10 quốc gia có stds hàng đầu ở Châu Phi năm 2022

Bệnh lây truyền qua đường tình dục còn gọi là bệnh hoa liễu, hay nhiễm trùng lây qua đường tình dục là bệnh có xác suất truyền từ người sang người thông qua các hành vi tình dục, bao gồm cả giao hợp âm đạo, quan hệ tình dục bằng miệng hay hậu môn.

“Hoa liễu” (chữ Hán: 花柳) nghĩa gốc là “hoa và liễu”, nghĩa bóng là chỉ kỹ viện và kỹ nữ. Gọi là bệnh hoa liễu ý muốn nói đây là bệnh của, hoặc lây truyền từ gái mại dâm.

Cho đến những năm 1990, bệnh lây truyền qua đường tình dục thường được gọi là bệnh phong tình, hoặc uyển ngữ thường gọi là bệnh xã hội.

Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục là một thuật ngữ rộng hơn so với bệnh lây truyền qua đường tình dục.[1] Nhiễm trùng là sự xâm chiếm của các loài ký sinh trùng mà có thể không gây tác hại gì, trong khi đó một căn bệnh nhiễm trùng thường dẫn đến suy giảm chức năng hoặc bất thường. Trong cả hai trường hợp điều kiện không có thể biểu hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng.

Nguyên nhân

Bệnh do vi khuẩn

  • Hạ cam mềm (Haemophilus ducreyi)
  • Chlamydia (Chlamydia trachomatis)
  • U hạt bẹn (Klebsiella granulomatis)
  • Bệnh lậu (Neisseria gonorrhoeae)
  • Giang mai (Treponema pallidum)

Bệnh do nấm

  • Nấm da đùi
  • Bệnh nấm Candida: còn gọi là nhiễm trùng men hay nhiễm nấm men.

Bệnh do virus

  • Viêm gan siêu vi B

Lưu ý: Bệnh viêm gan A và viêm gan E được truyền qua đường tiêu hóa, viêm gan C hiếm khi lây lan qua đường tình dục, viêm gan D có thể lây qua đường tình dục.

  • Herpes sinh dục
  • HIV / AIDS

Bệnh sùi mào gà, bệnh mồng gà hay HPV (Human Papilloma Virus): các loại HPV gây ra hầu hết các loại ung thư cổ tử cung, cũng như ung thư hậu môn, ung thư dương vật, ung thư âm hộ hoặc gây ra mụn cóc ở bộ phận sinh dục.

  • U mềm lây (Molluscum contagiosum)

Bệnh do ký sinh trùng

  • Bệnh rận mu do Rận mu hay còn gọi là chấy cua gây ra
  • Bệnh ghẻ

Xác suất lây truyền

Các nguy cơ và xác suất lây truyền của các bệnh lây truyền qua đường tình dục được tóm tắt trong những hành vi ở bảng dưới đây

Tỷ lệ có thể bị truyền nhiễm đối với một lần quan hệ tình dục không an toàn với một người bị nhiễm bệnh.

Những nguy cơ đã được biết

Những nguy cơ có thể xảy ra hoặc chưa được biết

Quan hệ tình dục bằng miệng với đàn ông
  • Bệnh Chlamydia
  • Lậu mủ(25-30%)
  • Herpes (hiếm)
  • HPV
  • Giang mai (1%)[9]

Thực hiện hành vi quan hệ bằng miệng với hậu môn:

