Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất

Bạn biết rằng bổ sung canxi là cách bảo vệ cơ thể khỏi các bệnh về đau nhức xương khớp. Thế nhưng không phải ai cũng biết cách bổ sung sao cho đúng và đủ để tránh các bệnh sinh ra do thiếu canxi. Để biết nên uống canxi như thế nào, mời bạn tham khảo bài viết dưới đây nhé!

Tầm quan trọng của việc bổ sung canxi cho cơ thể

Trong cơ thể con người, canxi là nguyên tố năng động bậc nhất và đứng thứ 5 trong các nguyên tố quan trọng nhất. Đây cũng là thành phần chủ yếu cấu tạo nên xương và răng, tham gia vào quá trình đông máu và các hoạt động khác của cơ thể như co giãn tế bào cơ. 

Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất

Thiếu canxi sẽ dẫn đến loãng xương và các bệnh đau nhức xương khớp

Canxi giúp củng cố khung xương – có nhiệm vụ nâng đỡ toàn bộ cơ thể trong suốt quá trình phát triển, duy trì sự hoàn chỉnh và đảm bảo sự hoạt động bình thường của các quá trình trao đổi chất, tuần hoàn máu, động tụ máu, truyền đạt tín hiệu – thông tin thần kinh, đồng thời còn duy trì các chức năng của tế bào cũng như phản ứng nhanh nhẹn và tác dụng của các hormone.

Cơ thể con người có đến 60 chục ngàn tỷ tế bào và canxi có trong từng tế bào. Thế nhưng, canxi sẽ bị mất đi mỗi ngày qua bài tiết (phân- nước tiều) và mồ hôi, sự mất mát này cũng tiếp tục diễn ra khi chúng ta nghỉ ngơi. Chính vì cơ thể luôn cơ chế độ tự tiêu hao canxi này mà việc bổ sung canxi là vô cùng quan trọng. Thiếu canxi sẽ dẫn đến loãng xương, chứng nhạy cảm với lạnh, các rắc rối ở giai đoạn dậy thì cũng như mãn kinh, thậm chí có thể là nguy cơ của bệnh tiểu đường, cao huyết áp, giảm trí nhớ…

Bổ sung canxi bao nhiêu là đủ?

Lượng canxi mà cơ thể cần trong một ngày sẽ khác nhau tùy theo về giới tính và độ tuổi. Trẻ em, phụ nữ mang thai, người cao tuổi… là những đối tượng có nhu cầu canxi lớn nên cần phải bổ sung thêm (với người từ 50 tuổi trở lên cần khoảng 1.000- 1.200mg canxi mỗi ngày).

Bạn có thể bổ sung canxi bằng cách ăn những loại thực phẩm như: Sữa, các chế phẩm từ sữa; hải sản; Đậu và các chế phẩm từ đậu; Các loại rau: rau cần, vừng, mộc nhĩ, nấm, rau mùi, cà rốt, củ cải đỏ… Với rau chân vịt, rau muống, măng, hoa lơ, bắp cải, cải xoăn, bạn cần chần qua nước sôi trước khi chế biến tránh để axid oxalic có trong các loại rau này ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ canxi. 

Nên uống canxi vào lúc nào?       

Một trong những cách bổ sung canxi tốt và dễ dàng cũng như bổ dưỡng nhất là uống sữa giàu canxi. Để phòng tránh bệnh đau nhức xương khớp, loãng xương, bạn nên uống sữa bổ sung canxi vào buổi sáng vì đây là lúc cơ thể dễ hấp thu canxi nhất nhờ tăng khả năng tổng hợp được Vitamin D – loại vitamin cơ thể hấp thu canxi dễ dàng.

Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất

Buổi sáng là thời gian cơ thể dễ hấp thu canxi nhất

Hơn nữa, dùng canxi nếu vào buổi chiều hoặc tối có thể làm canxi tích tụ lại, hình thành canxi oxalate dễ tăng nguy cơ gây sỏi thận, sỏi tiết niệu.

