Cách tính khoảng cách văn hóa
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA TRONG KINH DOANH VÀ ĐƯA RA CHỈ DẪN GIAO TIẾP HIỆU QUẢBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.01 KB, 7 trang ) BÀI TẬP CHƯƠNG 2 42K26 - TOU1001 Nếu chúng ta khám phá văn hoá Việt Nam thông qua ống kính của mô hình 6-D, chúng ta có thể có cái nhìn tổng quan về những động lực sâu xa của văn hoá Việt Nam so với các nền văn hoá thế giới khác. 1. Khoảng cách quyền lực(PD): Số liệu này cho ta thấy thực tế là tất cả các cá nhân trong xã hội không bình đẳng - nó thể hiện thái độ của văn hoá đối với những bất bình đẳng giữa chúng ta. Khoảng cách quyền lực được định nghĩa là mức độ mà các thành viên ít quyền lực hơn của các tổ chức và tổ chức trong một quốc gia mong đợi và chấp nhận quyền lực đó được phân bổ không công bằng. Việt Nam đạt chỉ số cao về phương diện này (đạt 70), có nghĩa là mọi người chấp nhận trật tự có thứ bậc trong đó mọi người đều có một vị trí và không cần phải biện minh thêm nữa. Thứ bậc trong một tổ chức được xem là phản ánh những bất bình đẳng cố hữu, tập trung hóa là phổ biến, cấp dưới mong đợi được nói phải làm gì và ông chủ lý tưởng là một người cai trị nhân từ. Những thách thức đối với lãnh đạo không được đón nhận tốt. 2. Chủ nghĩa cá nhân (IDV): Vấn đề cơ bản được giải quyết bởi khía cạnh này là mức độ phụ thuộc lẫn nhau của một xã hội duy trì giữa các thành viên. Nó liên quan đến việc liệu hình ảnh của con người có được định nghĩa là "Tôi" hay "Chúng tôi". Trong xã hội cá nhân, mọi người chỉ nên chú trọng chăm sóc bản thân và gia đình. Trong xã hội tập thể người ta thuộc về "nhóm" để chăm sóc họ để đổi lấy sự trung thành. Với chỉ số 20, cho ta thấy Việt Nam là một xã hội tập thể. Điều này thể hiện trong một cam kết lâu dài gần gũi với nhóm "thành viên", đó là một gia đình, gia đình mở rộng hoặc các mối quan hệ mở rộng. Sự trung thành trong nền văn hoá tập thể là điều tối quan trọng và vượt qua hầu hết các quy tắc và quy định xã hội khác. Một xã hội như vậy thúc đẩy mối quan hệ mạnh mẽ, nơi mọi người đều có trách nhiệm với các thành viên trong nhóm của họ. Trong xã hội tập thể, hành vi vi phạm dẫn đến sự xấu hổ và mất mặt. Các mối quan hệ giữa người sử dụng lao động / nhân viên được nhìn nhận về mặt đạo đức (như liên kết gia đình), việc thuê và quảng cáo tính đến nhóm làm việc của nhân viên. Quản lý là quản lý của các nhóm. 3. Nam quyền (MAS): Chỉ số cao về nam quyền cho thấy rằng xã hội sẽ được thúc đẩy bởi đối thủ cạnh tranh, 2 BÀI TẬP CHƯƠNG 2 GTKD NGUYỄN HÀN HẠNH ĐOAN 42K26 - TOU1001 thành tích và thành đạt, với sự thành công xác định của người chiến thắng / tốt nhất trong lĩnh vực - một hệ thống giá trị bắt đầu ở trường và tiếp tục trong suốt hành vi tổ chức. Chỉ số thấp về nữ quyền có nghĩa rằng các giá trị chiếm ưu thế trong xã hội là việc chăm sóc cho người khác và chất lượng cuộc sống. Một xã hội nữ quyền là một xã hội có chất lượng cuộc sống có dấu hiệu thành công và đứng ra ngoài đám đông không phải là đáng ngưỡng mộ. Vấn đề cơ bản ở đây là điều thúc đẩy con người, muốn trở thành người đàn ông tốt nhất (nam quyền) hoặc thích những gì bạn làm (nữ quyền) . Việt Nam đạt 40 điểm về chiều hướng này và do đó được coi là một xã hội nữ quyền. Ở các quốc gia nữ giới tập trung vào "làm việc để sống", các nhà quản lý cố gắng để đạt được sự đồng thuận, mọi người đánh giá sự bình đẳng, đoàn kết và chất lượng trong cuộc sống làm việc của họ. Mâu thuẫn được giải quyết bằng cách thỏa hiệp và đàm phán. Các ưu đãi như thời gian rảnh và tính linh hoạt được ưa chuộng. Tập trung vào tình trạng tốt, trạng thái không được hiển thị. Người quản lý hiệu quả là người hỗ trợ, và việc ra quyết định được thực hiện thông qua sự tham gia. 4. Tránh xa những điều không chắc chắn (UAI): Khuynh hướng tránh xa những điều không chắc chắn liên quan đến cách mà xã hội đề cập đến thực tế là tương lai không bao giờ có thể được biết đến: liệu chúng ta có nên kiểm soát tương lai hay chỉ để cho nó xảy ra? Sự mơ hồ này mang lại cho nó sự lo lắng và các nền văn hoá khác nhau đã học để đối phó với sự lo lắng này theo những cách khác nhau. Mức độ mà các thành viên của một nền văn hoá cảm thấy bị đe dọa bởi các tình huống mơ hồ hoặc không biết đã tạo ra niềm tin và các tổ chức cố gắng tránh những điều này được phản ánh trong điểm số về Tránh sự không chắc chắn. Việt Nam đạt điểm 30 về chiều hướng này và do đó có ít ưu tiên hơn để tránh sự không chắc chắn. Các xã hội có UAI thấp duy trì một thái độ thoải mái hơn, trong đó thực tiễn đếm nhiều hơn các nguyên tắc và sự lệch khỏi tiêu chuẩn được dễ dàng dung thứ hơn. Trong các xã hội có UAI thấp, mọi người tin rằng không cần phải có nhiều quy tắc hơn mức cần thiết và nếu chúng mơ hồ hoặc không hoạt động, chúng nên bị bỏ rơi hoặc thay đổi. Lịch làm việc linh hoạt, công việc khó khăn được thực hiện khi cần thiết nhưng không vì mục đích của chính nó, chính xác và đúng giờ không đến một cách tự nhiên, sự đổi mới không bị coi là đe dọa. 5. Định hướng lâu dài (LTO): 3 BÀI TẬP CHƯƠNG 2 GTKD NGUYỄN HÀN HẠNH ĐOAN 42K26 - TOU1001 Khía cạnh này mô tả cách mọi xã hội phải duy trì một số mối liên hệ với quá khứ của chính mình trong khi đương đầu với những thách thức của hiện tại và tương lai , và các xã hội ưu tiên hai mục đích hiện tại khác nhau. Xã hội tiêu chuẩn. ví dụ như, muốn duy trì các truyền thống và các chuẩn mực theo thời gian trong khi thế giới luôn thay đổi. Mặt khác, những xã hội có nền văn minh thường có điểm số cao, có một cách tiếp cận thực tế hơn: họ khuyến khích tiết kiệm và nỗ lực trong giáo dục hiện đại như là một cách để chuẩn bị cho tương lai. Việt Nam đạt điểm 57, có thể định nghĩa rằng Việt Nam là một nước khá thực tế. Trong các xã hội có định hướng thực tế, người ta tin rằng sự thật phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh, bối cảnh và thời gian. Họ cho thấy khả năng thích ứng với truyền thống một cách dễ dàng để thay đổi điều kiện, một xu hướng mạnh mẽ để tiết kiệm và đầu tư, sự tiết kiệm và kiên trì để đạt được kết quả. 6. Mức độ tự thoả mãn (Indulgence): Một thách thức mà con người phải đối mặt hiện nay và trong quá khứ là mức độ xã hội hóa trẻ nhỏ. Nếu không có xã hội hoá chúng ta không trở thành "con người". Mức độ tự thoả mãn (Indulgence) là sự cho phép của xã hội trong việc tự thỏa mãn một cách tự do các nhu cầu cơ bản và tự nhiên của con người, ví dụ như hưởng thụ cuộc sống. Đối lập với tự thoả mãn chính là khái niệm tự kiềm chế lại thể hiện sự kiểm soát của xã hội, bởi những định kiến, chuẩn mực nghiêm ngặt, trong việc hưởng thụ của cá nhân. Việt Nam đạt 35 điểm về giá trị văn hoá này, đặc