Bị vẹo cổ phải làm sao

Bệnh vẹo cổ khi ngủ dậy thường là do tư thế lúc ngủ không hợp lý, gối đầu quá cao hoặc quá cứng khiến cho đầu cổ lệch về một bên.

Nếu thấy cổ bị căng cứng, cảm giác đau nhức khó chịu tăng lên khi cố làm động tác quay cổ, có khi đau lan xuống bả vai, chi trên hoặc vùng liên sống bả, khiến cho cổ phải nghiêng về một bên trong tư thế rất gò bó thì rất có thể là chứng bệnh vẹo cổ.

Chứng bệnh vẹo cổ này được y học cổ truyền gọi là lạc chẩm hay thất chẩm.

Bị vẹo cổ phải làm sao

Nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh vẹo cổ khi ngủ dậy thường là do tư thế lúc ngủ không hợp lý, đầu gối quá cao hoặc quá cứng khiến cho đầu cổ lệch về một bên, các cơ vùng cổ như cơ thang, cơ ức đòn chũm bị căng giãn kéo dài mà sinh đau.

Ngoài ra, tình trạng thoái hoá cột sống cổ hoặc cổ bị lạnh cũng là những yếu tố góp phần làm bệnh phát sinh hoặc nặng thêm. Khi lâm vào tình trạng khó chịu này, trước tiên bạn phải hết sức bình tĩnh và sau đó lần lượt tiến hành các thao tác sau đây:

Dùng lòng bàn tay xoa xát vùng cổ: trong vài phút sao cho tại chỗ nóng lên là được, có thể thoa thêm một chút dầu cao hoặc cồn rượu xoa bóp để làm tăng tác dụng trị liệu. Cũng có thể chườm vùng cổ vai bằng muối sao nóng hoặc muối sao với lá ngải cứu.

Dùng các ngón tay nhẹ nhàng day ấn cổ vai: để xác định được các điểm đau nhiều (áp thống điểm). Sau đó dùng ngón tay cái hoặc ngón giữa day ấn các điểm này trong vài phút.

Chú ý mỗi điểm day đều với một lực vừa phải chừng 30 giây rồi ấn áp thống điểm từ nhẹ đến mạnh trong năm giây, nghỉ hai giây rồi lại tiếp tục ấn, tiến hành chừng 3-4 lần như vậy là được. Khi ấn cảm giác đau nhức thường tăng lên nhưng không vì thế mà giảm cường độ tác động.

Dùng ngón tay trỏ hoặc đầu bút bi (không phải đầu nhọn): day ấn huyệt lạc chẩm trong vài phút, mỗi ngày kiên trì day ấn vài lần. Vị trí huyệt lạc chẩm là ở mu bàn tay, nằm giữa hai xương bàn tay 2 và 3, trên khớp xương bàn - ngón khoảng 0,5 thốn (một thốn ở người trưởng thành là từ 2-2,2cm). Khi ấn có cảm giác đau tức nhất. Huyệt vị này còn có tên gọi là hạn cường, hay kỳ huyệt, có tác dụng chữa trị các chứng bệnh như cứng gáy, đau nửa đầu, đau dạ dày, đau họng, đau vai và cánh tay...

Vì là huyệt hết sức hữu hiệu trong trị liệu chứng vẹo cổ nên được gọi là huyệt lạc chẩm.

Ngoài thủ thuật day bấm, người ta còn dùng kim châm cứu châm thẳng hoặc xiên, sâu từ 0,5-1 thốn, tại chỗ thường có cảm giác căng tức, có khi cảm thấy như bị điện giật lan tới mút ngón tay.

Nói chung, bạn chỉ cần áp dụng thủ pháp trị liệu như trên chừng 3-4 lần là có thể chữa khỏi chứng vẹo cổ hoặc ít nhất cũng giúp cho bệnh trạng thuyên giảm nhiều. Nếu hiệu quả không rõ rệt thì cần đi khám để tìm thêm nguyên nhân và loại trừ biến chứng của các bệnh khác.

Bị vẹo cổ phải làm sao

SKĐS-Vẹo cổ, đông y còn gọi là thất chẩm hay lạc chẩm. Nguyên nhân là do tư thế gối đầu không hợp lý khi ngủ, hoặc cao quá hoặc thấp qua, hoặc gối đầu quá cứng làm cho khí huyết không điều hoà, cơ cổ bị kéo giãn quá lâu, đầu bị vẹo về một bên; do lao động quá sức kéo dài, người yếu; hoặc do phong hàn xâm nhập vào kinh lạc làm cho kinh khí bị ngăn trở; ngoài ra, tình trạng thoái hoá cột sống cổ cũng là những yếu tố góp phần làm bệnh phát sinh hoặc nặng thêm.

