Đánh giá văn học lãng mạn là gì

  • Trang chủ
  • Môn học
  • Ngữ văn
  • Chuyên đề

15/04/2021

Văn xuôi lãng mạn 1930 - 1945 với hai tác giả tiêu biểu trong chương trình THPT: Thạch Lam và Nguyễn Tuân [Nguyễn Thị Vân]

PHẦN MỞ ĐẦU   1. Lý do chọn đề tài: - Đối với giáo viên: Lòng yêu thích đối với hai tác giả văn học: Thạch Lam, Nguyễn Tuân và các tác phẩm của ông; Mong muốn rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng HS giỏi. - Đối với học sinh: Sự cần thiết phải trang bị, mở rộng sự hiểu biết đối với hai tác giả quan trọng trong chương trình THPT; Rèn luyện kĩ năng phân tích, làm bài với những đề bài, chuyên đề liên quan. 2. Cơ sở lí luận: - Kiến thức văn học sử về văn học Việt Nam hiện đại, tác gia trong nhà trường THPT. - Trào lưu văn học, khuynh hướng sáng tác - Đặc trưng thể loại truyện ngắn, nghệ thuật truyện ngắn. - Phong cách và cá tính sáng tạo của nhà văn. 3. Cơ sở thực tiễn: Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai gương mặt khá tiêu biểu, có phong cách riêng độc đáo trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945. Tác phẩm của hai ông có vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc và đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT: Hai đứa trẻ [Thạch Lam], Chữ người tử tù [Nguyễn Tuân]. 4. Mục đích nghiên cứu: - Đối với giáo viên: Nâng cao hiểu biết và luyện tập khả năng nghiên cứu chuyên sâu các chuyên đề khoa học ngữ văn. - Đối với học sinh: Giúp học sinh có những hiểu biết hệ thống và chuyên sâu về các nội dung chuyên đề đề cập tới; Nắm chắc các dạng đề liên quan và thông thạo cách xử lý đề bài liên quan: Cung cấp nguồn tư liệu để làm phong phú bài làm của học sinh, rèn luyện cách diễn đạt; Bước đầu biết vận dụng kiến thức và phương pháp để làm các đề tài nghiên cứu khoa học   PHẦN NỘI DUNG   A. Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945: I. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn hoá: Nằm trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta [1858- 1945], tức là giai đoạn hình thành và tồn tại của chế độ thực dân nửa phong kiến, lịch sử xã hội và văn hoá Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc. Đây là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, đế quốc Pháp và phát xít Nhật ráo riết thực hiện các chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế, đầu độc về văn hoá. Năm 1930 cũng là thời điểm ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương và những chặng đường phát triển của cách mạng dân tộc dân chủ cũng có tác động nhiều mặt tới đời sống chính trị xã hội lúc bấy giờ. Từ đó dẫn đến những cuộc tranh đấu trên lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, những tác động qua lại vô cùng phức tạp của các khuynh hướng và phương pháp sáng tác khác nhau. Hệ tư tưởng tư sản cấu kết với hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời, đối lập với chúng là hệ tư tưởng vô sản cùng những khát vọng dân tộc dân chủ của các tầng lớp nông dân, tiểu tư sản thành thị yêu nước. Về văn hóa, những luồng văn hóa phương Tây ngày càng tác động một cách toàn diện sâu sắc đến đời sống xã hội Việt Nam, chế độ học hành thi cử bằng chữ Hán bị xoá bỏ, chữ Hán và Nho giáo dần mất đi địa vị độc tôn. Trong giai đoạn này, báo chí và hoạt động xuất bản ngày càng rầm rộ, chữ quốc ngữ khẳng định được vị thế của mình, đó chính là những điều kiện quan trọng để hiện đại hoá văn học. II. Sự vận động của văn học theo tiến trình hiện đại hoá: Riêng trong lĩnh vực văn học, hiện thực nóng bỏng chính là mảnh đất để văn học phát triển phong phú, trong đó diễn ra cuộc đấu tranh, đồng thời cũng là sự tác động qua lại giữa các nền văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán, văn học lãng mạn tiến bộ [không phát triển thành một dòng chảy liên tục] và văn học lãng mạn tiêu cực, bảo thủ, trộn lẫn với các khuynh hướng văn học suy đồi khác. Hiện đại hoá là quá trình văn học thoát ra khỏi những quan điểm thẩm mĩ và hệ thống thi pháp của văn học trung đại tồn tại suốt lịch sử xã hội phong kiến để ngày càng hoà nhập vào quỹ đạo phát triển chung của văn học thế giới. Hiện đại hoá là quy luật tất yếu, là sự vận động tự thân của nền văn học, là sự nhảy vọt về chất chứ không chỉ đơn thuần là sự biến đổi về lượng. Hiện đại hoá đem lại những thành tựu to lớn, trước hết thay đổi quan niệm về chức năng, đối tượng của văn học, nếu như văn học trung đại chức năng chủ yếu là "văn dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí" thì văn học hiện đại có vai trò khám phá, phản ánh thế giới khách quan đời sống xã hội đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần của cá nhân con người. Đội ngũ nhà văn cũng trở nên chuyên nghiệp với phần đa là các trí thức tây học. Hệ thống thể loại trở nên đa dạng phong phú chưa từng có với thơ, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, phóng sự, bút kí, tuỳ bút, kịch nói, nghiên cứu phê bình lí luận văn học… Đặc biệt, hệ thống thi pháp đã hoàn toàn thay đổi, cả quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các hình thức biểu hiện… Thời kỳ văn học 1930 - 1945 là thời kỳ quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc được hoàn tất, mọi khuynh hướng văn học đều phát triển, mọi thể loại đều có thành tựu đỉnh cao, đạt đến sự kết tinh rực rỡ. II. Trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945: Văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện như một trào lưu trong thời kỳ 1932 - 1945, bắt đầu với nhóm Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới. Cơ sở xã hội hình thành khuynh hướng này là sự xuất hiện của các tầng lớp, giai cấp mới, lớp người này có đời sống tâm lí, tình cảm đa dạng phức tạp, ý thức cá nhân và tự do cá nhân nảy nở, chống lại những lễ giáo phong kiến để khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc, đây chính là những biểu hiện của hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi lập thành trường phái và có tuyên ngôn nghệ thuật riêng, chúng ta chỉ có thể thấy được những quan niệm thẩm mỹ của họ thông qua một số tác phẩm và lời phát biểu trong tranh luận nghệ thuật, ở đó có thể nhận thấy sự ảnh hưởng rõ nét của tư tưởng văn học lãng mạn phương Tây. Đặc trưng thẩm mĩ chủ yếu là sự bất hoà với hiện tại, quay lưng với xã hội đương thời, từ đó nhà văn, nhà thơ lãng mạn đi sâu vào thế giới tinh thần của chính mình, hoặc đi vào đề tài tình yêu tự do, chống lễ giaó phong kiến, hoặc tìm đến thế giới thiên nhiên trong sạch để giải toả tâm hồn, hoặc thoát li đến chốn bồng lai, tìm về quá khứ, say sưa cuộc sống hưởng thụ, truỵ lạc. Trào lưu văn học này có rất nhiểu tác phẩm lãng mạn tiến bộ, nhiều tác giả ưu tú, song nhìn chung, sự phát triển của nó rốt cuộc ngày càng đi vào con đường bế tắc. Hai dòng chủ đạo của trào lưu này là thơ ca với phong trào Thơ mới và văn xuôi với nhóm Tự lực văn đoàn. Phong trào Thơ mới đã nói lên được những nhu cầu của cá nhân với cái tôi muốn tự do đòi giải phóng, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có một cái tôi cá thể hoá trong cách cảm thụ thế giới và thiên nhiên. Cũng là lần đầu trong một khoảng thời gian ngắn ngủi xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến như vậy. Cũng như Thơ mới, văn xuôi lãng mạn góp phần đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, tự do hôn nhân, hạnh phúc lứa đôi, phê phán kịch liệt đại gia đình phong kiến. Văn học lãng mạn VN là tiếng nói của tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức thành thị đã thoát li phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, con đường văn chương lúc bấy giờ, đối với một số tiểu tư sản trí thức là một lối thoát li trong sạch, một nơi có thể gửi gắm tâm sự yêu nước thầm kín. Chủ nghĩa lãng mạn VN 1930 - 1945 mang những ảnh hưởng từ nhiều trường phái khác nhau của phương Tây, đặc biệt là của Pháp. Trào lưu này đã góp phần rất quan trọng trong việc đưa văn học VN tiến thẳng vào thời kì hiện đại với các thể thơ linh hoạt, cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, ngôn ngữ giàu hình tượng…; các thể văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết có kết cấu và cốt truyện chặt chẽ, lối kể chuyện hấp dẫn, nghệ thuật mỉêu tả tinh tế nội tâm nhân vật…     III. Tự lực văn đoàn [1933-1942]: Ra đời năm 1933 với tôn chỉ  giải  phong tự do cá nhân, không khoan nhượng với lễ giaó phong kiến, dùng một lối văn dễ hiểu, gần gũi, bình dân; Tự lực văn đoàn có sự góp mặt của rất nhiều tên tuổi trên văn đàn thời bấy giờ: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam… mỗi nhà văn này đều có những nét phong cách riêng, đặc biệt là Thạch Lam đi theo một hướng khu biệt hẳn với những văn sĩ khác. Trong phạm trù ý thức hệ tư sản, Tự lực văn đoàn đã nói lên những khát vọng dân tộc dân chủ của đông đảo quần chúng, chủ yếu là của các tầng lớp tiểu tư sản trí thức và viên chức thành thị. Tự lực văn đoàn không đặt vấn đề giải phóng xã hội nhưng đã đấu tranh giải phóng cá nhân, bản ngã, tự do hôn nhân, quyền sống người phụ nữ, chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Về mặt đổi mới nghệ thuật,  TLVĐ đã kết hợp được khá nhuần nhị truyền thống  với hiện đại, Đông và Tây, ngôn ngữ văn học trở nên giản dị, trong sáng, giàu khả năng diễn đạt hơn và rất gần gũi với tâm hồn dân tộc. Các tác phẩm tiêu biểu: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Thoát ly, Con đường sáng, Gió đầu mùa… Nửa chừng xuân [Khái Hưng] tấn công vào đại gia đình phong kiến, tố cáo bọn quan lại trọc phú ở nông thôn, tố cáo tính chất ích kỷ, tàn nhẫn, chà đạp lên hạnh phúc con người  của lễ giáo phong kiến. Đoạn tuyệt [Nhất Linh] cũng viết về cuộc đấu tranh giữa cá nhân và đại gia đình phong kiến song tính chất quyết liệt hơn Nửa chừng xuân. Tiểu thuyết này thành công nhất ở những chương miêu tả cuộc xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa mẹ chồng và nàng dâu, những chương tố cáo mạnh mẽ các tập quán cổ hủ trong gia đình bà Phán, cách đối xử tàn nhẫn, chà đạp lên con người của những kẻ đại diện cho lễ giáo cũ. ………                                     B. Thạch Lam I. Tiểu sử và con người, sự nghiệp sáng tác: 1. Tiểu sử: Thạch Lam [1910 -1942] [còn có bút danh là Việt Sinh] tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, tới năm 15 tuổi mới đổi là Nguyễn Tường Lân. Ông sinh tại Thái Hà ấp, Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại, là con đẻ của dòng họ Nguyễn Tường, dòng họ ghi dấu ấn khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam về mặt chính trị, văn hoá; ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo - hai cây bút có vị trí của Tự lực văn đoàn. Như vậy, truyền thống gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách, văn chương TL. Thuở nhỏ, ông sống ở quê ngoại Cẩm Giàng, một thị trấn nhỏ với không gian phố huyện đặc trưng đã ăn sâu vào tiềm thức nhà văn và sau này trở thành không gian chủ đạo bao trùm toàn bộ tác phẩm Thạch Lam. Gia đình sớm sa sút, ông và bố TL mất, người mẹ vốn dòng dõi đài các phải lăn lộn làm hàng xáo kiếm sống, nuôi các con; khi đó anh trai Nhất Linh đang du học Pháp, TL phải bỏ học gần một năm cùng chị Thế trông hàng cho mẹ. Năm 1929, Nhất Linh về nước, TL lại tiếp tục đi học. Nhất Linh cùng Khái Hưng thành lập ra Tự lực văn đoàn, kéo hai em Hoàng Đạo, TL cùng tham gia, TL sau khi đỗ Tú tài lần thứ nhất thì bỏ học và chuyển sang làm báo kiêm quản lí NXB Đời nay, biên tập cho các  tờ  tuần  báo  Phong hoá , Ngày  nay; ông là người rất mực chịu khó, ham học và uyên bác. Sáng tác của TL hầu hết là truyện ngắn, bút kí, tiểu thuyết, tiểu luận…Thời gian đó ông làm việc ở Quán Thánh, có mua một ngôi nhà ở trước Hồ Tây, trước nhà có một cây liễu xanh rủ bóng. Nhà văn đặc biệt yêu quý cây liễu này và chăm sóc nó rất chu đáo, người ta cho rằng liễu chính là biểu tượng cho khí chất, tâm tính TL, giữa tâm hồn TL và thứ cây "kì  hoa dị  thảo " này có một sự tương giao nào đó: cùng mềm mại, đằm thắm, tinh tế, dịu dàng. " T©y hå cã danh sü Nhµ th× cã nhµ tranh Cöa tróc cµi phªn giã Tr­íc thÒm bãng liÔu xanh" Trong văn TL có rất nhiều bóng cây, có lẽ đều là những biến thể khác nhau của cây liễu yểu điệu nhẹ nhàng thâm u. Đưòng tình ái của TL không có gì đặc biệt, ông thuộc kiểu con người đạo đức, tiết chế bản thân, sống chừng mực, âm thầm. Từ năm 1940 ông bị bệnh lao và mất ngày 28 tháng 6 năm 1942 tại nhà riêng như đã nói ở trên trong cảnh đơn sơ, thanh bạch. Tóm lại, cuộc đời TL là một chứng minh cho thuyết định mệnh của những người tài hoa. Có một mẩu hồi ức kể rằng sinh thời TL thích ngồi hàng giờ lặng ngắm cây liễu rủ trước nhà. Tiếc thay, cõi đời ngắn ngủi lại không dành cho ông nhiều thời gian để thụ cảm và chiêm nghiệm, số phận quả thật đắng cay. Nhưng trước khi sinh mệnh đời người quay trọn vòng quay của nó, con người tài hoa ấy đã kịp hoàn tất chân dung văn học của mình, và bằng cách đó ông đã ở lại với thời gian. 2. Con người: Sinh cùng năm với Nguyễn Tuân, nhưng hai số phận, hai con người tài hoa ấy lại hoàn toàn khác biệt, TL chết yểu, NT sống khá thọ, TL khiêm cung, NT ngông nghênh kiêu bạc, TL ưa vẻ mong manh, tinh tế, NT thích cái góc cạnh, dữ dội, văn TL mượt mà, đằm sâu, văn NT cồng kềnh, sắc sảo. Con ngưòi TL vốn khiêm cung, ít nói, thường sống thiên về nội tâm, thâm giao [không quảng giao]. Ông sống duy lí, thường tư duy không mệt mỏi về những vấn đề trừu tượng, có thiên hướng triết học sâu sắc. Nhưng ông cũng là kẻ duy cảm điển hình khi lắng nghe, theo đuổi, nắm bắt những cảm giác, cảm xúc bên trong của chính mình, đây lại là biểu hiện của thiên hướng nghệ sĩ đa sầu đa cảm. Ở TL còn có lòng nhân ái kỳ lạ tới mức bệnh hoạn. Hồi ký Vũ Bằng kể lại rằng tiếng khóc có tác động cực mạnh tới hệ thần kinh người nghệ sĩ, ông có một tình thương kỳ lạ, một tâm hồn kì lạ, như thể được kết từ những sợ tơ rất mong manh, có thể cảm nhận được nét rung rinh của tạo vật, nắm bắt được cái mơ hổ, hư thoảng của làn hương, của ánh sáng, nhạy cảm vô cùng trước những nỗi nỗi buồn vu vơ hay nỗi sầu nhân thế… 3. Sự nghiệp sáng tác: TL để lại những tác phẩm: Gió đầu mùa [tập truyện], Nắng trong vườn [tập truyện], Ngày mới [truyện dài], Theo giòng [tiểu luận phê bình], Sợi tóc [tập truyện], Hà Nội băm sáu phố phường [tuỳ bút]. Thạch Lam là người chắt chiu cái đẹp và sáng tác của ông là sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất, song tuyệt đối ông không phải một nhà văn thoát li, trong sáng tác của ông nảy nở tràn đầy mối đồng cảm sẻ chia, lòng trắc ẩn với cuộc sống và những người lao động nghèo khổ. II. Quan điểm, tư tưởng sáng tác và phong cách sáng tác Thạch Lam: 1. Quan điểm, tư tưởng sáng tác: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn." Lời phát biểu đó trong tiểu luận Theo giòng có thể coi là quan điểm sáng tác của nhà nghệ sĩ TL. Ông vừa phản bác lại khuynh hưóng thoát li, quên đời phổ biến trong văn học cùng thời, vừa khẳng định vai trò cải tạo xã hội, vai trò thanh lọc tâm hồn con người của văn chương. Theo đó, văn chương chính là thứ vũ khí chân chính để người nghệ sĩ tác động vào thế giới. Là một trong số những nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn, song sáng tác TL mang đậm quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Đối với người nghệ sĩ cái đích cần khám phá là bí mật của tâm hồn con người, tâm hồn chính là đích đến cuối cùng của ngòi bút TL. Về tư tưởng sáng tác của TL, trước hết đó là niềm trắc ẩn mênh mông, thấm thía dành cho những con người bất hạnh mà thanh cao trên mảnh đất nhọc nhằn này. Trắc ẩn [Trắc: cảm thương, ẩn: sâu kín] là niềm cảm thương chân thành sâu xa nhất của con người dành cho đồng loại, là nhân tính đầu tiên và cuối cùng của con người thuộc phạm trù chủ nghĩa nhân đạo. So với rất nhiều nhà văn cùng thời,  TL đã vượt lên trên những thiên kiến của giai cấp và dân tộc để hướng tới tâm hồn và số phận con người với tấm lòng nhân hậu thiết tha. Ông là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, viết về nỗi khổ của những kiếp người bé mọn, bất hạnh, những nạn nhân của cuộc đời, bị cuộc đời đầy ải, nạn nhân của số phận, nạn nhân của chính mình. Âm vang những sáng tác của TL là tiếng nói bênh vực con người, khẳng định giá trị con người. Hình tượng tác giả [thông qua nhân vật xưng tôi hay nhân vật người kể chuyện đằng sau các câu chuyện] trong truyện ngắn TL luôn hiện lên là con người có cái nhìn đầy trân trọng, trìu mến xót xa. 2. Phong cách Thạch Lam: Phong cách được hiểu là những sắc thái riêng đặc sắc của cá nhân được thể hiện trong sáng tạo của nhà văn. Những sắc thái riêng đó phải được lặp lại ổn định, có tính hệ thống. Tạo nên phong cách nhà văn bao gồm nhiều yếu tố có mối quan hệ với nhau, trong đó có yếu tố hạt nhân. Phong cách có sự vận động theo thời gian. Phong cách nghệ thuật của TL là sự hoà giải giữa hiện thực và lãng mạn, giữa thơ và văn xuôi, kết tinh thành truyện ngắn trữ tình: tự sự nhưng đầy chất thơ. Hòa giải được xem là một dạng đặc biệt của trung gian, hoà giải tức là có ý thức dung hoà các đối tượng khác nhau, thường là đối lập, chẳng hạn kịch thơ là dạng trung gian hoà giải giữa thơ và kịch, truyện thơ là dấu nối giữa thơ và truyện… TL vốn là một thành viên của Tự lực văn đoàn, một nhóm nghệ sĩ chủ trương khuynh hướng lãng mạn, trên bề mặt, tác phẩm TL thuộc chủ nghĩa tình cảm, một nhánh của văn học lãng mạn, song ở bề sâu, truyện ngắn của ông lại rất giàu tính hiện thực [Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Đói, Tối ba mươi…]. Có thể khẳng định TL là cây bút lãng mạn giàu chất hiện thực, thực tại trong truyện ngắn TL đã được tâm trạng hoá, thực taị được mô tả theo ý muốn chủ quan của tác giả. TL đã được coi như là một trường hợp điển hình và hiếm hoi cho chủ nghĩa tình cảm trong văn học. Truyện ngắn TL chủ yếu là truyện ngắn trữ tình, ở đó có sự hoà kết giữa yếu tố tự sự và chất thơ sâu lắng. Trong tác phẩm của mình, TL thường đặt nhân vật vào những tình huống tâm trạng [không phải tình huống hành động, tình huống nhận thức], tức là những sự kiện đặc biệt của đời sống gây nên những biến đổi trong thế giới tình cảm của con người [Đêm ba mươi, Người đàm, Đứa con đầu lòng…]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL là những con người bình thường, có ngoại hình mờ nhạt, số phận không sắc nét [bởi nhân vật chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn, không gian hẹp, như một lát cắt của đời sống thu vào muôn vàn xúc cảm trạng thái bên trong], tính cách cũng có phần hư ảo; chỉ có đời sống duy cảm, nội tâm là sinh động với những cung bậc của cảm giác, cảm xúc, biến thái tâm trạng…Hành động chủ yếu của nhân vật là nghe, lắng nghe sự tác động của ngoại giới, lắng nghe những vận động hết sức mong manh mơ hồ trong tinh thần; nhân vật của TL dường như đều có cốt cách nghệ sĩ, đều đắm chìm vào cảm xúc, còn TL thì trút tâm hồn mình vào nhân vật [Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ…]. Giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm TL là giọng cảm thương với hai sắc thái: Trìu mến, trân trọng và xót xa. Ngôn ngữ TL đầy chất thơ với bảng từ vựng nghiêng về tình cảm, cảm xúc, động từ ít hơn tính từ và động từ gồm nhiều từ chỉ những động thái mơ hồ, mong manh. Lời văn có sự đắp đổi nhịp nhàng về thanh điệu, thanh bằng lấn át thanh trắc, các vế câu có sự hô ứng về thanh điệu. Văn TL lại giàu nhịp điệu, có sức truyền tải cảm xúc thấm thía.     3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL chủ yếu là những người trí thức tiểu tư sản nghèo và những người dân nghèo. Thạch Lam không thi vị hoá hình tượng người tri thức tiểu tư sản như các nhà văn lãng mạn cùng thời, nhân vật của ông chân thực và gần gũi, thường được đặt trong những khó khăn, trở ngại, thậm chí cực cùng tuyệt vọng: Đói, Người bạn trẻ, Cái chân què…Ông không miêu tả nhân vật của mình trong quá trình tâm lí mà chỉ đặt nhân vật vào một cảnh ngộ, một tình thế để bộc lộ một nét tâm lí, một khoảnh khắc tâm trạng. Thông thường, đó là những kiểu nhân vật bị tổn thương trước cuộc sống và giải quyết bằng bế tắc. Thạch Lam viết về những người lao động nghèo khổ với lòng cảm thương sâu sắc, đó là người nông dân lam lũ nơi đồng ruộng, người phải sống kiếp làm than của phố thị, bà mẹ nghèo ở xóm chợ, gia đình người phu xe cùng khổ chốn ngoại ô… Ngòi bút Thạch Lam đầy tinh tế và nâng niu khi viết về những vẻ đẹp, những mong ước khát khao của người lao động nghèo. Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được ngòi bút TL rất mực trân trọng, yếu quý. III. Một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam: 1. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ": Tác phẩm rút từ tập Nắng trong vườn, đây là một trong những truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất thể hiện rõ nét tư tưởng và phong cách TL. Có người yêu Cô hàng xén, có người mê Dưới bóng hoàng lan, người khác lại cho Sợi tóc là tuyệt tác của TL… nhưng cùngvới thời gian, càng ngày người ta càng thấy ngôi vị ấy xứng đáng với Hai đứa trẻ hơn. Tác phẩm này bình dị như đời sống mà cũng sâu xa như đời sống! Đề tài truyện viết về cuộc sống người lao động nơi phố huyện nghèo, tập trung vào cảm xúc tâm trạng của nhân vật Liên, một cô gái mới lớn, thông qua đó bộc lộ một cách nhẹ nhàng mà thấm thía xót thương đối với những con người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc nơi phố huyện, đồng thời là niềm đồng cảm, trân trọng với những ước mong khiêm nhường mơ hồ mà tha thiết của họ. Phố huyện trong Hai đứa trẻ có nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng, nơi tuổi thơ TL đã từng trải, nghĩa là một hình ảnh mang vốn sống rất riêng tư. Câu chuyện nhà văn kể với chúng ta cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là những sinh hoạt thường ngày về một chiều tới khuya của một chị một em theo lời mẹ dặn trông coi một gian hàng tạp hoá bé xíu, lãi lời chẳng bao nhiêu, nhưng ngày nào hai đứa trẻ cũng ngồi đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội vụt qua phố huyện rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Trong lúc chờ tàu, hai chị em [chủ yếu là Liên] ngồi ngắm nhìn, lắng nghe khung cảnh nhịp điệu phố huyện diễn ra trước mắt từ lúc chiều tối cho tới tận khuya. Chỉ bấy nhiêu mà tác giả gợi bao xúc cảm trắc ẩn xót xa trong lòng người đọc. Sức lay động chủ yếu của Hai đứa trẻ chủ yếu xuất phát từ bức tranh phố huyện và bức tranh tâm trạng, những rung động sâu xa tinh tế trong tâm hồn nhân vật Liên, nhân vật trữ tình hoá thân của tác giả. Bước vào thế giới Hai đứa trẻ, ta bắt gặp đầu tiên không gian phố huyện nghèo nàn, nhỏ hẹp, văn học 1930 - 1945 hay nói đến những không gian hẹp, chật chội, lãng quên, những tỉnh nhỏ, tỉnh lẻ, phố huyện, ngõ hẻp, ga xép… nhưng ít có miền đất nào thấm thía như cái phố huyện này. Từ bức tranh thiên nhiên từ lúc chiều tà cho tới đêm khuya đến thước phim về đời sống con người diễn ra trong nhịp thời gian ấy, tất cả đều gợi ra vẻ tiêu điều, xơ xác, u sầu, tù đọng. Mở đầu truyện ngắn là khung cảnh chiều tà trong khoảnh khắc hoàng hôn "phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", khung cảnh bình dị, đẹp đẽ quen thuộc ấy vẫn khiến cô gái mới lớn phải ngậm ngùi thảng thốt: "Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru…". Và bỗng dưng cái buồn của cảnh ngày tàn như thấm thía vào tâm hồn chị: "Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao, nhưng chị thây lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Ngày tàn gợi ra tâm trạng u hoài, man mác. Còn chợ tàn gợi sự hiu hắt, xơ xác, tiêu điều. TL chọn ngày chợ phiên, sự chọn lựa đó càng làm rõ nét sự nghèo nàn của chốn quê này. Trên bãi chợ và sân ga hiện ra hình ảnh những cư dân phố huyện, những cư dân kiếm sống ban ngày là những người đi chợ, những đứa trẻ bới rác và chị em Liên. Những người gánh gồng, bán mua sau phiên chợ để lại những rác rưởi toàn những bã mía, vỏ nhãn, vỏ bưởi, vỏ thị… những phế thải thảm hại chứng tỏ cuộc sống nghèo nàn. Họ đi khỏi, lũ trẻ bới rác ùa tới, nhặt nhạnh bòn mót trên đống phế thải tồi tàn, người nọ trông vào kẻ kia mà sống, nhưng chỉ là trông vào vô vọng. Khi những cư dân kiếm sống ban ngày vừa ngập vào bóng tối thì những cư dân ban đêm quanh sân ga từ bóng tối kéo ra. Mẹ con chị Tí có lẽ là những nhân vật điển hình nhất cho cuộc sống lay lắt nơi phố huyện. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre tàn ra sân ga bày hàng nước bán dù biết hầu như chẳng có thể bán được gì. Cuộc sống là một chuỗi ngày cầm cự, cầm chừng trong vô hi vọng. Bác phỏ Siêu lưng vốn có vẻ khá hơn, nhưng nguy cơ cũng đáng sợ hơn, bởi món hàng của bác là một thứ quà xa xỉ ở chốn này. Vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm, não nề. Dễ sợ nhất là bà Thi điên… "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ." Bao quanh họ là những đồ vật tàn, càng khắc đậm thêm gương mặt âm u của phố huyện. Không chỉ miêu tả hiện thực, TL còn thể hiện vòng tuần hoàn tù đọng của hiện thực, tương lai dường như chỉ là sự kéo dài của hiện tại ngán ngẩm. Hai đứa trẻ trong một thế giới già nua, tăm tối, nhọc nhằn! Bóng tối dày đặc nơi phố huyện làm thành bức phông nền đặc quánh đen kịt, dường như chỉ chực xâm chiếm và nuốt chửng những tia sáng yếu ớt nhỏ nhoi nơi đây. Sự tương phản lấn át giữa bóng tối và ánh sáng, lụi tàn và sự sống gieo giắc vào lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi. Càng bị bóp nghẹt bởi bóng tối và sự lụi tàn, dường như nhân vật trong truyện càng thèm khát sự sống và ánh sáng, từng tia sáng, hột sáng nhỏ nhoi đều được phát hiện bằng đôi mắt nhìn đầy trân trọng nâng niu của hai chị em Liên. Hà Nội của quá khứ vời xa cũng là một biến thể của ánh sáng: Hà nội rực rỡ và huyên náo, những cốc nước xanh đỏ… Đoàn tàu cũng là biến thể của ánh sáng và âm thanh vụt qua để lại một vệt sáng rạng rỡ của khát khao hi vọng. Vì thế mà hai đứa trẻ và hết thảy những cư dân ban đêm của phố huyện đều cố đợi chuyến tàu đêm đi qua, một chốc lát thoát khỏi bóng tối và sự tĩnh lặng tịch mịch vây hãm cuộc đời mỏi mòn của họ, một lối thoát trong khoảnh khắc và phần nhiều là bằng tưởng tượng, mong chờ. Bời vì con tàu đi qua đã đem theo nó một thế giới khác hẳn với ao đời bằng phẳng tù đọng nơi phố huyện, một thế giới sáng rực, huyên náo vui vẻ, lấp lánh… Song tuởng tượng, ngắm nhìn, lắng nghe, và cả dư vang… tất cả đều chỉ trong chốc lát, đếm tối và sự im lặng mênh mông lại trở về bao bọc. Thông qua bức tranh phố huyện và diễn biến tâm trạng Liên, nhà văn đã gửi tới một tiếng nói đầy xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh, bế tắc, không hạnh phúc, không ngày mai… đồng thời thấu tỏ lòng cảm thông trân trọng đối với những khát vọng mơ hồ âm thầm mà mãnh liệt của những kiếp người tàn ấy muốn vươn lên thoát khỏi thực tại cuôc sống mình. Về nghệ thuật, đây là một truyện không có cốt truyện, như một bài thơ thấm đẫm xót thương, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn trữ tình TL. 2. Nhà mẹ Lê: Mẹ Lê có một đàn con đông đúc tới 11 đứa, sống trong một phố chợ tồi tàn, mỗi đêm, mẹ con quấn vào nhau ngủ trong một cái ổ rơm, không khác gì một cái ổ chó. Người mẹ đi làm mướn từ tinh                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    sương đến tối mịt để nuôi đàn con. Năm ấy rét mướt, mất mùa, không ai thuê mướn, đàn con mẹ Lê ôm nhau rét run vì đói và lạnh. Mẹ Lê đến nhà ông Bá xin ít gạo, bị chủ xua chó ra cắn, rồi lên cơn sốt, mấy hôm sau thì mất, để lại một đàn con bơ vơ, và những người nghèo khác cảm thấy lo sợ vì "cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ dứt". Đây là truyện ngắn giàu chất hiện thực bậc nhất trong sáng tác của TL, hiện thực đến quá ư đau đớn, phũ phàng. Tác phẩm khiến người đọc thấm thía nỗi xót xa trước thảm cảnh đói nghèo dường như trở thành bi kịch truyền kiếp đầy bế tắc của những kiếp người khốn khổ dưới đáy. Cảm xót thay cho mẹ Lê và đàn con nhỏ, cái sống quá đọa đày cùng cực mà cái chết quá chóng vánh dễ dàng! 3. Gió lạnh đầu mùa: Đây là một câu chuyện bình dị, sáng trong và đầy cảm động. Trong buổi sớm của những cơn gió đầu mùa, hai chị em Sơn xúng xính trong quần áo ấm thì thấy những bạn bè của chúng lại tím tái trong những bộ quần áo rách sờn. Sơn và chị bàn nhau về lấy áo của nhà đem cho bé Hiên là đứa nhỏ nghèo nhất, đang run rẩy trong mảnh áo tả tơi. Tình người được thể hiện sâu sắc thông qua tấm lòng nhân hậu vô tư và sự ngây thơ con trẻ. 4. Dưới bóng hoàng lan: Như phần đa các sáng tác của TL, đây là một truyện không có cốt truyện, cũng không chở một ý tưởng nào rõ rệt. Chàng trai tên Thanh ra tỉnh làm việc, sau hai năm có dịp trở về ngôi nhà cũ,thăm lại mảnh vườn có cây hoàng lan toả bóng, gặp lại người bà hiền hậu và cô hàng xóm dịu dàng. Tất cả vẫn như xưa, trong lành, ấm áp, thân thuộc. Bà chàng mái tóc bạc phơ, còn cô gái xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc buông lơi trên cổ nhỏ. Thanh được ngắm nhìn lại cây hoàng lan thân mộc, lá cành xoè rủ tán, màu hoa có nắng vàng và hương mát thơm, dịu dàng hư thoảng. Bữa cơm có Nga cùng ăn, ấm cúng, thấm đầy những săn sóc âu yếm. Họ dắt nhau ra vườn hái hoàng lan như những ngày xa xưa nào. Sáng hôm sau, Thanh ra đi, nhắn gửi lại lời từ biệt cô gái và biết rằng "Nga sẽ vẫn đợi chàng, nhớ mong chàng như ngày trước". Tất cả chỉ là những cảm xúc rất thơ, rất ngọt ngào trìu mến êm ả trong lành: Hạnh phúc là sự yên tĩnh trong tâm hồn, là được sống hài hoà gắn bó trong tình yêu thương, tình người đằm thắm. 5. Tối ba mươi: Tối ba mươi là khoảnh khắc giao thừa tủi buồn của hai cô gái giang hồ tên là Liên và Huệ. Liên đi mua vội vài món đồ về để cúng tất niên, Huệ ngủ vùi để rồi thức dậy cùng chuẩn bị cho năm mới. Hà thành tối tăm, mưa bụi, nhà săm đã hết khách, chỉ còn chơ vơ hai chị em xa cửa xa nhà. Họ buồn thương cho nhau, họ nhớ về quê hương, tổ tiên, ông bà, nhớ lại những ngày tết nhà quê đầm ấm khi hai người còn ở tuổi thơ trẻ tươi vui vô tư lự. Những thứ nghèo nàn được bày lên ban thờ, và đồ đạc tiều tuỵ, ô uế chung quanh gợi nhắc về đời sống nhục nhằn của họ. Liên và Huệ cùng cố quên đi, cùng cố giấu những ý nghĩ xót xa chua chát, nhưng đến khi bốn bề tiếng pháo cất lên, phút giao thời đã điểm, những giọt nước mắt mà họ cố nén đã trào ra. Truyện ngắn là tấm lòng xót thương của văn sĩ TL hướng tới những phận đời khốn khổ, chẳng tính toan chi đến địa vị thấp hèn và cuộc sống ô nhục của họ. 6. Cô hàng xén: Đó là câu chuyện về cuộc đời tảo tần với bao buồn vui của một cô gái bán hàng xén ở chợ quê - cô Tâm. Mỗi bận đi chợ về, lòng Tâm thấy ấm lại trong cảnh gia đình với bà mẹ già hiền từ cùng lũ em thông minh, ngoan ngoãn và yêu quý chị. Tâm biết mình xinh đẹp, nhiều con trai hay quẩn quanh, chòng ghẹo, nhưng cô ý thức bổn phận mình trước hết phải lo toan cho gia đình. Gánh hàng xén của cô, và những bước chân của cô trên những con đường khắp chợ này chợ kia chính là nguồn nuôi sống cha mẹ già và lũ em thơ dại. Rồi cô lấy chống, lấy cậu giáo Bài nho nhã nhưng nhà nghèo. Trên vai cô lại thêm gánh nặng gia đình chồng. Cô sinh con, và không ai còn nhắc cô hàng xén xinh đẹp của ngày xưa nữa, cô vẫn tần tảo sớm hôm trên những phiên chợ quê. Cảnh nhà túng thiếu khiến cô càng phải thêm cố gắng. Về thăm mẹ, thăm em, thương em thiếu tiền sách vở, cô liền lấy nốt số tiền đóng học cho chồng đưa cho em rồi quay về với tâm trạng lo lắng, nặng nề. "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối." Chẳng phải nơi phố huyện nghèo nàn như trong Hai đứa trẻ, nhưng ở nơi thôn quê nghèo đói này, nhịp sống con người cũng quẩn quanh tù đọng với những lo toan, nhọc nhằn, vất vả như thế. Nhan sắc, hiếu thuận như Tâm cũng không thoát khỏi vòng quay của bánh xe đời mỏi mòn vô hi vọng. Dầu thế, cô vẫn giữ được tình yêu thương đắm thắm và đức hi sinh cao quý với gia đình chồng, gia đình mình… IV. Một số đề luyện tập: 1. Phân tích bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối được TL miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của mình. 2. Vì sao hai chị em Liên [Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của TL] đêm đêm cố thức để đợi chuyến tàu đi qua? Thể hiện tâm trạng đợi tàu của Hai đứa trẻ, tác phẩm muốn nói điều gì với người đọc.? 3. Hai đứa trẻ của TL - Một bài thơ trữ tình đầy xót thương. 4. Hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ 5. Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, khi con tàu đã rời ga phố  huyện, TL viết: "Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thê giới khác hẳn đối với LIên, khác hẳn với vầng sáng ngọ đền chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và im lặng." Phân tích đoạn văn trên, kết hợp vơ ới hiểu biết về tác phẩm Hai đứa trẻ, nêu chủ đề tác phẩm và nhận xét giọng văn của TL. 6. Cảm nhận về vẻ đẹp của tình người và của giọng vưn Thạch Lam trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan. 7. Hai đứa trẻ của TL là một truyện ngắn không có cốt truyện nhưng lại hấp dẫn và gợi lên trong người đọc nhiều suy nghĩ. Theo anh [chị], điều gì đã làm nên sức hấp dẫn của truyện và truyện gợi lên trong lòng người đọc những suy nghĩ gì về những cảnh đời cũ trước Cách mạng tháng Tám?   C. Nguyễn Tuân:   I. Cuộc đời, con người: 1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Tuân: Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, quê gốc của ông chính tại đây. Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan, tức ông tú Hải Văn, một nhà nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng, cũng là một  nhà nho bất đắc chí sống dưới chế độ thực dân phong kiến. Thời niên thiếu, NT đã cùng với gia đình sống nhiều ở các tình miền Trung, Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hoá. Gia đình Nguyễn đông anh em, nhưng cuối cùng chỉ còn lại hai anh em, vì thế NT được bố mẹ hỏi vợ sớm, ông lấy vợ khi chưa đầy 20 tuổi. NT học đến trung học ở thành phố Nam Định, ở đây, năm 1929, ông tham gia cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp lăng mạ người An Nam, và ông bị đuổi học. Không chịu được cảnh sống nô lệ, ông đã cùng một số thanh niên có đầu óc lúc bấy giờ rủ nhau đi trốn sang Thái Lan nhưng rồi bị bắt giải về Hà Nội, sau bị giam ở nhà tù tỉnh Thanh [1930]. Ở tù ra, ông làm thư kí nhà máy đèn và bắt đầu cầm bút, làm báo, viết văn. Các truyện ngắn, bút kí và thơ của ông được kí dưới nhiều tên: Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Nguyễn Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc…Ông nổi tiếng từ 1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời… Ngoài văn học, Nguyễn Tuân còn say mê diễn kịch, ông còn là một trong những diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta với vai diễn một y tá trong phim Cánh đồng ma [Quay ở Hồng Kông 1938]. Sau khi xuất bản Vang bóng một thời, ông bị bắt giam và quản thúc một thời gian; sau khi ở trại tập trung về, Nguyễn lại bắt đầu viết và cho in một loạt tác phẩm: Thiếu quê hương [Tuỳ bút 2 tập], Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, Nguyễn… Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân hồ hởi tham gia kháng chiến, ông theo đoàn kịch tuyên truyền của Thế Lữ, tham dự đoàn sáng tác văn nghệ đi mặt trận Nam Trung Bộ… rồi giữ nhiều chức vị quan trọng trong đoàn quân kháng chiến. Trong thời gian đó, ông đã thai nghén và cho ra đời nhiều tác phẩm phản ánh không khí chiến đấu sôi động của quân dân ta, những năm 60, 70, ông còn viết phê bình văn học. Nguyễn Tuân hoạt động nghệ thuật trên nhiều phương diện: viết truyện, kí, tuỳ bút, phê bình văn học, dịch thuật, đóng phim, diễn kịch… Ông là một trong những nhà văn tham gia tích cực vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc  Mĩ. Bằng ngòi bút tài hoa và tâm huyết của mình, ông đã góp phần không nhỏ vào việc ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu, sản xuất và xây dựng. Nguyễn Tuân mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, được phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. 2. Con người: NT là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà…, những nhạc điệu hoặc đài các của lối ca trù, hoặc dân dã thiết tha của giọng hò Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ… những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ…, những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt. Ở NT, ý thức cá nhân phát triển rất cao, ông viết văn trước hết để thể hiện cá tính độc đáo của mình. Ông ham thích du lịch, tự gán cho mình chứng bệnh gọi là "Chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông  không thể dung hoà với chế độ cũ. Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy viết văn nhưng ông còn am hiểu tinh tường nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Ông là diễn viên kịch nói có tài và là diễn viên điện ảnh đầu tiên của nước ta. Ông thường vận dụng con mắt cuẩ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương. NT là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước CM tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đó không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh", và ông đã lâý cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy. II. Sự nghiệp sáng tác và phong cách văn chương: 1. Sự nghiệp sáng tác: Trước cách mạng, tác phẩm Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh ba đề tài chính: Chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời và đời sống truỵ lạc. Các tác phẩm chủ yếu: Một vụ bắt rượu lậu, Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Ngọn đèn dầu lạc [Phóng sự], Thiếu quê hương, Xác ngọc lam, Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua, Tuỳ bút I, Tuỳ bút II, Tóc chị Hoài, NHững đứa con hoang, Vô đề [Lột xác], Nguyễn. Sau Cách mạng, ngòi bút ông hướng về nhân dân lao động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, tất cả nhân vật của Nguyễn đều có vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp cuẩ mình, ông còn miêu tả thiên nhiên hùng vĩ đẹp tuyệt trên khắp mọi miền tổ quốc. Các tác phẩm: Chùa Đàn, Đường vui, Tình chiến dịch, Thắng càn, Chú Giao làng Seo, Bút kí đi thăm Trung Hoa, Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, Truyện một cái thuyền đất, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Ký, Tuyển tập Nguyễn Tuân, Chuyện nghề, Cảnh sắc hương vị đất nước… 2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản, đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc. Một cái ngông vừa có màu sắc cổ điển tiếp nối truyền thống của những nhà nho bất đắc chí kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà… và trực tiếp hơn, của Tú Lan, thân sinh ra nhà văn; vừa có màu sắc hiện đại tiếp thu ở chủ nghĩa siêu nhân của Nít -sơ, quan niệm con người cao đẳng của Git-dơ và những tư tưởng nổi loạn khác thường thấy trong văn học phương Tây hiện đại. Ngông là một sự chống trả với mọi thứ nề nếp, phép tắc, mọi thứ đạo lí thông thường của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Đó là đặc điểm của tất cả những nhân vật ưa thích nhất của Nguyễn Tuân trong các tác phẩm của ông trước Cách Mạng tháng Tám. Nhu cầu chơi ngông buộc NT phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết, độc đáo không tiền khoáng hậu. Bên cạnh phía tiêu cực của thói ngông, trên con đường thể hiện cái độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã có những tìm tòi tích cực, đạt tới những giá trị thẩm mĩ thực sự. Thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa của mình, mỗi trang viết NT đều có sức hấp dẫn riêng. Nhân vật của ông thuần một loại tài hoa tài tử, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, dù trong nghề nghiệp gì, từ những ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao trong Vang bóng một thời, ông Thông Phu, cô Đào Tám trong Chiếc lư đồng mắt cua, đến anh chàng Hồ chữa xe đạp trong Hai tâm vé số "chơi đàn cải lương nổi tiếng", hay viên thư kí dây thép nào đó trong Chiếc lư đồng… mỗi lúc xuân tới, thu về, nhìn những phong bì thư đẹp và thơm của những cặp tình nhân gửi cho nhau lại nổi hứng muốn lấy "son tàu mà đóng dấu niên hiệu cho họ" chứ không nỡ "đóng cái mực đen nhà nước"… Nói cho cùng, tất cả cũng chỉ là những hoá thân khác nhau của anh chàng Nguyễn đó mà thôi, con người ấy sinh ra là để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa. Sau cách mạng tháng Tám, khi nhà văn đã làm lành với xã hội và ngày càng hoà mình vào cuộc sống của nhân dân thì thế giới nhân vật của ông không còn thu hẹp và mang tính chủ uan quá nặng như thế, nhưng cái chất tài hoa tài tử thì vẫn còn là phong thái riêng mỗi nhân vật của ông. Đó là anh tự vệ sao vuông hồi đầu kháng chiến, chọc chọc lưỡi lê xuống bóng trăng nơi vũng nước hầm hào mà mắng yêu chị Nguyệt [Đường vui], là anh bộ đội chống Pháp trên chiến trường Tây Bắc nguỵ trang bằng cành hoa đào và đuổi giặc giữa rừng đào [Tình chiến dịch], là những pháo thủ thủ đô thời chống Mĩ, trong chiến đấu vẫn hào hoa thanh lịch [Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi], là những chính trị phạm trong nhà tù Sơn La năm nào đấu tranh để được ngắm trăng đêm trung thu, là người tù cộng sản Tô Hiệu "trước khi khuất đi còn lẩy cái câu Kiều đào đông cười gió", là những cô lái đò Tây Bắc có dáng vóc rất "tạo hình" trên những con thuyền đuôi én cao vút, và những ông lái đò vượt thác sông Đà "tay lái ra hoa"… Không chỉ nhân vật, cả sự vật được miêu tả trong văn Nguyễn Tuân dẫu chỉ là cái ăn, cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá mỹ thuật. Mỗi điểm quan sát của ông phải là một đối tượng khảo cứu đến kỳ cùng. Thể hiện phong cách này, lối viết của Nguyễn thường tập trung vào một điểm và vận dụng một cách tổng hợp khảo sát của nhiều ngành văn hoá khác nhau để đào sâu cho đến "sơn cùng thuỷ tận". Vì thế, có những hiện tuợng, đối với những cây bút khác tưởng như chẳng có gì đáng nói, nhưng NT thì có thể viết mãi hết trang này đến trang khác, ông lật mặt này, trở mặt khác, xoay ngang, xoay dọc, nhìn xa, nhìn gần, khi thì bằng cặp mắt văn học, khi thì bằng cặp mắt hội hoạ, điêu khắc, vũ đạo hay điện ảnh, khi lại soi bằng cặp kính của nhà sử học, địa lí học, địa chất học, vật lí học, côn trùng học… Nguyễn đã đếm, đã tính cho ta nghe có bao nhiêu tên làng, tên xóm, bao nhiêu loài cá, loài chim, bao nhiêu thứ gỗ quý… Người ta còn nói đến cái máu giang hồ xê dịch của Nguyễn Tuân, chính ông cũng thường tự khoe khoang như thế. Con người ấy coi sống chỉ là để thực hiện cá tính của mình, đi đâu, ở đâu cũng chỉ là để tìm mình, nhưng là phải tìm mình trong nhân loại, phải chen vai thích cánh giữa chốn đông người. Đó là con người của thành thị, phố xá, của nhà ga, bến tàu, của ca lầu, tửu quán, hí viện… Không phải ngẫu nhiên mà những trang viết hay nhất của Nguyễn có những trang viết về chợ búa: chợ tết Hồng Kông, chợ trời Cống Thần, chợ tàu Ải Khẩu… Hiếu động nên thích đi, đi để "thay thực đơn cho giác quan" và tất nhiên phải bằng những điều mới lạ, bất ngờ và mãnh liệt: "tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn". Nguyễn Tuân không thể chịu nổi cái gì chung chung, nhạt nhạt, bằng phẳng, hời hợt, quanh quẩn, đơn điệu, coi đó là "một nguồn sống bồng bột tắc lối thoát" [Tóc chị Hoài]. Nguyễn không thích cái gì yên ổn, mực thước, khuôn phép, ông gọi thế là lối công chức trong đời sống văn chương. Ông đã từng luận về hai chữ "tung" và "hoành" trong nghệ thuật. Hoành là mực thước, thiếu cảm hứng mãnh liệt, tung là tạo ra tiếng vang dôi ầm lên, là hành binh bằng cuộc đại tấn công, là tìm tòi, mạo hiểm, là cảm xúc mạnh, hơi thở nồng… Con người ấy đã yêu thì yêu mê đắm, đã ghét thì phải căm thù, đã uống rượu thì phải uống cả cấn, đã đi thì đi đến ngọn nguồn lạch sông, đã tìm hiểu thì phải đến ngọn ngành gốc rễ… Trước Cách mạng tháng Tám, nét phong cách sâu đắm này gắn với chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, thái độ sống vô trách nhiệm. Sau cách mạng, xê dịch gắn với mục đích cách mạng, đi công tác, đi thực tế, đi để gắn bó quê hương đất nước mình. Đọc Nguyễn Tuân, một mặt thấy rõ ông rất thời sự, trẻ trung, hiện đại, mặt khác lại thấy có gì rất đỗi đĩnh đạc, cổ kính, cổ điển.Trước đây, cái cổ điển thường chiếm ưu thế, ông quan niệm đời sống cơ khí hiện đại giết chết cái đẹp, đối với hiện đại nhỡn tiền ông chỉ thấy chất văn xuôi phàm tục. Ông hoàn toàn thoát li thực tại, đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại mà ông gọi đó là "Vang bóng một thời". Hồi đó, ông thường đối lập xưa với nay, cổ với kim, ông tự cho mình thuộc lớp người "sinh lầm thế kỷ". Không ai tri kỷ, ông tự dựng lên những nhân vật như phu nhân họ Bô, chị Hoài.. những con người của thời cũ còn sót lại để làm nơi ẩn dật của tâm hồn mình. Đối với những vẻ đẹp tàn tích của thời xưa, giọng văn của ông bao giờ cũng đôn hậu, buồn tủi, ngậm ngùi. Cái "mỹ học hoài cựu" đó khiến ông không ngừng phục chế lại những bức tranh cũ, những bức tượng cổ, những tấm bia tàn… Sau cách mạng, ông lại tìm mọi cách đào thải tất cả mùi hoài cựu đã trở thành cố nhân trong lòng mình, mãi về sau, kể từ "Sông Đà", ông mới quay về tìm những cũ xưa, tìm vẻ đẹp cổ điển trong cái đẹp ngày nay. Cá tính và phong cách Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tuỳ bút như là tất yếu bởi trong văn học, có lẽ đó là thể loại chủ quan nhất và tự do nhất. Đây là một đóng góp của ông về thể loại văn học, tất cả sự hấp dẫn của tuỳ bút, xét đến cùng phụ thuộc ở chỗ cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không, điều ấy nói rằng không phải ai cũng có thể trờ thành nhà tuỳ bút xuất sắc như Nguyễn Tuân. Nói đến văn chương Nguyễn, cũng cần phải nói đến những tìm tòi trong cách diễn đạt ý, tả cảnh, trong cách đặt câu, dùng từ. Nguyễn Tuân thuộc số những nhà văn yêu tha thiết và hiểu sâu sắc tiếng mẹ đẻ. Ông sống với từng hình ảnh khắc hoạ, từng câu viết, từng từ đặt trên trang giấy. Đọc Nguyễn, nhà tu từ học tìm được nhiều bằng chứng thú vị về những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… Trước CM, lối chơi ngông và chủ nghĩa độc đáo của Nguyễn Tuân thường dẫn đến những lối ví von chính xác, mới lạ, thậm chí oái oăm: "Ông thử roi vào mặt trống, rồi uốn hai đầu xuống, thân roi ưỡn ngửa mãi lên như lúc người đàn bà tránh một cái hôn bạo" [Đời roi]. "Đè lên màu tang bầu không khí u muộn, chất bóng cốc pha lê nổi bật hẳn lên như nét cười của một người công binh lúc tắt nghỉ." [Lại đi nữa]. Ông có một vốn từ ngữ hết sức phong phú mà ông đã cần cù tích luỹ, cần cù sáng tạo, chữ nghĩa như đổ tràn trên mặt giấy để khoe tài, phô tài. Thêm nữa, ông lại có biệt tài tổ chức câu văn xuôi giàu chất tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng và biết co duỗi nhịp nhàng… Phong cách nghệ thuật Nguyên Tuân có những cơ sở tích cực: Lòng yêu nước, yêu cái đẹp, trọng nhân cách cao thượng và tài năng. Trước cách mạng, đó là phẩm chất của một trí thức chân chính, sau cách mạng, phẩm chất ấy được phát triển trên lập trường của một nhà văn chiến sĩ.Với những cống hiến phong phú, độc đáo, không ai thay thế được trong lịch sử văn học hiện đại VN, Nguyễn Tuân xứng đáng được trân trọng như một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn. III. Một số tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng Tám: 1. Chữ người tử tù: Phải nói rằng Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân. Nhân vật này không chỉ như một kẻ tài hoa tài tử thường gặp trong văn Nguyễn, hơn thế, đây còn là một đấng anh hùng. Trong nhân vật này có sự kết hợp lí tưởng giữa con người hào kiệt và con người nghệ sĩ. Huấn Cao là một chân dung sắc sảo, phi phàm được viết theo lối lí tưởng hoá của ngòi bút lãng mạn. Cả tài hoa, thiên lương, khí phách nhân vật đều mang tầm vóc vĩ đại, phi thường. Sự tài hoa của Huấn Cao chỉ có thể được nổi bật khi người đọc am tường một nghệ thuật có nguồn gốc cổ xưa và hết sức cao siêu: Thư pháp - nghệ thuật viết chữ đẹp. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của người thợ khéo tay, hay chữ quen việc, thạo nghề. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp lầ một lần sáng tạo. Mỗi nét bút tập trung và kết tụ tinh hoa, tinh huyết của người nghệ sĩ, mỗi nét chữ là sự thấu suốt những  khát khao thầm kín, mãnh liệt chất chứa trong tâm khảm, nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết, phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh và rất đẹp, không chỉ vì đẹp lắm, vuông lắm, mà quan trọng hơn là "những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên hoài bão tung hoàng của một đời người". Có như vậy người đọc mới cắt nghĩa được tại sao "có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời". Nó trở thành mơ ước cả cuộc đời quản ngục, và để đạt được sở nguyện, quản ngục đã không nề hà coi thường cả quyền lợi của một viên quan và cả sự an nguy đến sinh mệnh mình. Không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao còn là kẻ anh hùng khí phách hơn người. Để khắc hoạ phẩm chất kiên cường bất khuất của HC, Nguyễn Tuân đã dùng rất nhiều chi tiết đặc tả: nào việc chọc trời khuấy nước, nào việc mắng quản ngục bằng những lời khinh bạc đến điều, rồi tư thế viết chữ rất ung dung đường bệ… Chỉ cần một chi tiết "rỗ gông" thôi, lập tức khí phách phi thường của HC đã hiển hiện, hằn lên như một ấn tượng. Đó là hành động biểu thị tự do, cho thấy việc gì nhân vật muốn làm là làm, dù khó khăn đến đâu và có được sự cho phép hay không. HC cứ thế đi sừng sững hết sinh mệnh của mình trong thế giới câu chuyện. Đâu chỉ có tài hoa khí phách không thôi, HC còn có một tấm lòng thiên lương thuần khiết nằm ngay trong cái vẻ ngoài kiêu bạc, gai góc. Hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở thích cao quý của thầy quản, ông Huấn vô cùng xúc động, ông đã ân hận chân thành: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Lời nói hé mở lẽ sống của Huấn Cao, sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Chính điều này đã làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên trọn vẹn, hoàn chỉnh. Không có một cảm hững lãng mạn, bay bổng, một bút pháp lí tưởng hoá nhuần nhị của Nguyễn Tuân, không có một Huấn Cao hoàn mĩ đến vậy! Nhân vật thứ hai của tác phẩm không thể không nhắc tới đó là viên quản ngục. Bởi vì Chữ người tử tù được xây dựng trên một tình huống oái oăm, giàu kịch tính, có thể gọi là cuộc kì ngộ giữa viên quản ngục và Huấn Cao. Không gian: nhà tù; thời gian: vài ngày trước khi Huấn Cao chịu án chém; thân phận: éo le: Trên bình diện xã hội, họ là những kẻ đối nghịch, trên bình diện nghệ thuật, họ lại là những tri kỉ, tri âm. Ở một góc độ khác, đây còn là sự đối mặt giữa hai loại nhà từ, hai kiểu tù nhân: Một người tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về nhân cách, người kia luôn tự do về nhân cách nhưng lại bị cầm tù về nhân thân. Chọn tình huống ấy, Nguyễn Tuân đã đặt viên quản ngục trước một lựa chọn có tính xung đột: một bên là bổn phận một bên là tấc lòng tri kỉ. May thay, viên quản ngục kia là một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ngay cả khi bị HC tỏ ra khinh miệt bằng những lời khinh bạc đến điều. Những kẻ tri âm chỉ đến được với nhau bằng tấc lòng tri kỉ, và cuối cùng thì HC đã nhận ra tâm hồn trong trẻo cao quý bên trong con người nhà nước kia. Không cúi đầu trước đồng tiền và quyền lực, Huấn Cao chỉ cúi đầu trước một tấm lòng, đó chính là cốt cách "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" của Cao Bá Quát- nhân vật lịch sử đã gợi nguồn cảm hững để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng HC này. HC thuận cho chữ, lòng ông đã mở ra để đón một tri âm, tri kỉ. Phần cuối Chữ người tử tù là kết tinh vẻ đẹp nhân vật và tư tưởng, ngòi bút tài hoa Nguyễn Tuân. Cho chữ trước hết là việc một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Ở đây, người ta thấy cái Tâm đang điều khiển cái Tài, cái Tài đang phụng sự cái Tâm, chúng hoà kết lại với nhau để tạo ra cái Đẹp. Không phải ngẫu nhiên mà NT cho rằng cho chữ là "cảnh xưa nay chưa từng có", việc cho chữ vốn chỉ diễn ra ở những nơi cao nhã, còn ở đây, nó diễn ra giữa nhà tù, nơi ngự trị của Bóng Tối, cái Ác, những thứ thù nghịch với cái Đẹp, vậy mà NT đã chọn chính nơi đây để cho cái Đẹp khai sinh. Bút pháp lãng mạn được phát huy tận độ, cảnh cho chữ được viết theo lối tương phản nhuần nhuyễn, gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái thiện và cái ác, cao cả và thấp hèn, cái đẹp và sự tầm thường… Trên nền đen kịt của trại giam, bừng lên một ngọn đuốc, tạo thành một vừng sáng vừa rực rỡ vừa trang trọng. Bên dưới ngọn đuốc là ba con người chụm đầu chung quanh một vuông lụa trắng. Một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô từng nét chữ". Vuông lụa trắng là điểm trung tâm của vùng sáng ấy, trên đó, từng nét chữ đang được tượng hình, cái đẹp đang được chào đời. Nghệ thuật ngôn ngữ điêu luyện đã tạo ra một thước phim đầy ấn tượng đậm chất tạo hình. Trong khung cảnh này, người ta thấy được cuộc đảo lộn ghê gớm về vị thế của các nhân vật, ranh giới cai ngục và từ nhân vị xoá bỏ, chỉ còn những người bạn đang châu tuần bên cái Đẹp. Cái Đẹp lên ngôi, cái đẹp của nhân cách, tài hoa và cả thiên lương. Với cảnh cho chữ, NT đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự bất diệt của cái đẹp, niềm tin thuộc về chủ nghĩa nhân văn ấy làm nên ý nghĩa vô giá của tác phẩm Nguyễn Tuân. 2. Một sô truyện ngắn khác trong Vang bóng một thời: Truyện ngắn trong VBMT toàn những người, những việc Nguyễn Tuân được nghe kể: Ngôi mả cũ kể chuyện cụ Hồ Viễn vốn là tướng Cờ Đen; Bữa rượu máu có mặt "quan công sứ", chuyện trong Đánh thơ vào khoảng đời Thành Thái, dầu Duy Tân…đó là những chuyện kể lịch đại đối với nhà văn, những chuyện kể về người tài hoa, tài từ, có tâm hồn nghệ sĩ, biết thưởng thức cái đẹp, có thú vui tao nhã. Nguyễn Tuân cảm tình những cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ chùa Đồi Mai, cả "người ăn mày cổ quái" biết thưởng thức một chén trà trong sương sớm [Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm]. Ông ca tụng cụ Kép làng Mọc "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý", "mùa xuân cùng vài người bạn tri âm, tri kỷ ngồi thưởng hoa, uống rượu, ngâm thơ" [Hương cuội]. Ông kể lại một cách thán phục cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu "đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày, đánh cờ bằng miệng, chứ không phải bằng tay đụng quân" [Ngôi mả cũ]. Ông thích thú với các trò chơi đánh thơ, thả thơ mà ông dành liền hai truyện tả tỉ mỉ, chi tiết [Thả thơ, Đánh thơ]. Cũng là nười thích ngắm cảnh chùa chiền, dạo chơi sông núi, xem phong cảnh đó đây, ông tỏ một mối cảm tình nồng nhiệt với Cử Hai, một người tài hoa giang hồ, lấy việc dạy học là một mưu hồ khẩu mà lại y như là "đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích", quanh năm đi khắp bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc, "ngồi giảng bài chưa ấm phòng học đã quẩy khăn tráp lên đường". Đặc biệt là nhà văn thương cảm ông Phó sứ Lăng và cô Mộng Liên, cũng là một đôi vợ chồng lãng từ giang hồ sống cuối đời Thành Thái, ra bắc vào nam đi đánh thơ, rồi khi qua Hoành Sơn quan, thấy cảnh đẹp, lòng si tình, hai người yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la ngay dưới chân ngọn ải. Ông trúng cơn gió độc đã hoá ra ma chết đường, "mộ để sát ngay bên đường thiên lí", còn cô Mộng Liên thì thành "người goá bụa đạng lúng túng tìm người giữ cho cây đàn". .. Tóm lại, những thú ăn chơi tao nhã trong VBMT là những thú vui của cha ông ta ngày trước, không ngoài cầm kỳ thi tửu mà các cụ thường ca tụng trong thơ văn. [Ngoại lệ là hai truyện Bữa rượu máu và Chữ người tử tù. Bữa rượu máu nói về cái tài của tên đao phủ Bát Lê, chém đầu những người bị án trảm một cách gọn ghẽ, không đến hai nhát. Ngòi bút của Nguyễn tuồng như khách quan, lạnh lùng, song ẩn giấu sự căm phẫn và nỗi đau xót của ông đối với những vụ hành hình những người yêu nước đầu thế kỉ XX.] Tập truyện là sự tôn vinh những giá trị truyền thồng tốt đẹp của dân tộc, không chỉ là những thú chơi, đằng sau đó là cách di dưỡng tâm thần, là cái đạo của người tài tử, là lối sống của kẻ nghệ sĩ. Về văn phong, có thể nói VBMT có giọng điệu ngôn ngữ trong sáng đến kinh ngạc, khác hẳn với giọng khinh bạc, sâu cay, bừa bãi, ngạo đời trong những tác phẩm khác của ông trước cách mạng, cho nên nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng tác phẩm đã đạt "gẩn tới sự toàn thiện toàn mỹ". IV. Một số đề luyện tập: 1. Cảm nhận của anh/chị về cái tài và cái tâm của Nguyễn Tuân thể hiện qua truyện ngắn Chữ người tử tù. 2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù, từ đó nhận xét nghệ thuật khắc hoạ nhân vật của nhà văn. 3. Phân tích cảnh cho chữ để làm rõ: đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ. 4. Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. 5. Phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám thể hiện trong Chữ người tử tù.                               PHẦN KẾT LUẬN   Văn học lãng mạn VN là tiếng nói của tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức thành thị đã thoát li phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, con đường văn chương lúc bấy giờ, đối với một số tiểu tư sản trí thức là một lối thoát li trong sạch, một nơi có thể gửi gắm tâm sự yêu nước thầm kín cùng những tình cảm, tư tưởng của cá nhân. TL vốn là một thành viên của Tự lực văn đoàn, một nhóm nghệ sĩ chủ trương khuynh hướng lãng mạn, trên bề mặt, tác phẩm TL thuộc chủ nghĩa tình cảm, một nhánh của văn học lãng mạn, song ở bề sâu, truyện ngắn của ông lại rất giàu tính hiện thực. Thạch Lam viết về những người lao động nghèo khổ với lòng cảm thương sâu sắc, đó là người nông dân lam lũ nơi đồng ruộng, người phải sống kiếp làm than của phố thị, bà mẹ nghèo ở xóm chợ, gia đình người phu xe cùng khổ chốn ngoại ô… Ngòi bút Thạch Lam đầy tinh tế và nâng niu khi viết về những vẻ đẹp, những mong ước khát khao của người lao động nghèo. Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được ngòi bút TL rất mực trân trọng, yếu quý. Khác hắn với TL, Nguyễn Tuân tìm lối thoát li hiện tại bằng chủ nghĩa xê dịch, đời sống truỵ lạc và tìm về với những vẻ đẹp một thời vang bóng. Những tác phẩm của ông thể hiện thái độ bất mãn của tầng lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đả phá thực tại song lại rơi vào bế tắc. Con đường tìm về với những gía trị tinh thần, những thú vui tao nhã truyền thống của dân tộc khiến tác phẩm NT, đặc biệt là Vang bóng  một thời mang giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời thể hiện được tấm lòng yêu nuớc và ngòi bút đặc biệt tài hoa họ Nguyễn. Hai nhà văn, hai tính cách, hai số phận, hai con đuờng văn chương khác nhau, một hướng về con người bình dân với lòng trắc ẩn thiết tha, một hướng về những con người tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp, lối sống của mình với tấm lòng trân trọng hoài nhớ; một theo chủ nghĩa nhân đạo, một hướng về chủ nghĩa nhân văn; một giọng văn dịu dàng trìu mến thấm đẫm chất thơ và thương cảm, một giọng điệu gai góc, ngạo nghễ, khinh đời, kiêu bạc… Mỗi người một vẻ, song những tác phẩm của họ sẽ còn ở lại với thời gian, bởi vì đó là hai gương mặt điển hình của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 -1945 với những đóng góp đầy ý nghĩa cả về nội dung và nghệ thuật.       MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 2. Cơ sở lí luận: 3. Cơ sở thực tiễn: 4. Mục đích nghiên cứu: PHẦN NỘI DUNG A. Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 I. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn hoá II. Sự vận động của văn học theo tiến trình hiện đại hoá II. Trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945 III. Tự lực văn đoàn [1933-1942] B. Thạch Lam I. Tiểu sử và con người, sự nghiệp sáng tác 1. Tiểu sử 2. Con người 3. Sự nghiệp sáng tác II. Quan điểm, tư tưởng sáng tác và phong cách sáng tác Thạch Lam: 1. Quan điểm, tư tưởng sáng tác 2. Phong cách Thạch Lam 3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL III. Một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam 1. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" 2. Nhà mẹ Lê 3. Gió lạnh đầu mùa 4. Dưới bóng hoàng lan 5. Tối ba mươi 6. Cô hàng xén: IV. Một số đề luyện tập C. Nguyễn Tuân    I. Cuộc đời, con người 1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Tuân 2. Con người II. Sự nghiệp sáng tác và phong cách văn chương 1. Sự nghiệp sáng tác 2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân III. Một số tác phẩm trrước Cách mạng tháng Tám 1. Chữ người tử tù 2. Một số truyện ngắn khác trong Vang bóng một thời IV. Một số đề luyện tập PHẦN KẾT LUẬN         TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH   1. Văn học Việt Nam 1930 - 1945 2. Thạch Lam - Tác giả tác phẩm 3. Tuyển tập truyện ngắn Thạch Lam 4. Nguyễn Tuân - tác gia tác phẩm 5. Tuyển tập Nguyễn Tuân 6. Nguyễn Tuân - nhà văn và tác phẩm trong nhà trường 7. Sách giáo khoa, sánh giáo viên Ngữ văn 11, tập I 8. Các tài liệu khác  