  • Viêm gan siêu vi A
  • Shigella
  • Viêm gan siêu vi B (nguy cơ thấp)[11]
  • HIV (nguy cơ rất thấp; 0.01%)[7]
  • Viêm gan siêu vi C (chưa được biết)
Quan hệ tình dục bằng miệng với phụ nữ
  • Herpes (1%)
  • HPV
Người nam (nhận) trong quan hệ tình dục bằng miệng
  • Bệnh Chlamydia
  • Lậu mủ
  • Viêm niệu đạo không do lậu
  • Herpes
  • Giang mai (1%)[9]
  • HPV
Người nữ (nhận) trong quan hệ tình dục bằng miệng
  • Herpes
  • MRSA
  • HPV
Người nam trong quan hệ tình dục
  • Bệnh Chlamydia (30-50%)[11]
  • Rận mu
  • Bệnh ghẻ
  • Lậu mủ (20%)[12]
  • Viêm gan siêu vi B
  • Herpes
  • HIV (0.05%)[7]
  • HPV (ít nhất 5%)[10]
  • Viêm niệu đạo không do lậu
  • Giang mai
  • Bệnh Trichomonas
  • Viêm gan siêu vi C
Người nữ trong quan hệ tình dục
  • Bệnh Chlamydia (30–50%)[11]
  • Rận mu
  • Bệnh ghẻ
  • Lậu mủ (50 to 90%)[12]
  • Viêm gan siêu vi B(50-70%)
  • Herpes
  • HIV (0.1%)[7]
  • HPV (cao;[11] ít nhất 5%)[10]
  • Giang mai
  • Bệnh Trichomonas
  • Viêm gan siêu vi C
Người cho trong quan hệ tình dục qua hậu môn
  • Bệnh Chlamydia
  • Rận mu
  • Bệnh ghẻ(40%)
  • Lậu mủ
  • Viêm gan siêu vi B
  • Herpes
  • HIV (0.62%)[8]
  • HPV
  • Viêm niệu đạo không do lậu
  • Giang mai (14%)[9]
  • Viêm gan siêu vi C
Người nhận trong quan hệ tình dục qua hậu môn
  • Bệnh Chlamydia
  • Rận mu
  • Bệnh ghẻ
  • Lậu mủ
  • Viêm gan siêu vi B
  • Herpes
  • HIV (1.7%)[8]
  • HPV
  • Giang mai (1.4%) [9]
  • Viêm gan siêu vi C
Tình dục miệng – hậu môn
  • Lỵ amip
  • Bệnh Cryptosporidiosis(1%)
  • Nhiễm trùng Giardia
  • Viêm gan siêu vi A(1%)
  • Shigellosis(1%)
  • HPV(1%)

Sinh lý bệnh

Nhiều bệnh hoa liễu dễ dàng truyền nhiễm thông qua các màng nhầy của dương vật, âm hộ, trực tràng, đường tiểu một số đường khác nhưng ít phổ biến hơn (tùy thuộc vào loại nhiễm trùng): miệng, họng, đường hô hấp và mắt. Màng nhầy khác với làn da ở chỗ chúng cho phép một số tác nhân gây bệnh vào cơ thể, các tác nhân gây bệnh cũng có thể đi qua những chỗ da bị rách hoặc tổn thương. Dương vật đặc biệt dễ bị tổn thương do ma sát trong quá trình quan hệ tình dục.

Mặc dù, màng nhầy cũng có trong miệng như trong bộ phận sinh dục, nhưng sự truyền nhiễm bệnh thông qua đường tình dục dễ xảy ra hơn qua đường từ miệng sang miệng, ví dụ như hôn. Theo thống kê về tình dục an toàn, nhiều bệnh nhiễm trùng có thể dễ dàng lây truyền từ miệng qua bộ phận sinh dục hoặc từ bộ phận sinh dục qua miệng, việc truyền từ miệng sang miệng ít xảy ra. Với HIV, chất dịch sinh dục là tác nhân gây bệnh dễ dàng hơn so với nước bọt. Một số bệnh lây qua đường tình dục cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc da trực tiếp, ví dụ như: Herpes simplex và HPV. Virus Herpes dòng Kaposi có thể được truyền qua nụ hôn sâu, hoặc khi nước bọt được sử dụng như một chất bôi trơn tình dục.

Mọi hành vi tình dục có liên quan với các chất dịch cơ thể của người khác cần phải rất cẩn thận vì nó có chứa một số nguy cơ lây truyền các bệnh qua đường tình dục. Hầu hết người ta chỉ chú ý tập trung vào HIV, tuy nhiên mỗi bệnh hoa liễu đều tiềm ẩn một mối nguy hiểm riêng.

Các chuyên gia y tế cho thấy tình dục an toàn, chẳng hạn như việc sử dụng bao cao su, là phương pháp đáng tin cậy nhất để giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong quá trình hoạt động tình dục, nhưng tình dục an toàn không có nghĩa là một sự bảo vệ tuyệt đối.