Biểu hiện của bệnh là sáng ngủ dậy thấy cổ bị căng cứng và rất đau, đầu bị vẹo, khó quay và cúi, thậm chí đau lan xuống cả vai, cánh tay khiến cho cổ phải nghiêng về một bên, cơ vùng cổ co cứng, ấn đau. Nếu nặng có thể đau nhức cả cánh tay và ngực phía cổ vẹo. Những ngày đầu rất đau và kéo dài vài tuần nếu không điều trị sớm. Với tác dụng thông hoạt lạc chỉ thống, xoa bóp bấm huyệt của Đông y là biện pháp đơn giản nhưng rất hiệu quả để trị chứng bệnh khó chịu này. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo áp dụng.

Bị vẹo cổ phải làm sao

Day huyệt phong trùy

Day huyệt đại trùy.

Day huyệt kiên tỉnh. Xoa bóp vùng gáy.

Người bệnh ngồi trên ghế, người chữa đứng sau lưng bệnh nhân, lần lượt làm các thao tác sau:

1. Người chữa dùng mô bàn tay hoặc gốc bàn tay xoa day vùng cổ và vùng lưng phía dưới cổ giữa hai bả vai, hai bên vai của người bệnh, day từ nhẹ tới mạnh cho tới khi nóng lên (có thể dùng thêm dầu cao hoặc cồn xoa bóp để tăng hiệu quả).

2. Người chữa dùng ngón cái và bốn ngón kia lần lượt nắm bóp các khối cơ vùng cổ từ trên xuống dưới, từ cổ tới mỏm vai, đặc biệt đối với chỗ đau, làm khoảng 5 phút cho đến khi các cơ mềm ra và bệnh nhân cảm thấy dễ chịu là được.

3. Người chữa tiếp tục dùng ngón cái bấm huyệt giáp tích vùng gáy của bệnh nhân từ trên xuống, làm khoảng 5 lần.

4. Tìm điểm đau nhất của bệnh nhân, sau đó, dùng ngón tay cái hoặc ngón giữa day ấn các điểm này trong vài phút, day đều với một lực  từ nhẹ đến mạnh sao cho đạt cảm giác mỏi, tê tức là được. Kết hợp bảo bệnh nhân quay cổ sang phải, sang trái càng nhiều lần càng tốt.

5. Người chữa lần lượt day bấm các huyệt phong trì, phong phủ, đại chuỳ, kiên tỉnh, thiên tông, lạc chẩm, hậu khê của bệnh nhân, mỗi huyệt day ấn từ 1 - 2 phút.

6. Người chữa đứng sau lưng bệnh nhân, một tay đỡ cằm, tay kia giữ đầu, hai tay phối hợp nhẹ nhàng vận động đầu bệnh nhân qua phải, qua trái với góc độ tăng dần, khi cảm thấy cơ mềm có thể dùng lực hơi mạnh lắc đầu bệnh nhân sang phải và về phía sau, tiếp tục làm tương tự phía bên trái. Trong khi lắc như vậy có thể nghe thấy tiếng kêu.

- Có thể kết hợp dùng ngải cứu sao nóng với muối hoặc muối rang chườm vào chỗ đau trước hoặc sau khi xoa bóp.

- Nếu đau nhiều, nên kết hợp dùng thuốc giảm đau.

- Để phòng bị vẹo cổ, khi đi ngủ không nên gối đầu quá cao, giữ đúng tư thế khi làm việc hoặc học tập, không nên  bất  ngờ quay cổ quá mạnh. Tránh nằm ngủ ơ nơi ẩm thấp, gió lạnh.

Vị trí huyệt:
Giáp tích vùng gáy: Từ các đốt xương sống cổ sang ngang khoảng 0,5 - 1 tấc (còn gọi là thốn).
Phong trì: Ở chỗ lõm của bờ trong cơ ức đòn chũm và bờ ngoài cơ thang bám vào đáy hộp sọ.
Phong phủ: Thẳng phía dưới ụ chẩm, ở đường giữa, tại chỗ lõm phía trên chân tóc 1 tấc.
Đại chuỳ: Nằm ở điểm giữa đốt sống cổ 7 (C7) và mỏm gai đốt sống lưng 1 (D1).
Kiên tỉnh: Nằm ở điểm giữa đường nối huyệt đại chùy với mỏm cùng vai, tại điểm cao nhất của vai.
Thiên tông: Huyệt ở giữa hố dưới xương bả vai.
Lạc chẩm: Ở mu tay, giữa hai xương bàn tay 2 và 3, cách khớp xương bàn tay - ngón tay 0,5 tấc.
Hậu khê: Nằm ở đầu nếp ngang thứ hai (phía sau) của khớp xương bàn tay - ngón tay út, khi bàn tay hơi nắm lại.

Lương y Đình Thuấn