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

- Đối với giáo viên: Lòng yêu thích đối với hai tác giả văn học: Thạch Lam, Nguyễn Tuân và các tác phẩm của ông; Mong muốn rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng HS giỏi.

- Đối với học sinh: Sự cần thiết phải trang bị, mở rộng sự hiểu biết đối với hai tác giả quan trọng trong chương trình THPT; Rèn luyện kĩ năng phân tích, làm bài với những đề bài, chuyên đề liên quan.

2. Cơ sở lí luận:

- Kiến thức văn học sử về văn học Việt Nam hiện đại, tác gia trong nhà trường THPT.

- Trào lưu văn học, khuynh hướng sáng tác

- Đặc trưng thể loại truyện ngắn, nghệ thuật truyện ngắn.

- Phong cách và cá tính sáng tạo của nhà văn.

3. Cơ sở thực tiễn:

Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai gương mặt khá tiêu biểu, có phong cách riêng độc đáo trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945. Tác phẩm của hai ông có vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc và đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT: Hai đứa trẻ [Thạch Lam], Chữ người tử tù [Nguyễn Tuân].

4. Mục đích nghiên cứu:

- Đối với giáo viên: Nâng cao hiểu biết và luyện tập khả năng nghiên cứu chuyên sâu các chuyên đề khoa học ngữ văn.

- Đối với học sinh: Giúp học sinh có những hiểu biết hệ thống và chuyên sâu về các nội dung chuyên đề đề cập tới; Nắm chắc các dạng đề liên quan và thông thạo cách xử lý đề bài liên quan: Cung cấp nguồn tư liệu để làm phong phú bài làm của học sinh, rèn luyện cách diễn đạt; Bước đầu biết vận dụng kiến thức và phương pháp để làm các đề tài nghiên cứu khoa học

PHẦN NỘI DUNG

A. Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945:

I. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn hoá:

Nm trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta [1858- 1945], tức là giai đoạn hình thành và tồn tại của chế độ thực dân nửa phong kiến, lịch sử xã hội và văn hoá Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc. Đây là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, đế quốc Pháp và phát xít Nhật ráo riết thực hiện các chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế, đầu độc về văn hoá. Năm 1930 cũng là thời điểm ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương và những chặng đường phát triển của cách mạng dân tộc dân chủ cũng có tác động nhiều mặt tới đời sống chính trị xã hội lúc bấy giờ. Từ đó dẫn đến những cuộc tranh đấu trên lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, những tác động qua lại vô cùng phức tạp của các khuynh hướng và phương pháp sáng tác khác nhau. Hệ tư tưởng tư sản cấu kết với hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời, đối lập với chúng là hệ tư tưởng vô sản cùng những khát vọng dân tộc dân chủ của các tầng lớp nông dân, tiểu tư sản thành thị yêu nước. Về văn hóa, những luồng văn hóa phương Tây ngày càng tác động một cách toàn diện sâu sắc đến đời sống xã hội Việt Nam, chế độ học hành thi cử bằng chữ Hán bị xoá bỏ, chữ Hán và Nho giáo dần mất đi địa vị độc tôn. Trong giai đoạn này, báo chí và hoạt động xuất bản ngày càng rầm rộ, chữ quốc ngữ khẳng định được vị thế của mình, đó chính là những điều kiện quan trọng để hiện đại hoá văn học.

II. Sự vận động của văn học theo tiến trình hiện đại hoá:

Riêng trong lĩnh vực văn học, hiện thực nóng bỏng chính là mảnh đất để văn học phát triển phong phú, trong đó diễn ra cuộc đấu tranh, đồng thời cũng là sự tác động qua lại giữa các nền văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán, văn học lãng mạn tiến bộ [không phát triển thành một dòng chảy liên tục] và văn học lãng mạn tiêu cực, bảo thủ, trộn lẫn với các khuynh hướng văn học suy đồi khác.

Hiện đại hoá là quá trình văn học thoát ra khỏi những quan điểm thẩm mĩ và hệ thống thi pháp của văn học trung đại tồn tại suốt lịch sử xã hội phong kiến để ngày càng hoà nhập vào quỹ đạo phát triển chung của văn học thế giới. Hiện đại hoá là quy luật tất yếu, là sự vận động tự thân của nền văn học, là sự nhảy vọt về chất chứ không chỉ đơn thuần là sự biến đổi về lượng.

Hiện đại hoá đem lại những thành tựu to lớn, trước hết thay đổi quan niệm về chức năng, đối tượng của văn học, nếu như văn học trung đại chức năng chủ yếu là "văn dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí" thì văn học hiện đại có vai trò khám phá, phản ánh thế giới khách quan đời sống xã hội đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần của cá nhân con người. Đội ngũ nhà văn cũng trở nên chuyên nghiệp với phần đa là các trí thức tây học. Hệ thống thể loại trở nên đa dạng phong phú chưa từng có với thơ, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, phóng sự, bút kí, tuỳ bút, kịch nói, nghiên cứu phê bình lí luận văn học… Đặc biệt, hệ thống thi pháp đã hoàn toàn thay đổi, cả quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các hình thức biểu hiện…

Thời kỳ văn học 1930 - 1945 là thời kỳ quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc được hoàn tất, mọi khuynh hướng văn học đều phát triển, mọi thể loại đều có thành tựu đỉnh cao, đạt đến sự kết tinh rực rỡ.

II. Trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945:

Văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện như một trào lưu trong thời kỳ 1932 - 1945, bắt đầu với nhóm Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới. Cơ sở xã hội hình thành khuynh hướng này là sự xuất hiện của các tầng lớp, giai cấp mới, lớp người này có đời sống tâm lí, tình cảm đa dạng phức tạp, ý thức cá nhân và tự do cá nhân nảy nở, chống lại những lễ giáo phong kiến để khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc, đây chính là những biểu hiện của hệ tư tưởng dân chủ tư sản.

Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi lập thành trường phái và có tuyên ngôn nghệ thuật riêng, chúng ta chỉ có thể thấy được những quan niệm thẩm mỹ của họ thông qua một số tác phẩm và lời phát biểu trong tranh luận nghệ thuật, ở đó có thể nhận thấy sự ảnh hưởng rõ nét của tư tưởng văn học lãng mạn phương Tây. Đặc trưng thẩm mĩ chủ yếu là sự bất hoà với hiện tại, quay lưng với xã hội đương thời, từ đó nhà văn, nhà thơ lãng mạn đi sâu vào thế giới tinh thần của chính mình, hoặc đi vào đề tài tình yêu tự do, chống lễ giaó phong kiến, hoặc tìm đến thế giới thiên nhiên trong sạch để giải toả tâm hồn, hoặc thoát li đến chốn bồng lai, tìm về quá khứ, say sưa cuộc sống hưởng thụ, truỵ lạc.

Trào lưu văn học này có rất nhiểu tác phẩm lãng mạn tiến bộ, nhiều tác giả ưu tú, song nhìn chung, sự phát triển của nó rốt cuộc ngày càng đi vào con đường bế tắc. Hai dòng chủ đạo của trào lưu này là thơ ca với phong trào Thơ mới và văn xuôi với nhóm Tự lực văn đoàn.

Phong trào Thơ mới đã nói lên được những nhu cầu của cá nhân với cái tôi muốn tự do đòi giải phóng, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có một cái tôi cá thể hoá trong cách cảm thụ thế giới và thiên nhiên. Cũng là lần đầu trong một khoảng thời gian ngắn ngủi xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến như vậy.

Cũng như Thơ mới, văn xuôi lãng mạn góp phần đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, tự do hôn nhân, hạnh phúc lứa đôi, phê phán kịch liệt đại gia đình phong kiến.

Văn học lãng mạn VN là tiếng nói của tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức thành thị đã thoát li phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, con đường văn chương lúc bấy giờ, đối với một số tiểu tư sản trí thức là một lối thoát li trong sạch, một nơi có thể gửi gắm tâm sự yêu nước thầm kín.

Chủ nghĩa lãng mạn VN 1930 - 1945 mang những ảnh hưởng từ nhiều trường phái khác nhau của phương Tây, đặc biệt là của Pháp. Trào lưu này đã góp phần rất quan trọng trong việc đưa văn học VN tiến thẳng vào thời kì hiện đại với các thể thơ linh hoạt, cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, ngôn ngữ giàu hình tượng…; các thể văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết có kết cấu và cốt truyện chặt chẽ, lối kể chuyện hấp dẫn, nghệ thuật mỉêu tả tinh tế nội tâm nhân vật…

III. Tự lực văn đoàn [1933-1942]:

Ra đời năm 1933 với tôn chỉ  giải  phong tự do cá nhân, không khoan nhượng với lễ giaó phong kiến, dùng một lối văn dễ hiểu, gần gũi, bình dân; Tự lực văn đoàn có sự góp mặt của rất nhiều tên tuổi trên văn đàn thời bấy giờ: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam… mỗi nhà văn này đều có những nét phong cách riêng, đặc biệt là Thạch Lam đi theo một hướng khu biệt hẳn với những văn sĩ khác.

Trong phạm trù ý thức hệ tư sản, Tự lực văn đoàn đã nói lên những khát vọng dân tộc dân chủ của đông đảo quần chúng, chủ yếu là của các tầng lớp tiểu tư sản trí thức và viên chức thành thị. Tự lực văn đoàn không đặt vn đề giải phóng xã hội nhưng đã đấu tranh giải phóng cá nhân, bản ngã, tự do hôn nhân, quyền sống người phụ nữ, chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Về mặt đổi mới nghệ thuật,  TLVĐ đã kết hợp được khá nhuần nhị truyền thống  với hiện đại, Đông và Tây, ngôn ngữ văn học trở nên giản dị, trong sáng, giàu khả năng diễn đạt hơn và rất gần gũi với tâm hồn dân tộc.

Các tác phẩm tiêu biểu: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Thoát ly, Con đường sáng, Gió đầu mùa…

Nửa chừng xuân [Khái Hưng] tấn công vào đại gia đình phong kiến, tố cáo bọn quan lại trọc phú ở nông thôn, tố cáo tính chất ích kỷ, tàn nhẫn, chà đạp lên hạnh phúc con người  của lễ giáo phong kiến.

Đoạn tuyệt [Nhất Linh] cũng viết về cuộc đấu tranh giữa cá nhân và đại gia đình phong kiến song tính chất quyết liệt hơn Nửa chừng xuân. Tiểu thuyết này thành công nhất ở những chương miêu tả cuộc xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa mẹ chồng và nàng dâu, những chương tố cáo mạnh mẽ các tập quán cổ hủ trong gia đình bà Phán, cách đối xử tàn nhẫn, chà đạp lên con người của những kẻ đại diện cho lễ giáo cũ.

………

B. Thạch Lam

I. Tiểu sử và con người, sự nghiệp sáng tác:

1. Tiểu sử:

Thạch Lam [1910 -1942] [còn có bút danh là Việt Sinh] tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, tới năm 15 tuổi mới đổi là Nguyễn Tường Lân. Ông sinh tại Thái Hà ấp, Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại, là con đẻ của dòng họ Nguyễn Tường, dòng họ ghi dấu ấn khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam về mặt chính trị, văn hoá; ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo - hai cây bút có vị trí của Tự lực văn đoàn. Như vậy, truyền thống gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách, văn chương TL. Thuở nhỏ, ông sống ở quê ngoại Cẩm Giàng, một thị trấn nhỏ với không gian phố huyện đặc trưng đã ăn sâu vào tiềm thức nhà văn và sau này trở thành không gian chủ đạo bao trùm toàn bộ tác phẩm Thạch Lam. Gia đình sớm sa sút, ông và bố TL mất, người mẹ vốn dòng dõi đài các phải lăn lộn làm hàng xáo kiếm sống, nuôi các con; khi đó anh trai Nhất Linh đang du học Pháp, TL phải bỏ học gần một năm cùng chị Thế trông hàng cho mẹ. Năm 1929, Nhất Linh về nước, TL lại tiếp tục đi học. Nhất Linh cùng Khái Hưng thành lập ra Tự lực văn đoàn, kéo hai em Hoàng Đạo, TL cùng tham gia, TL sau khi đỗ Tú tài lần thứ nhất thì bỏ học và chuyển sang làm báo kiêm quản lí NXB Đời nay, biên tập cho các  tờ  tuần  báo  Phong hoá , Ngày  nay; ông là người rất mực chịu khó, ham học và uyên bác. Sáng tác của TL hầu hết là truyện ngắn, bút kí, tiểu thuyết, tiểu luận…Thời gian đó ông làm việc ở Quán Thánh, có mua một ngôi nhà ở trước Hồ Tây, trước nhà có một cây liễu xanh rủ bóng. Nhà văn đặc biệt yêu quý cây liễu này và chăm sóc nó rất chu đáo, người ta cho rằng liễu chính là biểu tượng cho khí chất, tâm tính TL, giữa tâm hồn TL và thứ cây "kì  hoa dị  thảo " này có một sự tương giao nào đó: cùng mềm mại, đằm thắm, tinh tế, dịu dàng.

" T©y hå cã danh sü

Nhµ th× cã nhµ tranh

Cöa tróc cµi phªn giã

Tr­íc thÒm bãng liÔu xanh"

Trong văn TL có rất nhiều bóng cây, có lẽ đều là những biến thể khác nhau của cây liễu yểu điệu nhẹ nhàng thâm u.

Đưòng tình ái của TL không có gì đặc biệt, ông thuộc kiểu con người đạo đức, tiết chế bản thân, sống chừng mực, âm thầm. Từ năm 1940 ông bị bệnh lao và mất ngày 28 tháng 6 năm 1942 tại nhà riêng như đã nói ở trên trong cảnh đơn sơ, thanh bạch. Tóm lại, cuộc đời TL là một chứng minh cho thuyết định mệnh của những người tài hoa. Có một mẩu hồi ức kể rằng sinh thời TL thích ngồi hàng giờ lặng ngắm cây liễu rủ trước nhà. Tiếc thay, cõi đời ngắn ngủi lại không dành cho ông nhiều thời gian để thụ cảm và chiêm nghiệm, số phận quả thật đắng cay. Nhưng trước khi sinh mệnh đời người quay trọn vòng quay của nó, con người tài hoa ấy đã kịp hoàn tất chân dung văn học của mình, và bằng cách đó ông đã ở lại với thời gian.

2. Con người:

Sinh cùng năm với Nguyễn Tuân, nhưng hai số phận, hai con người tài hoa ấy lại hoàn toàn khác biệt, TL chết yểu, NT sống khá thọ, TL khiêm cung, NT ngông nghênh kiêu bạc, TL ưa vẻ mong manh, tinh tế, NT thích cái góc cạnh, dữ dội, văn TL mượt mà, đằm sâu, văn NT cồng kềnh, sắc sảo.

Con ngưòi TL vốn khiêm cung, ít nói, thường sống thiên về nội tâm, thâm giao [không quảng giao]. Ông sống duy lí, thường tư duy không mệt mỏi về những vấn đề trừu tượng, có thiên hướng triết học sâu sắc. Nhưng ông cũng là kẻ duy cảm điển hình khi lắng nghe, theo đuổi, nắm bắt những cảm giác, cảm xúc bên trong của chính mình, đây lại là biểu hiện của thiên hướng nghệ sĩ đa sầu đa cảm.

Ở TL còn có lòng nhân ái kỳ lạ tới mức bệnh hoạn. Hồi ký Vũ Bằng kể lại rằng tiếng khóc có tác động cực mạnh tới hệ thần kinh người nghệ sĩ, ông có một tình thương kỳ lạ, một tâm hồn kì lạ, như thể được kết từ những sợ tơ rất mong manh, có thể cảm nhận được nét rung rinh của tạo vật, nắm bắt được cái mơ hổ, hư thoảng của làn hương, của ánh sáng, nhạy cảm vô cùng trước những nỗi nỗi buồn vu vơ hay nỗi sầu nhân thế…

3. Sự nghiệp sáng tác:

TL để lại những tác phẩm: Gió đầu mùa [tập truyện], Nắng trong vườn [tập truyện], Ngày mới [truyện dài], Theo giòng [tiểu luận phê bình], Sợi tóc [tập truyện], Hà Nội băm sáu phố phường [tuỳ bút]. Thạch Lam là người cht chiu cái đẹp và sáng tác của ông là sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất, song tuyệt đối ông không phải một nhà văn thoát li, trong sáng tác của ông nảy nở tràn đầy mối đồng cảm sẻ chia, lòng trắc ẩn với cuộc sống và những người lao động nghèo khổ.

II. Quan điểm, tư tưởng sáng tác và phong cách sáng tác Thạch Lam:

1. Quan điểm, tư tưởng sáng tác:

"Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn." Lời phát biểu đó trong tiểu luận Theo giòng có thể coi là quan điểm sáng tác của nhà nghệ sĩ TL. Ông vừa phản bác lại khuynh hưóng thoát li, quên đời phổ biến trong văn học cùng thời, vừa khẳng định vai trò cải tạo xã hội, vai trò thanh lọc tâm hồn con người của văn chương. Theo đó, văn chương chính là thứ vũ khí chân chính để người nghệ sĩ tác động vào thế giới.

Là một trong số những nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn, song sáng tác TL mang đậm quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Đối với người nghệ sĩ cái đích cần khám phá là bí mật của tâm hồn con người, tâm hồn chính là đích đến cuối cùng của ngòi bút TL.