Tốt nhất, bạn nên uống canxi sau bữa ăn sáng khoảng 1 giờ, vì ánh nắng có thể làm tăng khả năng hấp thụ canxi. Với sữa bổ sung canxi hay uống thuốc viên canxi, bạn cũng không bổ sung quá nhiều canxi trong một lần mà nên chia làm nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, khi bổ sung canxi, bạn cũng cần chú ý những điều sau:

  • Không ăn quá mặn vì sẽ tăng thải canxi qua nước tiểu.
  • Không dùng canxi cùng với sữa và các chế phẩm của sữa.
  • Không nên uống chung canxi với một số khoáng chất khác mà nên tách ra sáng, chiều, tối…
  • Hạn chế sử dụng thuốc lá và rượu vì sẽ khiến cơ thể khó hấp thu canxi.

Hy vọng những thông tin trên đây sẽ giúp bạn bổ sung canxi cho cơ thể hiệu quả, từ đó phòng ngừa các bệnh về đau nhức xương khớp, loãng xương.

BS Ngô Thị Phi Yến

Trung tâm dinh dưỡng Vinamilk

Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất
Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất
Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất
Bổ sung canxi cho lợn nái vào thời điểm nào là tốt nhất

Giai đoạn I (84 ngày đầu) khối lượng bào thai đạt khoảng 25 – 30%; Giai đoạn II (khoảng 30 ngày cuối) bào thai phát triển nhanh, chiếm khoảng 65 – 70% khối lượng heo con sơ sinh. Vì vậy, để heo con đạt khối lượng sơ sinh cao cần tăng khoảng 25 – 30% lượng thức ăn cho heo nái mang thái ở giai đoạn II. Thông thường, heo nái mang thai cần 14% tỷ lệ protein thô, 0,9% tỷ lệ canxi và 0,45% tỷ lệ phốt pho trong khẩu phần ăn. Mùa hè có thể giảm mức ăn nhưng phải tăng lượng protein từ 14 – 16%, nâng mức khoáng và vitamin trong khẩu phần.

Trong thời kỳ mang thai, heo nái cần lượng chất khoáng nhiều hơn để phát triển hệ xương của bào thai. Khi khẩu phần ăn của heo mẹ không đủ, sẽ phải huy động nhiều chất khoáng từ cơ thể heo mẹ (đặc biệt là canxi và phốt pho từ xương) để nuôi thai. Vì thế, heo mẹ bị thiếu chất khoáng dễ dẫn tới bại liệt. Tuy nhiên cũng cần tránh vỗ béo heo quá mức trong giai đoạn heo gần sinh. Giai đoạn I: Cho ăn 1,8 – 2 kg/con/ngày; Giai đoạn II: 85 – 110 ngày, cho ăn 2 – 2,5 kg/con/ngày.

Thức ăn đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng, không bị ôi thiu, mốc. Cho ăn đúng giờ để kích thích tính thèm ăn cho nái, khi thay đổi thức ăn phải thay đổi từ từ. Cung cấp đủ nước sạch cho nái. Ngoài ra, mức ăn cho nái mang thai còn phụ thuộc vào thể trạng của nái (gầy, béo hay bình thường). Điển hình như heo nái gầy phải cho ăn tăng, nái quá béo phải giảm thức ăn đã phối trộn nhưng lại tăng thức ăn thô xanh.

Ban Khoa học – Kỹ thuật – Người Chăn Nuôi

Chăm sóc heo nái mang thai có vai trò quan trọng đối với sự thành công của người chăn nuôi, bởi giai đoạn này, chế độ dinh dưỡng với heo mẹ sẽ quyết định tới chất lượng heo con. Do đó người chăn nuôi nên dành thời gian và công sức chăm sóc chu đáo cho vật nuôi.