trưng là văn hóa Kiềm chế. Trong xã hội có chỉ số thấp, họ thường có khuyng hướng hoài nghi và bi quan nhiều hơn. Ngoài ra, trái ngược với xã hội thỏa mãn, các xã hội kiềm chế không chú trọng nhiều vào thời gian rảnh rỗi và kiểm soát sự hài lòng của những ham muốn của họ. Những người có định hướng này có nhận thức rằng các hành động của họ bị hạn chế bởi các quy tắc xã hội và cảm thấy rằng mình cảm thấy mình hơi sai. Điểm của các quốc gia được đánh dấu (*) - một phần hoặc toàn bộ - không phải từ Geert Hofstede nhưng đã được thêm vào thông qua các dự án nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác hoặc đã được bắt nguồn từ dữ liệu đại diện cho các quốc gia tương tự kết hợp với kinh nghiệm của chúng tôi. Đối với các điểm chính thức kiểm tra các sách của Hofstede hoặc trang web cá nhân của ông 4 BÀI TẬP CHƯƠNG 2 GTKD NGUYỄN HÀN HẠNH ĐOAN 42K26 - TOU1001 Yêu cầu 2: Khi so sánh về 6 đặc điểm trong mô hình 6-D giữa Việt Nam và Nhật Bản, ta có thể thấy những nét tương đồng cũng như khác biệt giữa nền văn hóa hai nước: Hình 2. Biểu đồ so sánh các giá trị đặc điểm Việt-Nhật Thứ nhất, Khoảng cách quyền lực (Power Distance): Theo biểu đồ trên ta nhận thấy, khoảng cách quyền lực ở Nhật Bản là khá thấp (54 điểm). Đây là một con số trung bình. Trong khi con số này lại khá cao ở Việt Nam (70 điểm). Sự chấp nhận trật tự có thứ bậc trong xã hội là điểm giống nhau giữa văn hoá Việt Nam và Nhật Bản. Do đó, cơ cấu các tổ chức ở hai quốc gia này đều được thiết lập theo chiều dọc, vị trí càng cao thì quyền lực càng lớn. Tuy nhiên khoảng cách quyền lực ở Việt Nam và Nhật Bản vẫn có vài điểm khác biệt lớn. Thông thường, các tổ chức ở Việt Nam đều mang tính tập quyền và nhân viên mong đợi nhiệm vụ, công việc từ cấp trên. Trong khi đó ở Nhật Bản, mọi người đều được giáo dục rằng mọi người đều bình đẳng, cơ hội dành cho mỗi người là như nhau, chỉ cần bạn làm việc chăm chỉ, làm tốt công việc thì bạn sẽ được tăng chức và quyền lực của bạn sẽ được nâng lên. Đó là lí do khiến cho điểm số khoảng cách quyền lực (Power Distance) ở Nhật Bản lại thấp hơn so với Việt Nam 16 điểm. Thứ hai, Chủ nghĩa cá nhân (Individualism): Trong khi chủ nghĩa cá nhân được đề cao ở phương Tây thì ở Nhật sự tự khẳng định cá nhân dưới bất kỳ hình thức nào cũng không được khuyến khích. Thông qua câu tục ngữ trứ danh ở Nhật Cây đinh nào ló lên sẽ bị đóng xuống thì ta phần nào có thể hiểu rõ hơn về thái độ của người Nhật đối với chủ nghĩa cá nhân. Bản tính của người Nhật không 5 BÀI TẬP CHƯƠNG 2 GTKD NGUYỄN HÀN HẠNH ĐOAN 42K26 - TOU1001 thích sự đối kháng. Để tránh sự mâu thuẫn họ luôn tìm cách tạo ra sự đồng thuận và nhất trí. Hơn nữa người Nhật còn đề cao lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, ưu tiên việc duy trì sự hoà hợp trong mối quan hệ giữa người với người. Đó là lí do Nhật Bản đạt số điểm dưới mức trung bình về chủ nghĩa cá nhân (Individualism): 46 điểm, cao hơn Việt Nam 26 điểm. Như vậy có thể kết luận: Sự đề cao chủ nghĩa tập thể là điểm tương đồng văn hoá Việt - Nhật. Thứ ba, Nam quyền (Masculinity): Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một trong các quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai trò của nam và nữ đã được phân định rõ ràng. Có sự bất bình đẳng giới song xã hội Nhật thừa nhận điều đó. Từ xa xưa, xã