giọt đồng hồ nhỏ chậm”, vừa nhớ về “tùng cúc vườn xưa ở tận chân trời xa” vừa lo lắng vì “trước mắt toàn là những việc phải quan tâm” nên “bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh”[13]. Nếu chọn cách vứt bỏ hết việc đời phiền toái để quay về vui thú an nhàn thảnh thơi thì đã dễ. Hoặc chọn chốn quan trường để được danh cao lộc trọng mà không cần lẩn thẩn buộc mình tự vấn và tự thẹn thì lại càng dễ hơn. Nhưng lương tri nhà thơ không cho phép mình lựa chọn dễ dàng như thế. Tâm sự ngổn ngang được bộc bạch chân thành trong thơ đã nói lên chí hướng ưu ái thiết tha, làm tôn lên vẻ đẹp của lương tri và tấm lòng người trí thức trong thời suy loạn. Tuy chưa đề cập cụ thể đến những cảnh đời bất hạnh, những con người có tuổi tên như các nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa ở thế kỷ XVIII, XIX nhưng nỗi niềm nhân sinh ở đây đã cho thấy được một nét nổi bật của nhân cách con người thời đại: ý thức phản tỉnh, tự soi rọi luôn thường trực nơi bản thân để tự nhắc nhở, ràng buộc mình một trách nhiệm gắn bó với cộng đồng và sống thế nào cho có ý nghĩa. Những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa tríết học xuất phát từ sự phản tỉnh của tâm thức khao khát tìm kiếm lẽ thật của đời người đã dẫn dắt con người đi đến cảm nhận sâu sắc về nỗi cô đơn cũng như những bi kịch tất yếu của kiếp người để chấp nhận nó và hóa giải nó một cách “tùy duyên” bằng cái tâm trong sáng và an định. Mặt khác, những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa xã hội xuất phát từ sự phản tỉnh của tấm lòng lo đời thương dân đã mang đến cho con người trong thơ vẻ đẹp của sự quên mình và tận tụy. Nét đẹp nhân văn ấy phải chăng đã góp phần không nhỏ khẳng định nhân cách lớn lao của con người thời Đông A cũng như dấu ấn khó phai của một thời đại thơ ca một đi không trở lại. |