Thời gian mang thai của heo biến động 102 - 128 ngày. Ảnh: VM

Chọn giống

Con giống có vai trò quyết định tới việc giúp heo nái đẻ nhiều, heo con có sức sinh trưởng tốt, khi chọn heo mẹ, cần chọn con cái có mông nở, thân dài, 4 chân chắc, dáng đi nhanh nhẹn, lông thưa, mắt sáng. Heo có từ 12 vú trở lên, các vú nổi rõ cách đều nhau, không có vú kẹ, vú lép. Thời gian lựa chọn từ 2,5 - 3 tháng tuổi. Heo cái được sinh ra từ những heo mẹ có năng suất cao, đẻ sai con, nuôi con khéo, được chăm sóc từ những nơi không có dịch.

Thời điểm mang thai

Sau khi phối giống 21 ngày không thấy nái động dục trở lại, nái đã mang thai. Thời gian mang kéo dài từ 114 - 116 ngày. Nếu nái sinh sớm từ ngày 108 trở lại thường rất khó nuôi con, dù có sữa nhưng con yếu ớt, sức bú mẹ kém và khả năng đề kháng kém nên tỷ lệ nuôi sống thấp.

Biểu hiện của heo đã mang thai, heo thường nằm sấp, xuất hiện trạng thái phù thũng ở tứ chi, thành bụng. Tuyến vú phát triển to lên, bè ra.

Chăm sóc, thú y

Thường xuyên tắm chải cho nái, xoa bóp bầu vú để mạch máu dễ lưu thông, phát triển tuyến sữa, heo dễ quen người và dễ tiếp xúc khi đỡ đẻ, không tắm chải 5 ngày trước khi đẻ.

Cần tắm ghẻ cho heo 10 - 14 ngày trước ngày dự đẻ. Đây là yêu cầu bắt buộc để đề phòng heo mẹ bị ghẻ lây truyền sang heo con. Trước ngày dự đẻ 14 ngày tắm ghẻ lần 1 và sau đó 7 ngày tắm ghẻ lần 2.

Tiêm phòng định kỳ 1 năm 2 lần (tháng 5 và tháng 10 hoặc trước khi phối giống) các loại vaccine dịch tả, lở mồm long móng… Tuy nhiên không tiêm phòng cho heo nái những loại vaccine trên từ giai đoạn phối giống đến 30 ngày sau phối giống (trừ trường hợp có dịch bệnh xảy ra).

Chuồng nuôi

Chuồng nền hoặc sàn cách đất, đảm bảo chuồng nuôi ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Chuồng cần ánh sáng rọi vào buổi sáng, tránh mưa từ phía Tây và gió bấc lùa vào mùa rét.

Chế độ dinh dưỡng

Dinh dưỡng cho nái thời kỳ này có ảnh hưởng lớn tới heo con, vì vậy, để heo con đạt khối lượng sơ sinh cao cần tăng khoảng 25 - 30% lượng thức ăn cho heo nái chửa.

Giai đoạn I (84 ngày chửa đầu) khối lượng bào thai đạt khoảng 25 - 30%; giai đoạn II (khoảng 30 ngày chửa cuối) bào thai phát triển nhanh, chiếm khoảng 65 - 70% khối lượng heo con sơ sinh. Vì vậy, để heo con đạt khối lượng sơ sinh cao cần tăng khoảng 25 - 30% lượng thức ăn cho heo nái chửa kỳ II. Thông thường, heo nái chửa cần 14% tỷ lệ protein thô, 0,9% tỷ lệ canxi và 0,45% tỷ lệ phốt pho trong khẩu phần ăn. Mùa hè có thể giảm mức ăn nhưng phải tăng lượng protein từ 14 - 16%, nâng mức khoáng và vitamin trong khẩu phần.

Khẩu phần ăn

Trong thời kỳ mang thai, heo nái cần lượng chất khoáng nhiều hơn để phát triển hệ xương của bào thai. Khi khẩu phần ăn của heo mẹ không đủ, sẽ phải huy động nhiều chất khoáng từ cơ thể heo mẹ (đặc biệt là canxi và phốt pho từ xương) để nuôi thai. Vì thế, heo mẹ bị thiếu chất khoáng dễ dẫn tới bại liệt. Tuy nhiên cũng cần tránh vỗ béo heo quá mức trong giai đoạn heo gần sinh.