Dịch tễ học

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục vẫn chiếm số lượng cao trên toàn thế giới, nhiều nền văn hóa gây khó khăn cho bác sĩ trong việc xử lý công khai và thẳng thắn với bệnh nhân về vấn đề tình dục. Ngoài ra, phát triển và lây lan của vi khuẩn kháng thuốc (ví dụ, kháng penicillin gonococci) làm cho một số bệnh khó chữa hơn. Du lịch được coi là nguyên nhân gây phát tán HIV từ châu Phi sang châu Âu và châu Mỹ cuối những năm 1970. Năm 1996, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng hơn 1 triệu người đã bị nhiễm bệnh hằng ngày. Khoảng 60% các ca nhiễm bệnh ở những người trẻ  <25 tuổi, và trong số này có 30%  <20 tuổi. Trong độ tuổi từ 14 và 19, bệnh lây truyền qua đường tình dục thường lây cho các bé gái nhiều hơn bé trai với một tỷ lệ gần như 02:01. Một con số ước tính khoảng 340.000.000 trường hợp mới mắc bệnh giang mai, bệnh lậu, chlamydia, và trichomonas trên toàn thế giới vào năm 1999.

AIDS là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất ngày nay ở châu Phi khu vực hạ Sahara Phần lớn các ca nhiễm HIV là do không được bảo vệ trong quan hệ tình dục. Khoảng 1,1 triệu người đang sống với HIV / AIDS tại Hoa Kỳ, và AIDS vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ Mỹ gốc Phi ở độ tuổi từ 25 và 34. Viêm gan siêu vi B cũng được phân loại như là một căn bệnh qua đường tình dục vì nó có thể được truyền qua đường tình dục. Căn bệnh này được tìm thấy trên toàn cầu, với tỷ lệ cao nhất ở châu Á và châu Phi và thấp hơn ở châu Mỹ, châu Âu.

Phòng ngừa

Phòng ngừa là biện pháp chính trong việc phòng các bệnh lây qua đường tình dục không chữa được, chẳng hạn như HIV và Herpes sinh dục. Cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa lây truyền bệnh qua đường tình dục là tránh tiếp xúc trực tiếp với các bộ phận cơ thể hoặc chất dịch có thể mang mầm bệnh. Điều này không ám chỉ đến việc xem các hoạt động tình dục như làm tình qua điện thoại, làm tình ảo, hoặc thủ dâm là biện pháp để tránh tiếp xúc. Việc sử dụng bao cao su thích hợp có thể làm giảm tiếp xúc và nguy cơ lây bệnh. Mặc dù bao cao su là hiệu quả trong việc hạn chế tiếp xúc, nhưng một số bệnh vẫn có thể lây được ngay cả khi dùng bao cao su.

Lý tưởng nhất là cả hai đối tác sẽ nhận được xét nghiệm trước khi bắt đầu quan hệ tình dục. Nhiều bệnh không phát hiện được ngay lập tức sau khi tiếp xúc với mầm bệnh, mà chỉ có thể phát hiện bằng xét nghiệm sau một thời gian phơi nhiễm nhất định.

Vắc xin

Vắc xin có sẵn có thể bảo vệ chống lại virus lây qua đường tình dục, chẳng hạn như viêm gan siêu vi B và một số loại HPV. Tiêm phòng trước khi bắt đầu quan hệ tình dục để đảm bảo được bảo vệ tối đa.

Bao cao su

Bao cao su chỉ có thể bảo vệ như một rào cản khi sử dụng đúng cách. Khu vực không được che chắn bởi bao cao su vẫn có thể bị lây nhiễm nhiều bệnh. Trong trường hợp bệnh HIV, dương vật che chắn đúng cách với bao cao su có hiệu quả ngăn lây nhiễm HIV, mặc dù chất dịch sinh dục có thể lây nhiễm HIV cho vùng da bị thương về mặt lý thuyết vẫn có thể xảy ra trong quan hệ tình dục, điều này có thể tránh được chỉ đơn giản bằng cách không tham gia vào quan hệ tình dục khi có vết thương chảy máu.

Sử dụng bao cao su đúng cách:

Không mang bao cao su quá chặt ở cuối, và để lại 1,5 cm ở đầu bao dự phòng cho việc xuất tinh.

Không đeo bao cao su quá rộng so với kích cỡ dương vật.

Không được lật ngược bao cao su để sử dụng.

Không dùng bao cao su được làm bằng các chất không phải là cao su hoặc nhựa tổng hợp, loại bao cao su này không thể bảo vệ chống lại HIV.

Chẩn đoán

Không phải tất cả các bệnh lây truyền qua đường tình dục đều có triệu chứng, hoặc có triệu chứng ngay sau khi mắc bệnh, trong một số trường hợp, người bệnh mang mầm bệnh nhưng hoàn toàn không có bất kì triệu chứng đáng kể nào, điều này tăng nguy cơ lây bệnh cho người khác. Một số bệnh lây truyền qua đường tình dục không được điều trị sẽ dẫn đến vô sinh, đau mãn tính hoặc chết. Cần sớm được chẩn đoán bệnh bằng các phương pháp xét nghiệm để tiến hành điều trị và hạn chế việc lây truyền dịch bệnh.