hội Nhật Bản lấy nam giới làm trung tâm, cách thức làm việc kiểu Nhật được mô phỏng theo hình ảnh của lao động nam đã kết hôn với một người nội trợ toàn thời gian. Vì người Nhật cho rằng nam giới đáp ứng được yêu cầu của công ty, có khả năng làm việc một cách linh hoạt hơn so với nữ giới (có khả năng làm việc trong thời gian dài, làm thêm giờ đột xuất, làm việc trong ngày nghỉ, đi công tác và điều chuyển) nên nam giới được ưu tiên hơn trong cơ hội việc làm trong khi đó phụ nữ phải đảm nhận tất cả các công việc nhà và nhiệm vụ chăm sóc con cái. Với điểm số 95 về tiêu chí Nam quyền, ta có quyền khẳng định Nhật Bản là một quốc gia tôn vinh nam quyền. Ở Việt Nam thì con số này nhỏ hơn nhiều (40 điểm). Đây là sự khác biệt giữa hai nền văn hoá: Nhật Bản xã hội coi trọng nam quyền và Việt Nam xã hội tôn vinh nữ quyền và sự bình đẳng giới. Thứ tư, Mức độ phòng tránh rủi ro (Uncertainly Avoidance): Với điểm số 92, Nhật Bản được đánh giá là một quốc gia có mức độ phòng tránh sự không chắc chắn cao nhất thế giới. Trong khi Việt Nam đạt 30 điểm về tiêu chí này (thấp hơn Nhật bản 62 điểm). Nguyên nhân để lí giải tại sao Nhật Bản có mức độ phòng tránh rủi ro cao như thế là vì Nhật Bản phải hứng chịu nhiều trận động đất, sóng thần, các cơn bão, sự phun trào núi lửa. Trong những trường hợp này, người Nhật học cách phòng tránh và đối phó mọi tình huống không chắc chắn. Điều này không chỉ hữu ích đối với việc phòng ngừa thiên tai bất ngờ mà còn đối với mọi khía cạnh khác của xã hội, chẳng hạn như kinh doanh... Thứ năm, Định hướng dài hạn (Long Term Orientation): Nhật Bản là một trong những quốc gia có định hướng dài hạn nhất. Người Nhật muốn duy trì các giá trị truyền thống, chuẩn mực theo thời gian trong khi xem xét sự thay đổi của xã hội với sự nghi ngờ. Họ khuyến khích tiết kiệm và nỗ lực trong giáo dục hiện đại 6 BÀI TẬP CHƯƠNG 2 GTKD NGUYỄN HÀN HẠNH ĐOAN 42K26 - TOU1001 như là một cách chuẩn bị cho tương lai. Trong kinh doanh, người Nhật có định hướng dài hạn về tỷ lệ đầu tư R&D liên tục trong thời điểm khó khăn về kinh tế, tỷ lệ vốn đầu tư cao hơn, ưu tiên tăng trưởng thị phần ổn định chứ không phải lợi nhuận hàng quýTất cả chỉ nhằm đáp ứng độ bền vững của công ty. Từ những phân tích trên, ta có thể giải thích nguồn gốc điểm số 88 về tiêu chí Định hướng dài hạn (Long Term Orientation) của Nhật Bản. Định hướng dài hạn là một yếu tố hết sức quan trọng đối với những quốc gia đang phát triển ở Việt Nam, song Việt Nam lại kém Nhật Bản 31 điểm về tiêu chí này (đạt 57 điểm). Cuối cùng, Mức độ tự thoả mãn (Indulgence): Theo biểu đồ so sánh về các giá trị văn hoá (mô hình Hostede) ta nhận thấy, Nhật Bản đạt 42 điểm về giá trị Tự thoả mãn. Đây là một mức điểm không cao. Song có thể thấy giữa Việt Nam và Nhật Bản có sự tương đồng về giá trị văn hoá Tự thoả mãn. Vì cả hai quốc gia đều thuộc nền văn hoá mang tính kiềm chế. Việt Nam đạt 35 điểm về giá trị văn hoá này (thấp hơn Nhật Bản 7 điểm). Nền văn hoá mang tính kiềm chế thường không chú trọng vào thời gian nhàn rỗi và thường kiểm soát sự hài lòng cũng như ham muốn của con người bằng các quy tắc xã hội, chuẩn mực chung...Do đó trong xã hội Nhật Bản và Việt Nam, con người bị hạn chế trong việc tự kiểm soát cuộc sống và động lực của mình, họ thường có khuynh hướng hoài nghi và bi quan nhiều hơn. 7 |