Giai đoạn I: Cho ăn 1,8 - 2 kg/con/ngày.

Giai đoạn II: 85 - 110 ngày, cho ăn: 2 - 2,5 kg/con/ngày.

Thức ăn đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng, không bị ôi thiu, mốc. Cho ăn đúng giờ để kích thích tính thèm ăn cho nái, khi thay đổi thức ăn phải thay đổi từ từ. Cung cấp đủ nước sạch cho nái.

Mức ăn cho nái chửa còn phụ thuộc vào thể trạng của nái (gầy, béo hay bình thường). Heo nái gầy phải cho ăn tăng, nái quá béo phải giảm thức ăn đã phối trộn nhưng lại tăng thức ăn thô xanh.

Vào mùa đông, khi nhiệt độ trong chuồng nuôi dưới 150C, cần cho heo nái ăn tăng thêm (0,2 - 0,3 kg thức ăn/nái/ngày) để bù vào phần năng lượng mất đi do phải chống lạnh.

Đảm bảo chế độ vận động cho heo nhưng yên tĩnh và không xáo trộn đàn. Chuồng trại thoáng mát, duy trì nhiệt độ 26 - 280C là tốt nhất.

Lưu ý:

Heo chửa quá ngày:

Thời gian mang thai của heo biến động 102 - 128 ngày. Nếu quá thời gian trên, khi đến ngày đẻ nhưng heo vẫn sa nầm sữa, không có biểu hiện cắn ổ, heo vẫn ăn uống tốt, sau đó nầm sữa teo đi, âm hộ trở lại trạng thái bình thường. Khi thấy tình huống này, cần cố định heo nái, dùng ván hoặc cửa gỗ ép heo vào một góc chuồng. Dùng dây buộc miệng trên của heo, kéo treo dây lên hoặc vật heo nằm ngửa để can thiệp. Dùng ống dẫn tinh quản đưa qua cổ tử cung. Thụt từ 3 - 5 lít nước xà phòng 0,1 - 0,2% vào tử cung. Khi bơm hết số nước xà phòng ấn định, dùng tay vỗ mạnh vào mông nái, rút tinh quản ra và thả heo.

Đỡ đẻ 12 - 48 giờ sau đó, nái có biểu hiện cắn tổ đẻ. Đẻ bình thường không cần can thiệp trong quá trình đẻ. Nếu thai bị khô cứng nằm ở tử cung, nếu tử cung đã mở ta thụt tiếp nước xà phòng để tử cung không bó chặt lấy thai và làm trơn đường sinh dục sau đó lôi thai ra. Nếu 2 ngày chưa thấy heo có biểu hiện, có thể tiêm thuốc gây sẩy thai như: Oestrogenum folliculinum với liều 2.000 - 4.000 UI hoặc dùng Hexoestrolum với liều 4.000 - 6.000 UI. Các trường hợp thai bị mềm nhũn, thai bị thối rữa đều thụt được nước xà phòng và nhanh chóng lấy hết thai ra. Sau đó tử cung đã mở có thể tiêm bắp Oxytoxin với liều lượng 10 - 40 UI nhằm tăng cường co bóp của tử cung tống thai đã chết ra ngoài.

Nhận biết heo nái sắp sinh:

Căn cứ vào ngày phối giống có chửa để dự tính ngày đẻ dự kiến. Những biểu hiện của nái sắp sinh như thường đi lại nhiều, bồn chồn đái dắt (tiểu mót), đi phân lắt nhắt nhiều chỗ. Biểu hiện hay cào ổ, cào chân vào nền chuồng, cắn song chuồng hay máng ăn...

 Theo dõi thường xuyên những biểu hiện của heo nái trong toàn bộ quá trình đẻ, nếu có biểu hiện bất thường, phải có biện pháp xử lý ngay.