Lịch sử

Bệnh giang mai bùng nổ vào năm 1494 khi quân Pháp bao vây phía trong thành phố Napoli nước Ý, từ vùng này, dịch bệnh đã càn quét ra toàn châu Âu. Jared Diamond đã mô tả về nó như sau: Ca giang mai đầu tiên chắc chắn được ghi nhận ở Châu Âu vào năm 1495, mụn mủ bao bọc từ đầu đến đầu gối, từng mảng thịt rơi vữa trên mặt bệnh nhân, và dẫn đến tử vong trong vòng chưa đến 1 tháng sau.

Trước khi phát minh ra các loại thuốc hiện đại, các bệnh lây truyền qua đường tình dục nói chung không chữa được, và việc điều trị được giới hạn trong điều trị các triệu chứng của bệnh. Bệnh viện đầu tiên cho các bệnh hoa liễu được thành lập năm 1746 tại Bệnh viện London Lock. Trong nửa sau của thế kỷ 19, một đạo luật đã được sử dụng để bắt giữ gái mại dâm bị nghi ngờ nhiễm bệnh.

Với sự phát hiện của thuốc kháng sinh, một số lớn các bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể dễ dàng được chữa trị. Điều này, kết hợp với các chiến dịch y tế hiệu quả, đã dẫn đến một nhận thức trong công chúng vào thập niên 1960 và thập niên 1970, các bệnh hoa liễu không còn là mối đe dọa y tế nghiêm trọng.

Trong những năm 1980, lần đầu tiên người ta phát hiện ra bệnh herpes sinh dục và AIDS, được xem là các bệnh lây truyền qua đường tình dục không thể được chữa khỏi bằng y học hiện đại. AIDS có một thời kỳ dài không có triệu chứng, trong thời gian này HIV có thể nhân rộng và bệnh có thể được truyền cho người khác, tiếp theo là giai đoạn có triệu chứng và dẫn đến tử vong.

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Sexually_transmitted_infection

Mặc dù thực tế là châu Phi cận Sahara chỉ chứa khoảng 11 phần trăm dân số Trái đất, khu vực này là tâm điểm của thế giới về HIV/AIDS. Những con số đáng ngại. Tỷ lệ nhiễm HIV trưởng thành là 1,2 % trên toàn thế giới (0,6 % ở Bắc Mỹ), nhưng nó là 9,0 % ở châu Phi cận Sahara. UNAIDS ước tính rằng vào cuối năm 2001, có 40 triệu người nhiễm HIV/AIDS, 28,5 triệu người trong số họ từ người châu Phi cận Sahara. Năm triệu người lớn và trẻ em mới bị nhiễm HIV vào năm 2001, 3,5 triệu người trong số họ từ châu Phi cận Sahara. Ba triệu người đã chết vì các nguyên nhân liên quan đến AIDS trong năm 2001 và 2,2 triệu trong số những trường hợp tử vong này là trong số những người châu Phi cận Sahara.2

AIDS hiện là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở châu Phi cận Sahara. . Sự kết hợp giữa tỷ lệ sinh cao và tỷ lệ tử vong cao ở người lớn, bao gồm nhiều phụ huynh, có nghĩa là hơn 90 phần trăm trẻ em đã mồ côi do hậu quả của dịch HIV/AIDS ở khu vực này.2

Những thống kê này ngụy trang một phần quan trọng của câu chuyện, tuy nhiên. Hầu hết các quốc gia bị ảnh hưởng tồi tệ nhất tạo thành một vành đai AIDS ở phía đông và miền nam châu Phi. Vành đai này bao gồm khoảng 16 quốc gia3 và trải dài từ Djibouti và Ethiopia ở phía đông của lục địa qua Nam Phi. Các quốc gia này chỉ chiếm hơn 4 phần trăm dân số thế giới nhưng chiếm hơn 50 phần trăm nhiễm HIV trên toàn thế giới.