Về tư tưởng sáng tác của TL, trước hết đó là niềm trắc ẩn mênh mông, thấm thía dành cho những con người bất hạnh mà thanh cao trên mảnh đất nhọc nhằn này. Trắc ẩn [Trắc: cảm thương, ẩn: sâu kín] là niềm cảm thương chân thành sâu xa nhất của con người dành cho đồng loại, là nhân tính đầu tiên và cuối cùng của con người thuộc phạm trù chủ nghĩa nhân đạo. So với rất nhiều nhà văn cùng thời,  TL đã vượt lên trên những thiên kiến của giai cấp và dân tộc để hướng tới tâm hồn và số phận con người với tấm lòng nhân hậu thiết tha. Ông là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, viết về nỗi khổ của những kiếp người bé mọn, bất hạnh, những nạn nhân của cuộc đời, bị cuộc đời đầy ải, nạn nhân của số phận, nạn nhân của chính mình. Âm vang những sáng tác của TL là tiếng nói bênh vực con người, khẳng định giá trị con người. Hình tượng tác giả [thông qua nhân vật xưng tôi hay nhân vật người kể chuyện đằng sau các câu chuyện] trong truyện ngắn TL luôn hiện lên là con người có cái nhìn đầy trân trọng, trìu mến xót xa.

2. Phong cách Thạch Lam:

Phong cách được hiểu là những sắc thái riêng đặc sắc của cá nhân được thể hiện trong sáng tạo của nhà văn. Những sắc thái riêng đó phải được lặp lại ổn định, có tính hệ thống. Tạo nên phong cách nhà văn bao gồm nhiều yếu tố có mối quan hệ với nhau, trong đó có yếu tố hạt nhân. Phong cách có sự vận động theo thời gian.

Phong cách nghệ thuật của TL là sự hoà giải giữa hiện thực và lãng mạn, giữa thơ và văn xuôi, kết tinh thành truyện ngắn trữ tình: tự sự nhưng đầy chất thơ.

Hòa giải được xem là một dạng đặc biệt của trung gian, hoà giải tức là có ý thức dung hoà các đối tượng khác nhau, thường là đối lập, chẳng hạn kịch thơ là dạng trung gian hoà giải giữa thơ và kịch, truyện thơ là dấu nối giữa thơ và truyện… TL vốn là một thành viên của Tự lực văn đoàn, một nhóm nghệ sĩ chủ trương khuynh hướng lãng mạn, trên bề mặt, tác phẩm TL thuộc chủ nghĩa tình cảm, một nhánh của văn học lãng mạn, song ở bề sâu, truyện ngắn của ông lại rất giàu tính hiện thực [Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Đói, Tối ba mươi…]. Có thể khẳng định TL là cây bút lãng mạn giàu chất hiện thực, thực tại trong truyện ngắn TL đã được tâm trạng hoá, thực taị được mô tả theo ý muốn chủ quan của tác giả. TL đã được coi như là một trường hợp điển hình và hiếm hoi cho chủ nghĩa tình cảm trong văn học.

Truyện ngắn TL chủ yếu là truyện ngắn trữ tình, ở đó có sự hoà kết giữa yếu tố tự sự và chất thơ sâu lắng. Trong tác phẩm của mình, TL thường đặt nhân vật vào những tình huống tâm trạng [không phải tình huống hành động, tình huống nhận thức], tức là những sự kiện đặc biệt của đời sống gây nên những biến đổi trong thế giới tình cảm của con người [Đêm ba mươi, Người đàm, Đứa con đầu lòng…]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL là những con người bình thường, có ngoại hình mờ nhạt, số phận không sắc nét [bởi nhân vật chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn, không gian hẹp, như một lát cắt của đời sống thu vào muôn vàn xúc cảm trạng thái bên trong], tính cách cũng có phần hư ảo; chỉ có đời sống duy cảm, nội tâm là sinh động với những cung bậc của cảm giác, cảm xúc, biến thái tâm trạng…Hành động chủ yếu của nhân vật là nghe, lắng nghe sự tác động của ngoại giới, lắng nghe những vận động hết sức mong manh mơ hồ trong tinh thần; nhân vật của TL dường như đều có cốt cách nghệ sĩ, đều đắm chìm vào cảm xúc, còn TL thì trút tâm hồn mình vào nhân vật [Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ…]. Giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm TL là giọng cảm thương với hai sắc thái: Trìu mến, trân trọng và xót xa. Ngôn ngữ TL đầy chất thơ với bảng từ vựng nghiêng về tình cảm, cảm xúc, động từ ít hơn tính từ và động từ gồm nhiều từ chỉ những động thái mơ hồ, mong manh. Lời văn có sự đắp đổi nhịp nhàng về thanh điệu, thanh bằng lấn át thanh trắc, các vế câu có sự hô ứng về thanh điệu. Văn TL lại giàu nhịp điệu, có sức truyền tải cảm xúc thấm thía.

3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL:

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL chủ yếu là những người trí thức tiểu tư sản nghèo và những người dân nghèo.

Thạch Lam không thi vị hoá hình tượng người tri thức tiểu tư sản như các nhà văn lãng mạn cùng thời, nhân vật của ông chân thực và gần gũi, thường được đặt trong những khó khăn, trở ngại, thậm chí cực cùng tuyệt vọng: Đói, Người bạn trẻ, Cái chân què…Ông không miêu tả nhân vật của mình trong quá trình tâm lí mà chỉ đặt nhân vật vào một cảnh ngộ, một tình thế để bộc lộ một nét tâm lí, một khoảnh khắc tâm trạng. Thông thường, đó là những kiểu nhân vật bị tổn thương trước cuộc sống và giải quyết bằng bế tắc.

Thạch Lam viết về những người lao động nghèo khổ với lòng cảm thương sâu sắc, đó là người nông dân lam lũ nơi đồng ruộng, người phải sống kiếp làm than của phố thị, bà mẹ nghèo ở xóm chợ, gia đình người phu xe cùng khổ chốn ngoại ô… Ngòi bút Thạch Lam đầy tinh tế và nâng niu khi viết về những vẻ đẹp, những mong ước khát khao của người lao động nghèo. Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được ngòi bút TL rất mực trân trọng, yếu quý.

III. Một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam:

1. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ":

Tác phẩm rút từ tập Nắng trong vườn, đây là một trong những truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất thể hiện rõ nét tư tưởng và phong cách TL. Có người yêu Cô hàng xén, có người mê Dưới bóng hoàng lan, người khác lại cho Sợi tóc là tuyệt tác của TL… nhưng cùngvới thời gian, càng ngày người ta càng thấy ngôi vị ấy xứng đáng với Hai đứa trẻ hơn. Tác phẩm này bình dị như đời sống mà cũng sâu xa như đời sống! Đề tài truyện viết về cuộc sống người lao động nơi phố huyện nghèo, tập trung vào cảm xúc tâm trạng của nhân vật Liên, một cô gái mới lớn, thông qua đó bộc lộ một cách nhẹ nhàng mà thấm thía xót thương đối với những con người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc nơi phố huyện, đồng thời là niềm đồng cảm, trân trọng với những ước mong khiêm nhường mơ hồ mà tha thiết của họ.

Phố huyện trong Hai đứa trẻ có nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng, nơi tuổi thơ TL đã từng trải, nghĩa là một hình ảnh mang vốn sống rất riêng tư. Câu chuyện nhà văn kể với chúng ta cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là những sinh hoạt thường ngày về một chiều tới khuya của một chị một em theo lời mẹ dặn trông coi một gian hàng tạp hoá bé xíu, lãi lời chẳng bao nhiêu, nhưng ngày nào hai đứa trẻ cũng ngồi đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội vụt qua phố huyện rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Trong lúc chờ tàu, hai chị em [chủ yếu là Liên] ngồi ngắm nhìn, lắng nghe khung cảnh nhịp điệu phố huyện diễn ra trước mắt từ lúc chiều tối cho tới tận khuya. Chỉ bấy nhiêu mà tác giả gợi bao xúc cảm trắc ẩn xót xa trong lòng người đọc.

Sức lay động chủ yếu của Hai đứa trẻ chủ yếu xuất phát từ bức tranh phố huyện và bức tranh tâm trạng, những rung động sâu xa tinh tế trong tâm hồn nhân vật Liên, nhân vật trữ tình hoá thân của tác giả.

Bước vào thế giới Hai đứa trẻ, ta bắt gặp đầu tiên không gian phố huyện nghèo nàn, nhỏ hẹp, văn học 1930 - 1945 hay nói đến những không gian hẹp, chật chội, lãng quên, những tỉnh nhỏ, tỉnh lẻ, phố huyện, ngõ hẻp, ga xép… nhưng ít có miền đất nào thấm thía như cái phố huyện này. Từ bức tranh thiên nhiên từ lúc chiều tà cho tới đêm khuya đến thước phim về đời sống con người diễn ra trong nhịp thời gian ấy, tất cả đều gợi ra vẻ tiêu điều, xơ xác, u sầu, tù đọng. Mở đầu truyện ngắn là khung cảnh chiều tà trong khoảnh khắc hoàng hôn "phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", khung cảnh bình dị, đẹp đẽ quen thuộc ấy vẫn khiến cô gái mới lớn phải ngậm ngùi thảng thốt: "Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru…". Và bỗng dưng cái buồn của cảnh ngày tàn như thấm thía vào tâm hồn chị: "Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao, nhưng chị thây lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Ngày tàn gợi ra tâm trạng u hoài, man mác. Còn chợ tàn gợi sự hiu hắt, xơ xác, tiêu điều. TL chọn ngày chợ phiên, sự chọn lựa đó càng làm rõ nét sự nghèo nàn của chốn quê này. Trên bãi chợ và sân ga hiện ra hình ảnh những cư dân phố huyện, những cư dân kiếm sống ban ngày là những người đi chợ, những đứa trẻ bới rác và chị em Liên. Những người gánh gồng, bán mua sau phiên chợ để lại những rác rưởi toàn những bã mía, vỏ nhãn, vỏ bưởi, vỏ thị… những phế thải thảm hại chứng tỏ cuộc sống nghèo nàn. Họ đi khỏi, lũ trẻ bới rác ùa tới, nhặt nhạnh bòn mót trên đống phế thải tồi tàn, người nọ trông vào kẻ kia mà sống, nhưng chỉ là trông vào vô vọng. Khi những cư dân kiếm sống ban ngày vừa ngập vào bóng tối thì những cư dân ban đêm quanh sân ga từ bóng tối kéo ra. Mẹ con chị Tí có lẽ là những nhân vật điển hình nhất cho cuộc sống lay lắt nơi phố huyện. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre tàn ra sân ga bày hàng nước bán dù biết hầu như chẳng có thể bán được gì. Cuộc sống là một chuỗi ngày cầm cự, cầm chừng trong vô hi vọng. Bác phỏ Siêu lưng vốn có vẻ khá hơn, nhưng nguy cơ cũng đáng sợ hơn, bởi món hàng của bác là một thứ quà xa xỉ ở chốn này. Vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm, não nề. Dễ sợ nhất là bà Thi điên… "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ." Bao quanh họ là những đồ vật tàn, càng khắc đậm thêm gương mặt âm u của phố huyện. Không chỉ miêu tả hiện thực, TL còn thể hiện vòng tuần hoàn tù đọng của hiện thực, tương lai dường như chỉ là sự kéo dài của hiện tại ngán ngẩm. Hai đứa trẻ trong một thế giới già nua, tăm tối, nhọc nhằn!

Bóng tối dày đặc nơi phố huyện làm thành bức phông nền đặc quánh đen kịt, dường như chỉ chực xâm chiếm và nuốt chửng những tia sáng yếu ớt nhỏ nhoi nơi đây. Sự tương phản lấn át giữa bóng tối và ánh sáng, lụi tàn và sự sống gieo giắc vào lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi. Càng bị bóp nghẹt bởi bóng tối và sự lụi tàn, dường như nhân vật trong truyện càng thèm khát sự sống và ánh sáng, từng tia sáng, hột sáng nhỏ nhoi đều được phát hiện bằng đôi mắt nhìn đầy trân trọng nâng niu của hai chị em Liên. Hà Nội của quá khứ vời xa cũng là một biến thể của ánh sáng: Hà nội rực rỡ và huyên náo, những cốc nước xanh đỏ… Đoàn tàu cũng là biến thể của ánh sáng và âm thanh vụt qua để lại một vệt sáng rạng rỡ của khát khao hi vọng.

Vì thế mà hai đứa trẻ và hết thảy những cư dân ban đêm của phố huyện đều cố đợi chuyến tàu đêm đi qua, một chốc lát thoát khỏi bóng tối và sự tĩnh lặng tịch mịch vây hãm cuộc đời mỏi mòn của họ, một lối thoát trong khoảnh khắc và phần nhiều là bằng tưởng tượng, mong chờ. Bời vì con tàu đi qua đã đem theo nó một thế giới khác hẳn với ao đời bằng phẳng tù đọng nơi phố huyện, một thế giới sáng rực, huyên náo vui vẻ, lấp lánh… Song tuởng tượng, ngắm nhìn, lắng nghe, và cả dư vang… tất cả đều chỉ trong chốc lát, đếm tối và sự im lặng mênh mông lại trở về bao bọc. Thông qua bức tranh phố huyện và diễn biến tâm trạng Liên, nhà văn đã gửi tới một tiếng nói đầy xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh, bế tắc, không hạnh phúc, không ngày mai… đồng thời thấu tỏ lòng cảm thông trân trọng đối với những khát vọng mơ hồ âm thầm mà mãnh liệt của những kiếp người tàn ấy muốn vươn lên thoát khỏi thực tại cuôc sống mình. Về nghệ thuật, đây là một truyện không có cốt truyện, như một bài thơ thấm đẫm xót thương, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn trữ tình TL.

2. Nhà mẹ Lê:

Mẹ Lê có một đàn con đông đúc tới 11 đứa, sống trong một phố chợ tồi tàn, mỗi đêm, mẹ con quấn vào nhau ngủ trong một cái ổ rơm, không khác gì một cái ổ chó. Người mẹ đi làm mướn từ tinh                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    sương đến tối mịt để nuôi đàn con. Năm ấy rét mướt, mất mùa, không ai thuê mướn, đàn con mẹ Lê ôm nhau rét run vì đói và lạnh. Mẹ Lê đến nhà ông Bá xin ít gạo, bị chủ xua chó ra cắn, rồi lên cơn sốt, mấy hôm sau thì mất, để lại một đàn con bơ vơ, và những người nghèo khác cảm thấy lo sợ vì "cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ dứt". Đây là truyện ngắn giàu chất hiện thực bậc nhất trong sáng tác của TL, hiện thực đến quá ư đau đớn, phũ phàng. Tác phẩm khiến người đọc thấm thía nỗi xót xa trước thảm cảnh đói nghèo dường như trở thành bi kịch truyền kiếp đầy bế tắc của những kiếp người khốn khổ dưới đáy. Cảm xót thay cho mẹ Lê và đàn con nhỏ, cái sống quá đọa đày cùng cực mà cái chết quá chóng vánh dễ dàng!

3. Gió lạnh đầu mùa:

Đây là một câu chuyện bình dị, sáng trong và đầy cảm động. Trong buổi sớm của những cơn gió đầu mùa, hai chị em Sơn xúng xính trong quần áo ấm thì thấy những bạn bè của chúng lại tím tái trong những bộ quần áo rách sờn. Sơn và chị bàn nhau về lấy áo của nhà đem cho bé Hiên là đứa nhỏ nghèo nhất, đang run rẩy trong mảnh áo tả tơi. Tình người được thể hiện sâu sắc thông qua tấm lòng nhân hậu vô tư và sự ngây thơ con trẻ.

4. Dưới bóng hoàng lan:

Như phần đa các sáng tác của TL, đây là một truyện không có cốt truyện, cũng không chở một ý tưởng nào rõ rệt. Chàng trai tên Thanh ra tỉnh làm việc, sau hai năm có dịp trở về ngôi nhà cũ,thăm lại mảnh vườn có cây hoàng lan toả bóng, gặp lại người bà hiền hậu và cô hàng xóm dịu dàng. Tất cả vẫn như xưa, trong lành, ấm áp, thân thuộc. Bà chàng mái tóc bạc phơ, còn cô gái xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc buông lơi trên cổ nhỏ. Thanh được ngắm nhìn lại cây hoàng lan thân mộc, lá cành xoè rủ tán, màu hoa có nắng vàng và hương mát thơm, dịu dàng hư thoảng. Bữa cơm có Nga cùng ăn, ấm cúng, thấm đầy những săn sóc âu yếm. Họ dắt nhau ra vườn hái hoàng lan như những ngày xa xưa nào. Sáng hôm sau, Thanh ra đi, nhắn gửi lại lời từ biệt cô gái và biết rằng "Nga sẽ vẫn đợi chàng, nhớ mong chàng như ngày trước". Tất cả chỉ là những cảm xúc rất thơ, rất ngọt ngào trìu mến êm ả trong lành: Hạnh phúc là sự yên tĩnh trong tâm hồn, là được sống hài hoà gắn bó trong tình yêu thương, tình người đằm thắm.