Theo UNAIDS, tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng tồi tệ nhất (với tỷ lệ lưu hành trên 20 phần trăm) là tiếp giáp với nhau ở phần dưới của lục địa. Chúng bao gồm Nam Phi, Lesoto, Swaziland, Botswana, Namibia, Zambia và Zimbabwe. Botswana, Lesotho, Swaziland và Zimbabwe có tỷ lệ lưu hành trên 30 %.4

Xa hơn về phía bắc trong Vành đai AIDS, Mozambique, Malawi, Burundi, Rwanda, Kenya, Tanzania và Ethiopia đều có tỷ lệ lưu hành trưởng thành trong phạm vi 6-15 %. Tỷ lệ lưu hành trưởng thành ở Uganda được ước tính là khoảng 5 %. Uganda là một quốc gia trong khu vực có lẽ đã đạt được sự suy giảm về tỷ lệ nhiễm HIV lâu dài. Tỷ lệ lưu hành ở Uganda có thể đã đạt đỉnh trong phạm vi 12-13 % vào đầu những năm 1990 trước khi bắt đầu suy giảm này.

Ở những nơi khác, Somalia, Eritrea, Djibouti và Sudan có rất ít hoặc không có dữ liệu, và Madagascar vẫn là một trường hợp thú vị. Mặc dù du lịch, một thương mại tình dục thương mại tích cực và tỷ lệ cao của các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục khác (STI) và mặc dù bị tách khỏi lục địa châu Phi chỉ bằng 60 km nước, tỷ lệ nhiễm HIV trưởng thành vẫn còn dưới 1 %.5

Mặc dù có tỷ lệ lưu hành người lớn nói chung thấp hơn ở phía đông và phía nam của lục địa, phần giữa của Châu Phi6 đang trải qua một dịch bệnh nghiêm trọng và tổng quát7 HIV/AIDS. Trong số các quốc gia trong khu vực, Cộng hòa Dân chủ Congo, Chad và Guinea xích đạo cho thấy tỷ lệ lưu hành HIV trưởng thành dưới 5 %. Angola đã bị chiến tranh tàn phá và hỗn loạn quá lâu đến nỗi rất khó để biết chính xác những gì đang diễn ra với dịch bệnh ở đó. Tuy nhiên, UNAIDS đặt tỷ lệ lưu hành ở người trưởng thành ở mức 5,5 phần trăm. Ở những nơi khác trong khu vực, UNAIAIDS báo cáo tỷ lệ lưu hành là 7,2 % ở Congo, 11,8 % ở Cameroon và 12,9 % ở Cộng hòa Trung Phi .

Trong số 15 quốc gia Tây Phi, 9 chỉ có một số quốc gia có tỷ lệ lưu hành trên 5 %. Chúng bao gồm Burkina Faso (6,5 phần trăm), Côte d hèIvoire (9,7 phần trăm), Nigeria (5,8 phần trăm) và Togo (6.0 phần trăm). Với dân số ước tính 127 triệu người, Nigeria là người khổng lồ nhân khẩu học của châu Phi cận Sahara. Sau Nam Phi, Nigeria có nhiều người nhiễm HIV/AIDS (3,5 triệu năm 2001) hơn bất kỳ nơi nào khác trên lục địa. Côte d hèIvoire nhận được một số lượng lớn người di cư nam từ các nước láng giềng là những người lao động tạm thời. Cùng với một ngành công nghiệp tình dục thương mại sôi động, đặc biệt là ở thủ đô Abidjan, điều này giúp giải thích lý do tại sao Côte dơiIvoire nổi lên như là tâm điểm của dịch bệnh ở Tây Phi.


Bảng 1 số lượng người trong Vành đai AIDS của Châu Phi sống với HIV/AIDS, cuối năm 2001
Estimated Number of People in the African “AIDS Belt” Living with HIV/AIDS, end of 2001

Tổng số người lớn và trẻ emTổng số phụ nữ (15-49)Tỷ lệ người lớn (15-49) (%)
Tổng số toàn cầu40 triệu18,5 triệu1.2
Châu Phi cận Sahara28,5 triệu15 triệu9.0
Djibouti---
Ethiopia2,1 triệu1,1 triệu6.4
Uganda600,000 280,000 5.0
Kenya2.5 triệu1.4 triệu15.0
Tanzania1,5 triệu750,000 7.8
Rwanda500,000 250,000 8.9
Burundi390,000 190,000 8.3
Mozambique1,1 triệu630,000 13.0
Uganda850,000 440,000 15.0
Kenya2.5 triệu590,000 21.5
1.4 triệuTanzania2.5 triệu33.7
1.4 triệu230,000 110,000 22.5
Tanzania330,000 170,000 38.8
1,5 triệu170,000 89,000 33.4
Rwanda360,000 180,000 31.0
BurundiMozambiqueMa -rốc20.1

Zambia UNAIDS, Report on the Global HIV/AIDS Epidemic: July 2002.