5. Tối ba mươi:

Tối ba mươi là khoảnh khắc giao thừa tủi buồn của hai cô gái giang hồ tên là Liên và Huệ. Liên đi mua vội vài món đồ về để cúng tất niên, Huệ ngủ vùi để rồi thức dậy cùng chuẩn bị cho năm mới. Hà thành tối tăm, mưa bụi, nhà săm đã hết khách, chỉ còn chơ vơ hai chị em xa cửa xa nhà. Họ buồn thương cho nhau, họ nhớ về quê hương, tổ tiên, ông bà, nhớ lại những ngày tết nhà quê đầm ấm khi hai người còn ở tuổi thơ trẻ tươi vui vô tư lự. Những thứ nghèo nàn được bày lên ban thờ, và đồ đạc tiều tuỵ, ô uế chung quanh gợi nhắc về đời sống nhục nhằn của họ. Liên và Huệ cùng cố quên đi, cùng cố giấu những ý nghĩ xót xa chua chát, nhưng đến khi bốn bề tiếng pháo cất lên, phút giao thời đã điểm, những giọt nước mắt mà họ cố nén đã trào ra. Truyện ngắn là tấm lòng xót thương của văn sĩ TL hướng tới những phận đời khốn khổ, chẳng tính toan chi đến địa vị thấp hèn và cuộc sống ô nhục của họ.

6. Cô hàng xén:

Đó là câu chuyện về cuộc đời tảo tần với bao buồn vui của một cô gái bán hàng xén ở chợ quê - cô Tâm. Mỗi bận đi chợ về, lòng Tâm thấy ấm lại trong cảnh gia đình với bà mẹ già hiền từ cùng lũ em thông minh, ngoan ngoãn và yêu quý chị. Tâm biết mình xinh đẹp, nhiều con trai hay quẩn quanh, chòng ghẹo, nhưng cô ý thức bổn phận mình trước hết phải lo toan cho gia đình. Gánh hàng xén của cô, và những bước chân của cô trên những con đường khắp chợ này chợ kia chính là nguồn nuôi sống cha mẹ già và lũ em thơ dại. Rồi cô lấy chống, lấy cậu giáo Bài nho nhã nhưng nhà nghèo. Trên vai cô lại thêm gánh nặng gia đình chồng. Cô sinh con, và không ai còn nhắc cô hàng xén xinh đẹp của ngày xưa nữa, cô vẫn tần tảo sớm hôm trên những phiên chợ quê. Cảnh nhà túng thiếu khiến cô càng phải thêm cố gắng. Về thăm mẹ, thăm em, thương em thiếu tiền sách vở, cô liền lấy nốt số tiền đóng học cho chồng đưa cho em rồi quay về với tâm trạng lo lắng, nặng nề. "Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối." Chẳng phải nơi phố huyện nghèo nàn như trong Hai đứa trẻ, nhưng ở nơi thôn quê nghèo đói này, nhịp sống con người cũng quẩn quanh tù đọng với những lo toan, nhọc nhằn, vất vả như thế. Nhan sắc, hiếu thuận như Tâm cũng không thoát khỏi vòng quay của bánh xe đời mỏi mòn vô hi vọng. Dầu thế, cô vẫn giữ được tình yêu thương đắm thắm và đức hi sinh cao quý với gia đình chồng, gia đình mình…

IV. Một số đề luyện tập:

1. Phân tích bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối được TL miêu tả trong truyện ngắn Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của mình.

2. Vì sao hai chị em Liên [Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của TL] đêm đêm cố thức để đợi chuyến tàu đi qua? Thể hiện tâm trạng đợi tàu của Hai đứa trẻ, tác phẩm muốn nói điều gì với người đọc.?

3. Hai đứa trẻ của TL - Một bài thơ trữ tình đầy xót thương.

4. Hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ

5. Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, khi con tàu đã rời ga phố  huyện, TL viết: "Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thê giới khác hẳn đối với LIên, khác hẳn với vầng sáng ngọ đền chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và im lặng." Phân tích đoạn văn trên, kết hợp vơ ới hiểu biết về tác phẩm Hai đứa trẻ, nêu chủ đề tác phẩm và nhận xét giọng văn của TL.

6. Cảm nhận về vẻ đẹp của tình người và của giọng vưn Thạch Lam trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan.

7. Hai đứa trẻ của TL là một truyện ngắn không có cốt truyện nhưng lại hấp dẫn và gợi lên trong người đọc nhiều suy nghĩ. Theo anh [chị], điều gì đã làm nên sức hấp dẫn của truyện và truyện gợi lên trong lòng người đọc những suy nghĩ gì về những cảnh đời cũ trước Cách mạng tháng Tám?

C. Nguyễn Tuân:

I. Cuộc đời, con người:

1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Tuân:

Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, quê gốc của ông chính tại đây. Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan, tức ông tú Hải Văn, một nhà nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng, cũng là một  nhà nho bất đắc chí sống dưới chế độ thực dân phong kiến. Thời niên thiếu, NT đã cùng với gia đình sống nhiều ở các tình miền Trung, Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, nhất là Thanh Hoá.

Gia đình Nguyễn đông anh em, nhưng cuối cùng chỉ còn lại hai anh em, vì thế NT được bố mẹ hỏi vợ sớm, ông lấy vợ khi chưa đầy 20 tuổi. NT học đến trung học ở thành phố Nam Định, ở đây, năm 1929, ông tham gia cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp lăng mạ người An Nam, và ông bị đuổi học. Không chịu được cảnh sống nô lệ, ông đã cùng một số thanh niên có đầu óc lúc bấy giờ rủ nhau đi trốn sang Thái Lan nhưng rồi bị bắt giải về Hà Nội, sau bị giam ở nhà tù tỉnh Thanh [1930]. Ở tù ra, ông làm thư kí nhà máy đèn và bắt đầu cầm bút, làm báo, viết văn. Các truyện ngắn, bút kí và thơ của ông được kí dưới nhiều tên: Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Nguyễn Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc…Ông nổi tiếng từ 1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời… Ngoài văn học, Nguyễn Tuân còn say mê diễn kịch, ông còn là một trong những diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta với vai diễn một y tá trong phim Cánh đồng ma [Quay ở Hồng Kông 1938]. Sau khi xuất bản Vang bóng một thời, ông bị bắt giam và quản thúc một thời gian; sau khi ở trại tập trung về, Nguyễn lại bắt đầu viết và cho in một loạt tác phẩm: Thiếu quê hương [Tuỳ bút 2 tập], Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, Nguyễn…

Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân hồ hởi tham gia kháng chiến, ông theo đoàn kịch tuyên truyền của Thế Lữ, tham dự đoàn sáng tác văn nghệ đi mặt trận Nam Trung Bộ… rồi giữ nhiều chức vị quan trọng trong đoàn quân kháng chiến. Trong thời gian đó, ông đã thai nghén và cho ra đời nhiều tác phẩm phản ánh không khí chiến đấu sôi động của quân dân ta, những năm 60, 70, ông còn viết phê bình văn học.

Nguyễn Tuân hoạt động nghệ thuật trên nhiều phương diện: viết truyện, kí, tuỳ bút, phê bình văn học, dịch thuật, đóng phim, diễn kịch… Ông là một trong những nhà văn tham gia tích cực vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc  Mĩ. Bằng ngòi bút tài hoa và tâm huyết của mình, ông đã góp phần không nhỏ vào việc ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu, sản xuất và xây dựng.

Nguyễn Tuân mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, được phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

2. Con người:

NT là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà…, những nhạc điệu hoặc đài các của lối ca trù, hoặc dân dã thiết tha của giọng hò Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ… những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ…, những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt.

Ở NT, ý thức cá nhân phát triển rất cao, ông viết văn trước hết để thể hiện cá tính độc đáo của mình. Ông ham thích du lịch, tự gán cho mình chứng bệnh gọi là "Chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông  không thể dung hoà với chế độ cũ.

Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy viết văn nhưng ông còn am hiểu tinh tường nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Ông là diễn viên kịch nói có tài và là diễn viên điện ảnh đầu tiên của nước ta. Ông thường vận dụng con mắt cuẩ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.

NT là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước CM tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đó không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh", và ông đã lâý cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.

II. Sự nghiệp sáng tác và phong cách văn chương:

1. Sự nghiệp sáng tác:

Trước cách mạng, tác phẩm Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh ba đề tài chính: Chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời và đời sống truỵ lạc. Các tác phẩm chủ yếu: Một vụ bắt rượu lậu, Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Ngọn đèn dầu lạc [Phóng sự], Thiếu quê hương, Xác ngọc lam, Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua, Tuỳ bút I, Tuỳ bút II, Tóc chị Hoài, NHững đứa con hoang, Vô đề [Lột xác], Nguyễn.

Sau Cách mạng, ngòi bút ông hướng về nhân dân lao động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, tất cả nhân vật của Nguyễn đều có vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp cuẩ mình, ông còn miêu tả thiên nhiên hùng vĩ đẹp tuyệt trên khắp mọi miền tổ quốc. Các tác phẩm: Chùa Đàn, Đường vui, Tình chiến dịch, Thắng càn, Chú Giao làng Seo, Bút kí đi thăm Trung Hoa, Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, Truyện một cái thuyền đất, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Ký, Tuyển tập Nguyễn Tuân, Chuyện nghề, Cảnh sắc hương vị đất nước…

2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:

Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản, đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc. Một cái ngông vừa có màu sắc cổ điển tiếp nối truyền thống của những nhà nho bất đắc chí kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà… và trực tiếp hơn, của Tú Lan, thân sinh ra nhà văn; vừa có màu sắc hiện đại tiếp thu ở chủ nghĩa siêu nhân của Nít -sơ, quan niệm con người cao đẳng của Git-dơ và những tư tưởng nổi loạn khác thường thấy trong văn học phương Tây hiện đại. Ngông là một sự chống trả với mọi thứ nề nếp, phép tắc, mọi thứ đạo lí thông thường của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Đó là đặc điểm của tất cả những nhân vật ưa thích nhất của Nguyễn Tuân trong các tác phẩm của ông trước Cách Mạng tháng Tám.

Nhu cầu chơi ngông buộc NT phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết, độc đáo không tiền khoáng hậu. Bên cạnh phía tiêu cực của thói ngông, trên con đường thể hiện cái độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã có những tìm tòi tích cực, đạt tới những giá trị thẩm mĩ thực sự. Thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa của mình, mỗi trang viết NT đều có sức hấp dẫn riêng. Nhân vật của ông thuần một loại tài hoa tài tử, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, dù trong nghề nghiệp gì, từ những ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao trong Vang bóng một thời, ông Thông Phu, cô Đào Tám trong Chiếc lư đồng mắt cua, đến anh chàng Hồ chữa xe đạp trong Hai tâm vé số "chơi đàn cải lương nổi tiếng", hay viên thư kí dây thép nào đó trong Chiếc lư đồng… mỗi lúc xuân tới, thu về, nhìn những phong bì thư đẹp và thơm của những cặp tình nhân gửi cho nhau lại nổi hứng muốn lấy "son tàu mà đóng dấu niên hiệu cho họ" chứ không nỡ "đóng cái mực đen nhà nước"… Nói cho cùng, tất cả cũng chỉ là những hoá thân khác nhau của anh chàng Nguyễn đó mà thôi, con người ấy sinh ra là để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa.

Sau cách mạng tháng Tám, khi nhà văn đã làm lành với xã hội và ngày càng hoà mình vào cuộc sống của nhân dân thì thế giới nhân vật của ông không còn thu hẹp và mang tính chủ uan quá nặng như thế, nhưng cái chất tài hoa tài tử thì vẫn còn là phong thái riêng mỗi nhân vật của ông. Đó là anh tự vệ sao vuông hồi đầu kháng chiến, chọc chọc lưỡi lê xuống bóng trăng nơi vũng nước hầm hào mà mắng yêu chị Nguyệt [Đường vui], là anh bộ đội chống Pháp trên chiến trường Tây Bắc nguỵ trang bằng cành hoa đào và đuổi giặc giữa rừng đào [Tình chiến dịch], là những pháo thủ thủ đô thời chống Mĩ, trong chiến đấu vẫn hào hoa thanh lịch [Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi], là những chính trị phạm trong nhà tù Sơn La năm nào đấu tranh để được ngắm trăng đêm trung thu, là người tù cộng sản Tô Hiệu "trước khi khuất đi còn lẩy cái câu Kiều đào đông cười gió", là những cô lái đò Tây Bắc có dáng vóc rất "tạo hình" trên những con thuyền đuôi én cao vút, và những ông lái đò vượt thác sông Đà "tay lái ra hoa"…

Không chỉ nhân vật, cả sự vật được miêu tả trong văn Nguyễn Tuân dẫu chỉ là cái ăn, cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá mỹ thuật. Mỗi điểm quan sát của ông phải là một đối tượng khảo cứu đến kỳ cùng. Thể hiện phong cách này, lối viết của Nguyễn thường tập trung vào một điểm và vận dụng một cách tổng hợp khảo sát của nhiều ngành văn hoá khác nhau để đào sâu cho đến "sơn cùng thuỷ tận". Vì thế, có những hiện tuợng, đối với những cây bút khác tưởng như chẳng có gì đáng nói, nhưng NT thì có thể viết mãi hết trang này đến trang khác, ông lật mặt này, trở mặt khác, xoay ngang, xoay dọc, nhìn xa, nhìn gần, khi thì bằng cặp mắt văn học, khi thì bằng cặp mắt hội hoạ, điêu khắc, vũ đạo hay điện ảnh, khi lại soi bằng cặp kính của nhà sử học, địa lí học, địa chất học, vật lí học, côn trùng học… Nguyễn đã đếm, đã tính cho ta nghe có bao nhiêu tên làng, tên xóm, bao nhiêu loài cá, loài chim, bao nhiêu thứ gỗ quý…

Người ta còn nói đến cái máu giang hồ xê dịch của Nguyễn Tuân, chính ông cũng thường tự khoe khoang như thế. Con người ấy coi sống chỉ là để thực hiện cá tính của mình, đi đâu, ở đâu cũng chỉ là để tìm mình, nhưng là phải tìm mình trong nhân loại, phải chen vai thích cánh giữa chốn đông người. Đó là con người của thành thị, phố xá, của nhà ga, bến tàu, của ca lầu, tửu quán, hí viện… Không phải ngẫu nhiên mà những trang viết hay nhất của Nguyễn có những trang viết về chợ búa: chợ tết Hồng Kông, chợ trời Cống Thần, chợ tàu Ải Khẩu… Hiếu động nên thích đi, đi để "thay thực đơn cho giác quan" và tất nhiên phải bằng những điều mới lạ, bất ngờ và mãnh liệt: "tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn". Nguyễn Tuân không thể chịu nổi cái gì chung chung, nhạt nhạt, bằng phẳng, hời hợt, quanh quẩn, đơn điệu, coi đó là "một nguồn sống bồng bột tắc lối thoát" [Tóc chị Hoài]. Nguyễn không thích cái gì yên ổn, mực thước, khuôn phép, ông gọi thế là lối công chức trong đời sống văn chương. Ông đã từng luận về hai chữ "tung" và "hoành" trong nghệ thuật. Hoành là mực thước, thiếu cảm hứng mãnh liệt, tung là tạo ra tiếng vang dôi ầm lên, là hành binh bằng cuộc đại tấn công, là tìm tòi, mạo hiểm, là cảm xúc mạnh, hơi thở nồng… Con người ấy đã yêu thì yêu mê đắm, đã ghét thì phải căm thù, đã uống rượu thì phải uống cả cấn, đã đi thì đi đến ngọn nguồn lạch sông, đã tìm hiểu thì phải đến ngọn ngành gốc rễ… Trước Cách mạng tháng Tám, nét phong cách sâu đắm này gắn với chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, thái độ sống vô trách nhiệm. Sau cách mạng, xê dịch gắn với mục đích cách mạng, đi công tác, đi thực tế, đi để gắn bó quê hương đất nước mình.

Đọc Nguyễn Tuân, một mặt thấy rõ ông rất thời sự, trẻ trung, hiện đại, mặt khác lại thấy có gì rất đỗi đĩnh đạc, cổ kính, cổ điển.Trước đây, cái cổ điển thường chiếm ưu thế, ông quan niệm đời sống cơ khí hiện đại giết chết cái đẹp, đối với hiện đại nhỡn tiền ông chỉ thấy chất văn xuôi phàm tục. Ông hoàn toàn thoát li thực tại, đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại mà ông gọi đó là "Vang bóng một thời". Hồi đó, ông thường đối lập xưa với nay, cổ với kim, ông tự cho mình thuộc lớp người "sinh lầm thế kỷ". Không ai tri kỷ, ông tự dựng lên những nhân vật như phu nhân họ Bô, chị Hoài.. những con người của thời cũ còn sót lại để làm nơi ẩn dật của tâm hồn mình. Đối với những vẻ đẹp tàn tích của thời xưa, giọng văn của ông bao giờ cũng đôn hậu, buồn tủi, ngậm ngùi. Cái "mỹ học hoài cựu" đó khiến ông không ngừng phục chế lại những bức tranh cũ, những bức tượng cổ, những tấm bia tàn… Sau cách mạng, ông lại tìm mọi cách đào thải tất cả mùi hoài cựu đã trở thành cố nhân trong lòng mình, mãi về sau, kể từ "Sông Đà", ông mới quay về tìm những cũ xưa, tìm vẻ đẹp cổ điển trong cái đẹp ngày nay.

Cá tính và phong cách Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tuỳ bút như là tất yếu bởi trong văn học, có lẽ đó là thể loại chủ quan nhất và tự do nhất. Đây là một đóng góp của ông về thể loại văn học, tất cả sự hấp dẫn của tuỳ bút, xét đến cùng phụ thuộc ở chỗ cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không, điều ấy nói rằng không phải ai cũng có thể trờ thành nhà tuỳ bút xuất sắc như Nguyễn Tuân.

Nói đến văn chương Nguyễn, cũng cần phải nói đến những tìm tòi trong cách diễn đạt ý, tả cảnh, trong cách đặt câu, dùng từ. Nguyễn Tuân thuộc số những nhà văn yêu tha thiết và hiểu sâu sắc tiếng mẹ đẻ. Ông sống với từng hình ảnh khắc hoạ, từng câu viết, từng từ đặt trên trang giấy. Đọc Nguyễn, nhà tu từ học tìm được nhiều bằng chứng thú vị về những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… Trước CM, lối chơi ngông và chủ nghĩa độc đáo của Nguyễn Tuân thường dẫn đến những lối ví von chính xác, mới lạ, thậm chí oái oăm: "Ông thử roi vào mặt trống, rồi uốn hai đầu xuống, thân roi ưỡn ngửa mãi lên như lúc người đàn bà tránh một cái hôn bạo" [Đời roi]. "Đè lên màu tang bầu không khí u muộn, chất bóng cốc pha lê nổi bật hẳn lên như nét cười của một người công binh lúc tắt nghỉ." [Lại đi nữa]. Ông có một vốn từ ngữ hết sức phong phú mà ông đã cần cù tích luỹ, cần cù sáng tạo, chữ nghĩa như đổ tràn trên mặt giấy để khoe tài, phô tài. Thêm nữa, ông lại có biệt tài tổ chức câu văn xuôi giàu chất tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng và biết co duỗi nhịp nhàng…

Phong cách nghệ thuật Nguyên Tuân có những cơ sở tích cực: Lòng yêu nước, yêu cái đẹp, trọng nhân cách cao thượng và tài năng. Trước cách mạng, đó là phẩm chất của một trí thức chân chính, sau cách mạng, phẩm chất ấy được phát triển trên lập trường của một nhà văn chiến sĩ.Với những cống hiến phong phú, độc đáo, không ai thay thế được trong lịch sử văn học hiện đại VN, Nguyễn Tuân xứng đáng được trân trọng như một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn.

III. Một số tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng Tám:

1. Chữ người tử tù:

Phải nói rằng Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân. Nhân vật này không chỉ như một kẻ tài hoa tài tử thường gặp trong văn Nguyễn, hơn thế, đây còn là một đấng anh hùng. Trong nhân vật này có sự kết hợp lí tưởng giữa con người hào kiệt và con người nghệ sĩ. Huấn Cao là một chân dung sắc sảo, phi phàm được viết theo lối lí tưởng hoá của ngòi bút lãng mạn. Cả tài hoa, thiên lương, khí phách nhân vật đều mang tầm vóc vĩ đại, phi thường. Sự tài hoa của Huấn Cao chỉ có thể được nổi bật khi người đọc am tường một nghệ thuật có nguồn gốc cổ xưa và hết sức cao siêu: Thư pháp - nghệ thuật viết chữ đẹp. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của người thợ khéo tay, hay chữ quen việc, thạo nghề. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp lầ một lần sáng tạo. Mỗi nét bút tập trung và kết tụ tinh hoa, tinh huyết của người nghệ sĩ, mỗi nét chữ là sự thấu suốt những  khát khao thầm kín, mãnh liệt chất chứa trong tâm khảm, nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết, phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh và rất đẹp, không chỉ vì đẹp lắm, vuông lắm, mà quan trọng hơn là "những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên hoài bão tung hoàng của một đời người". Có như vậy người đọc mới cắt nghĩa được tại sao "có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời". Nó trở thành mơ ước cả cuộc đời quản ngục, và để đạt được sở nguyện, quản ngục đã không nề hà coi thường cả quyền lợi của một viên quan và cả sự an nguy đến sinh mệnh mình.

Không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao còn là kẻ anh hùng khí phách hơn người. Để khắc hoạ phẩm chất kiên cường bất khuất của HC, Nguyễn Tuân đã dùng rất nhiều chi tiết đặc tả: nào việc chọc trời khuấy nước, nào việc mắng quản ngục bằng những lời khinh bạc đến điều, rồi tư thế viết chữ rất ung dung đường bệ… Chỉ cần một chi tiết "rỗ gông" thôi, lập tức khí phách phi thường của HC đã hiển hiện, hằn lên như một ấn tượng. Đó là hành động biểu thị tự do, cho thấy việc gì nhân vật muốn làm là làm, dù khó khăn đến đâu và có được sự cho phép hay không. HC cứ thế đi sừng sững hết sinh mệnh của mình trong thế giới câu chuyện.

Đâu chỉ có tài hoa khí phách không thôi, HC còn có một tấm lòng thiên lương thuần khiết nằm ngay trong cái vẻ ngoài kiêu bạc, gai góc. Hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở thích cao quý của thầy quản, ông Huấn vô cùng xúc động, ông đã ân hận chân thành: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Lời nói hé mở lẽ sống của Huấn Cao, sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Chính điều này đã làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên trọn vẹn, hoàn chỉnh. Không có một cảm hững lãng mạn, bay bổng, một bút pháp lí tưởng hoá nhuần nhị của Nguyễn Tuân, không có một Huấn Cao hoàn mĩ đến vậy!

Nhân vật thứ hai của tác phẩm không thể không nhắc tới đó là viên quản ngục. Bởi vì Chữ người tử tù được xây dựng trên một tình huống oái oăm, giàu kịch tính, có thể gọi là cuộc kì ngộ giữa viên quản ngục và Huấn Cao. Không gian: nhà tù; thời gian: vài ngày trước khi Huấn Cao chịu án chém; thân phận: éo le: Trên bình diện xã hội, họ là những kẻ đối nghịch, trên bình diện nghệ thuật, họ lại là những tri kỉ, tri âm. Ở một góc độ khác, đây còn là sự đối mặt giữa hai loại nhà từ, hai kiểu tù nhân: Một người tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về nhân cách, người kia luôn tự do về nhân cách nhưng lại bị cầm tù về nhân thân. Chọn tình huống ấy, Nguyễn Tuân đã đặt viên quản ngục trước một lựa chọn có tính xung đột: một bên là bổn phận một bên là tấc lòng tri kỉ. May thay, viên quản ngục kia là một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ngay cả khi bị HC tỏ ra khinh miệt bằng những lời khinh bạc đến điều. Những kẻ tri âm chỉ đến được với nhau bằng tấc lòng tri kỉ, và cuối cùng thì HC đã nhận ra tâm hồn trong trẻo cao quý bên trong con người nhà nước kia. Không cúi đầu trước đồng tiền và quyền lực, Huấn Cao chỉ cúi đầu trước một tấm lòng, đó chính là cốt cách "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" của Cao Bá Quát- nhân vật lịch sử đã gợi nguồn cảm hững để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng HC này. HC thuận cho chữ, lòng ông đã mở ra để đón một tri âm, tri kỉ.

Phần cuối Chữ người tử tù là kết tinh vẻ đẹp nhân vật và tư tưởng, ngòi bút tài hoa Nguyễn Tuân. Cho chữ trước hết là việc một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Ở đây, người ta thấy cái Tâm đang điều khiển cái Tài, cái Tài đang phụng sự cái Tâm, chúng hoà kết lại với nhau để tạo ra cái Đẹp. Không phải ngẫu nhiên mà NT cho rằng cho chữ là "cảnh xưa nay chưa từng có", việc cho chữ vốn chỉ diễn ra ở những nơi cao nhã, còn ở đây, nó diễn ra giữa nhà tù, nơi ngự trị của Bóng Tối, cái Ác, những thứ thù nghịch với cái Đẹp, vậy mà NT đã chọn chính nơi đây để cho cái Đẹp khai sinh.

Bút pháp lãng mạn được phát huy tận độ, cảnh cho chữ được viết theo lối tương phản nhuần nhuyễn, gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái thiện và cái ác, cao cả và thấp hèn, cái đẹp và sự tầm thường… Trên nền đen kịt của trại giam, bừng lên một ngọn đuốc, tạo thành một vừng sáng vừa rực rỡ vừa trang trọng. Bên dưới ngọn đuốc là ba con người chụm đầu chung quanh một vuông lụa trắng. Một người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô từng nét chữ". Vuông lụa trắng là điểm trung tâm của vùng sáng ấy, trên đó, từng nét chữ đang được tượng hình, cái đẹp đang được chào đời. Nghệ thuật ngôn ngữ điêu luyện đã tạo ra một thước phim đầy ấn tượng đậm chất tạo hình. Trong khung cảnh này, người ta thấy được cuộc đảo lộn ghê gớm về vị thế của các nhân vật, ranh giới cai ngục và từ nhân vị xoá bỏ, chỉ còn những người bạn đang châu tuần bên cái Đẹp. Cái Đẹp lên ngôi, cái đẹp của nhân cách, tài hoa và cả thiên lương. Với cảnh cho chữ, NT đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự bất diệt của cái đẹp, niềm tin thuộc về chủ nghĩa nhân văn ấy làm nên ý nghĩa vô giá của tác phẩm Nguyễn Tuân.

2. Một sô truyện ngắn khác trong Vang bóng một thời:

Truyện ngắn trong VBMT toàn những người, những việc Nguyễn Tuân được nghe kể: Ngôi mả cũ kể chuyện cụ Hồ Viễn vốn là tướng Cờ Đen; Bữa rượu máu có mặt "quan công sứ", chuyện trong Đánh thơ vào khoảng đời Thành Thái, dầu Duy Tân…đó là những chuyện kể lịch đại đối với nhà văn, những chuyện kể về người tài hoa, tài từ, có tâm hồn nghệ sĩ, biết thưởng thức cái đẹp, có thú vui tao nhã. Nguyễn Tuân cảm tình những cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ chùa Đồi Mai, cả "người ăn mày cổ quái" biết thưởng thức một chén trà trong sương sớm [Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm]. Ông ca tụng cụ Kép làng Mọc "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý", "mùa xuân cùng vài người bạn tri âm, tri kỷ ngồi thưởng hoa, uống rượu, ngâm thơ" [Hương cuội]. Ông kể lại một cách thán phục cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu "đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày, đánh cờ bằng miệng, chứ không phải bằng tay đụng quân" [Ngôi mả cũ]. Ông thích thú với các trò chơi đánh thơ, thả thơ mà ông dành liền hai truyện tả tỉ mỉ, chi tiết [Thả thơ, Đánh thơ]. Cũng là nười thích ngắm cảnh chùa chiền, dạo chơi sông núi, xem phong cảnh đó đây, ông tỏ một mối cảm tình nồng nhiệt với Cử Hai, một người tài hoa giang hồ, lấy việc dạy học là một mưu hồ khẩu mà lại y như là "đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích", quanh năm đi khắp bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc, "ngồi giảng bài chưa ấm phòng học đã quẩy khăn tráp lên đường". Đặc biệt là nhà văn thương cảm ông Phó sứ Lăng và cô Mộng Liên, cũng là một đôi vợ chồng lãng từ giang hồ sống cuối đời Thành Thái, ra bắc vào nam đi đánh thơ, rồi khi qua Hoành Sơn quan, thấy cảnh đẹp, lòng si tình, hai người yêu nhau giữa một vùng trời nước bao la ngay dưới chân ngọn ải. Ông trúng cơn gió độc đã hoá ra ma chết đường, "mộ để sát ngay bên đường thiên lí", còn cô Mộng Liên thì thành "người goá bụa đạng lúng túng tìm người giữ cho cây đàn". ..

Tóm lại, những thú ăn chơi tao nhã trong VBMT là những thú vui của cha ông ta ngày trước, không ngoài cầm kỳ thi tửu mà các cụ thường ca tụng trong thơ văn. [Ngoại lệ là hai truyện Bữa rượu máu và Chữ người tử tù. Bữa rượu máu nói về cái tài của tên đao phủ Bát Lê, chém đầu những người bị án trảm một cách gọn ghẽ, không đến hai nhát. Ngòi bút của Nguyễn tuồng như khách quan, lạnh lùng, song ẩn giấu sự căm phẫn và nỗi đau xót của ông đối với những vụ hành hình những người yêu nước đầu thế kỉ XX.] Tập truyện là sự tôn vinh những giá trị truyền thồng tốt đẹp của dân tộc, không chỉ là những thú chơi, đằng sau đó là cách di dưỡng tâm thần, là cái đạo của người tài tử, là lối sống của kẻ nghệ sĩ.

Về văn phong, có thể nói VBMT có giọng điệu ngôn ngữ trong sáng đến kinh ngạc, khác hẳn với giọng khinh bạc, sâu cay, bừa bãi, ngạo đời trong những tác phẩm khác của ông trước cách mạng, cho nên nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng tác phẩm đã đạt "gẩn tới sự toàn thiện toàn mỹ".

IV. Một số đề luyện tập:

1. Cảm nhận của anh/chị về cái tài và cái tâm của Nguyễn Tuân thể hiện qua truyện ngắn Chữ người tử tù.

2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù, từ đó nhận xét nghệ thuật khắc hoạ nhân vật của nhà văn.

3. Phân tích cảnh cho chữ để làm rõ: đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ.

4. Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân.

5. Phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám thể hiện trong Chữ người tử tù.

PHẦN KẾT LUẬN

Văn học lãng mạn VN là tiếng nói của tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức thành thị đã thoát li phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, con đường văn chương lúc bấy giờ, đối với một số tiểu tư sản trí thức là một lối thoát li trong sạch, một nơi có thể gửi gắm tâm sự yêu nước thầm kín cùng những tình cảm, tư tưởng của cá nhân.

TL vốn là một thành viên của Tự lực văn đoàn, một nhóm nghệ sĩ chủ trương khuynh hướng lãng mạn, trên bề mặt, tác phẩm TL thuộc chủ nghĩa tình cảm, một nhánh của văn học lãng mạn, song ở bề sâu, truyện ngắn của ông lại rất giàu tính hiện thực. Thạch Lam viết về những người lao động nghèo khổ với lòng cảm thương sâu sắc, đó là người nông dân lam lũ nơi đồng ruộng, người phải sống kiếp làm than của phố thị, bà mẹ nghèo ở xóm chợ, gia đình người phu xe cùng khổ chốn ngoại ô… Ngòi bút Thạch Lam đầy tinh tế và nâng niu khi viết về những vẻ đẹp, những mong ước khát khao của người lao động nghèo. Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được ngòi bút TL rất mực trân trọng, yếu quý.

Khác hắn với TL, Nguyễn Tuân tìm lối thoát li hiện tại bằng chủ nghĩa xê dịch, đời sống truỵ lạc và tìm về với những vẻ đẹp một thời vang bóng. Những tác phẩm của ông thể hiện thái độ bất mãn của tầng lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đả phá thực tại song lại rơi vào bế tắc. Con đường tìm về với những gía trị tinh thần, những thú vui tao nhã truyền thống của dân tộc khiến tác phẩm NT, đặc biệt là Vang bóng  một thời mang giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời thể hiện được tấm lòng yêu nuớc và ngòi bút đặc biệt tài hoa họ Nguyễn. Hai nhà văn, hai tính cách, hai số phận, hai con đuờng văn chương khác nhau, một hướng về con người bình dân với lòng trắc ẩn thiết tha, một hướng về những con người tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp, lối sống của mình với tấm lòng trân trọng hoài nhớ; một theo chủ nghĩa nhân đạo, một hướng về chủ nghĩa nhân văn; một giọng văn dịu dàng trìu mến thấm đẫm chất thơ và thương cảm, một giọng điệu gai góc, ngạo nghễ, khinh đời, kiêu bạc… Mỗi người một vẻ, song những tác phẩm của họ sẽ còn ở lại với thời gian, bởi vì đó là hai gương mặt điển hình của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 -1945 với những đóng góp đầy ý nghĩa cả về nội dung và nghệ thuật.

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

2. Cơ sở lí luận:

3. Cơ sở thực tiễn:

4. Mục đích nghiên cứu:

PHẦN NỘI DUNG

A. Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

I. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn hoá

II. Sự vận động của văn học theo tiến trình hiện đại hoá

II. Trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945

III. Tự lực văn đoàn [1933-1942]

B. Thạch Lam

I. Tiểu sử và con người, sự nghiệp sáng tác

1. Tiểu sử

2. Con người

3. Sự nghiệp sáng tác

II. Quan điểm, tư tưởng sáng tác và phong cách sáng tác Thạch Lam:

1. Quan điểm, tư tưởng sáng tác

2. Phong cách Thạch Lam

3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn TL

III. Một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam

1. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ"

2. Nhà mẹ Lê

3. Gió lạnh đầu mùa

4. Dưới bóng hoàng lan

5. Tối ba mươi

6. Cô hàng xén:

IV. Một số đề luyện tập

C. Nguyễn Tuân   

I. Cuộc đời, con người

1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Tuân

2. Con người

II. Sự nghiệp sáng tác và phong cách văn chương

1. Sự nghiệp sáng tác

2. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

III. Một số tác phẩm trrước Cách mạng tháng Tám

1. Chữ người tử tù

2. Một số truyện ngắn khác trong Vang bóng một thời

IV. Một số đề luyện tập

PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Văn học Việt Nam 1930 - 1945

2. Thạch Lam - Tác giả tác phẩm

3. Tuyển tập truyện ngắn Thạch Lam

4. Nguyễn Tuân - tác gia tác phẩm

5. Tuyển tập Nguyễn Tuân

6. Nguyễn Tuân - nhà văn và tác phẩm trong nhà trường

7. Sách giáo khoa, sánh giáo viên Ngữ văn 11, tập I

8. Các tài liệu khác

Chủ Đề