1,2 triệu

Zimbabwe

2,3 triệu

Namibia

Botswana

Swaziland


Lesotho

  1. Nam Phi
  2. 5,0 triệu
  3. 2,7 triệu
  4. UNAIDS, Báo cáo về dịch HIV/AIDS toàn cầu: Tháng 7 năm 2002.
  5. UNAIDS, Báo cáo về dịch HIV/AIDS toàn cầu: Tháng 7 năm 2002.
  6. Các nước Trung Phi bao gồm Angola, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo, Congo, Guinea Xích đạo và Gabon.
  7. Một định nghĩa về dịch HIV/AIDS tổng quát là HIV đã lan rộng ra ngoài các nhóm dân số ban đầu tham gia vào hành vi tình dục có nguy cơ cao đối với dân số nói chung, bằng chứng là tỷ lệ lưu hành từ 5 % trở lên ở khu vực đô thị. Xem, ví dụ, đối đầu với AIDS: Ưu tiên công khai trong dịch bệnh toàn cầu, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1997): 87.
  8. UNAIDS, Báo cáo về dịch HIV/AIDS toàn cầu: Tháng 7 năm 2002.
  9. Các quốc gia Tây Phi bao gồm Bénin, Burkina Faso, Côte DỉIvoire, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Mali, Mauritania, Nigeria, Nigeria, Senegal, Sierra Leone và Togo.
  10. Dẫn đường: USAID phản ứng với HIV/AIDS.
  11. John C. Caldwell và Pat Caldwell, Hướng tới một mô hình dịch tễ học về AIDS ở châu Phi cận Sahara, Lịch sử khoa học xã hội 4 (Mùa đông 1996): 567, 576, 578-585, 592.
  12. UNAIDS, Cập nhật dịch bệnh AIDS: Tháng 12 năm 2000 (Geneva: UNAIDS, 2000).

STD phổ biến nhất ở Châu Phi là gì?

Tổ chức Y tế Thế giới đã ước tính rằng mỗi năm ở Châu Phi có 3,5 triệu trường hợp mắc bệnh giang mai, 15 triệu trường hợp mắc bệnh chlamydial, 16 triệu trường hợp mắc bệnh lậu và 30 triệu trường hợp mắc bệnh trichomonia.syphilis, 15 million cases of chlamydial disease, 16 million cases of gonorrhea, and 30 million cases of trichomoniasis.

Tại sao STD phổ biến ở Châu Phi?

Một số nghiên cứu từ châu Phi cận Sahara đã xác định phụ nữ trong độ tuổi sinh sản có nguy cơ mắc STI cao [8].Các yếu tố rủi ro hành vi xã hội đối với STI trong nhóm này bao gồm trình độ học vấn thấp, không kết hôn, nhiều bạn tình, sử dụng rượu và ma túy và ra mắt tình dục sớm [8,9,10,11].low levels of education, not being married, multiple sex partners, alcohol and drug use, and early sexual debut [8,9,10,11].

Tỷ lệ STD ở Nam Phi là bao nhiêu?

Sử dụng dữ liệu từ 9948 phụ nữ cư trú tại KwaZulu Natal, Nam Phi, chúng tôi ước tính dân số do rủi ro để định lượng các tác động kết hợp của các yếu tố có ảnh hưởng nhất đến chẩn đoán STI.Tỷ lệ mắc STI tổng thể là 20%và tỷ lệ mắc STI là 15 mỗi 100 người.20%, and STI incidence was 15 per 100 person-years.

Dân số nào có tỷ lệ STD cao nhất?

Dựa trên dữ liệu CDC, tỷ lệ STD cao hơn 5-8 lần đối với người Mỹ gốc Phi hoặc người da đen so với người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha.Cao hơn 3-5 lần đối với người Ấn Độ Mỹ, người Alaska bản địa và người Hawaii bản địa so với người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha.Cao hơn 1-2 lần đối với người gốc Tây Ban Nha hoặc người Latinh so với người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha.African Americans or Black people than for non-Hispanic White people. 3-5 times higher for American Indians, Native Alaskans, and Native Hawaiians than for non-Hispanic White people. 1-2 times higher for Hispanic or Latino people than for non-Hispanic white people.