Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh mọi người cần phải làm gì?

Về học và làm theo Bác như nào cho có hiệu quả

2021-11-05 13:36:00.0

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dễ hay khó, như thế nào cho hiệu quả? Trả lời được câu hỏi này, mới có thể nhận thức đúng và có hành động đúng, không rơi vào sự giáo điều, máy móc, dẫn đến mất phương hướng trong chỉ đạo, và trong thực hiện học tập và làm theo Bác.

DỄ HAY KHÓ

Thực sự, ai đó đặt mục tiêu, học, làm theo Bác để trở thành một người như Bác - điều đó là khó có thể. Bởi để trở thành một người dành trọn niềm tin, sự tôn kính của cả dân tộc cũng như của nhân loại tiến bộ như Bác là cả một quá trình học tập, rèn luyện vất vả và quá trình ấy cũng phải diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt.

Nhưng học và làm theo Bác chắc chắn không phải là cái gì đó quá cao siêu. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là chuẩn mực của tất thảy những việc diễn ra trong cuộc sống thường ngày, khi thật tâm, thì soi chiếu vào đó, ai cũng đều có thể thấy được những việc mình có thể học theo, làm theo Người.

Đó có thể là một thái độ ứng xử, hoà nhã, đúng mực của người cán bộ trong mỗi lần tiếp xúc với dân; là sự nêu cao trách nhiệm, làm hết việc, chứ không làm hết giờ trong thực thi công vụ hàng ngày của mỗi người. Đó cũng có thể là một hành động sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ; hay chỉ là sự sẵn lòng chia sẻ khó khăn với người khó khăn hơn mình… Làm tốt những điều này chính là mỗi người đã học làm theo tấm gương hết lòng phục vụ nhân dân; tình đoàn kết, thương yêu đồng chí, thương yêu con người - những giá trị đạo đức tốt đẹp được kết tinh trong con người của Bác.

Những điều học Bác thời gian qua đã được hiển thị trong nhiều công việc trong cuộc sống của người dân. Có thể kể gần đây nhất, trong những ngày tháng, khi cả nước gồng mình chống chọi với dịch COVID-19, biết bao tấm gương sống đẹp, sống trách nhiệm với xã hội đã xuất hiện, và những tấm gương này ở mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh, điều kiện. Có cụ già ngoài 80, không quản mệt nhọc đã mang góp quả bí đao, mớ rau muống nhà trồng được; có em nhỏ nhịn ăn sáng để góp 100.000đ; người có điều kiện hơn thì góp tiền mua gạo, mua thiết bị y tế, mua thuốc men để trợ giúp người nghèo, người bệnh…; và, có người góp công, góp sức, ngày đêm không quản nắng mưa canh chốt, nhắc nhở người dân chấp hành kỷ luật trong đợt dịch… Còn nhiều việc tốt lớn, nhỏ khác của người dân, của người cán bộ trong đời thường, trong công việc không thể kể hết. Nhưng tất cả đều toát lên ở đó là trái tim nhân hậu, một lòng giúp đỡ, yêu thương đồng bào với mong mỏi đại dịch qua mau để đất nước từ bắc chí nam, để thế giới lại bình an như ngày nào. Đó là những việc làm từ tâm, là sự yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, là tư duy độc lập, sáng tạo, là cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn… Những việc làm tưởng chừng giản dị đời thường ấy nhưng đó chính là những việc làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác là vô cùng rộng lớn, nhưng nói học và làm theo Người không khó là như thế.

Học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không khó. Ai cũng có thể làm. Thế nhưng tại sao, mỗi khi đánh giá, chúng ta lại tỏ ra lúng túng? Tại sao vẫn khó khăn trong phân biệt việc học Bác, làm theo Bác và những việc tốt bình thường ngày? Đây cũng là lý do thời gian qua, có địa phương đơn vị nhận định, việc làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức của Người vẫn chưa đi vào chiều sâu, và chưa thực chất.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam; về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng nhân văn và văn hóa.

ĐỂ THỰC SỰ HIỆU QUẢ

Để thực hiện học tập và làm theo Bác thực sự hiệu quả, có 3 việc cần lưu tâm:

Thứ nhất về học tập,cần tổ chức và đổi mới hình thức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác hơn nữa. Phải hiểu Bác mới làm theo Bác đúng được. Phải hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác là gì thì mới tự giác làm theo Bác hiệu quả. Thực tế, cũng có những điển hình được khen thưởng trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở nhiều cấp, nhưng khi được hỏi đã học và làm theo Bác ở điểm nào thì lại rất lúng túng. Chính vì vậy, chưa thể nói nhiều đến việc làm sao làm theo Bác cho hiệu quả khi chưa hiểu thật sâu sắc về Người. Đây là điểm rất cần được khắc phục tới đây.

Việc học là sự nghiệp suốt đời của mỗi người. Học theo Bác cũng vậy, cần là việc học thường xuyên liên tục. Đó là việc tự học, tự trau dồi mỗi ngày; học từ tổ chức, từ tập thể nơi mình sinh sống, làm việc; có thể học qua sách vở, học qua các tấm gương, qua các mô hình điển hình; học qua truyền miệng, qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Đã có nhiều cách làm sáng tạo, linh hoạt từ các địa phương và các tổ chức. Bên cạnh những cách học truyền thống như vậy cũng có một số cách học đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp thu đó là học tập, truyền dạy thông qua việc khai thác những câu văn, thơ, câu nói ngắn gọn, những điển ngữ mà Người đã sử dụng để người học dễ nhớ, dần thẩm thấu tu tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Và trong từng lĩnh vực cụ thể, trong từng thời điểm cụ thể, Bác cũng có những câu nói trở thành chân lý của thời đại. Kho tàng tư tưởng, đạo đức, phong cách của của Chủ tịch Hồ Chí Minh những câu nói dễ nghe và dễ nhớ; khi nhớ thì dễ ngấm và khó quên. Nếu khai thác tốt nguồn tư liệu này, các cá nhân, các đơn vị, tổ chức tiếp tục tổ chức vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể, phù hợp, điều này sẽ khiến cho cán bộ, quần chúng thêm hiểu sâu, từ đó ngấm dần tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, từng bước làm theo và đặc biệt dần hiểu mình đã vận dụng, làm theo Bác được điểm nào.

Cùng với đó việc học tập có thể bằng cách các tổ chức, đơn vị khai thác, tận dụng tối đa các diễn đàn, các nền tảng công nghệ để lồng ghép, hướng dẫn và “lôi kéo” công chúng cùng tham gia tương tác về những chủ đề cụ thể liên quan đến tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chỉ khi tiếp xúc thường xuyên bằng nhiều cách, công chúng sẽ phải liên tục tìm đọc, nghe, xem… và cứ đều đặn như vậy, tư tưởng, đạo đức, phong cách, những câu nói giản dị nhưng sâu sắc, mang tầm thời đại của Người sẽ thấm dần vào tâm trí người được tác động và đó là cơ sở để biến những điều trên giấy tờ thành những hành động cụ thể.

Thứ hai về làm theo,học, hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác rồi, nhưng điều đó chỉ thật sự có giá trị khi những điều đã học được hiện thực hóa trong cuộc sống, trong từng công việc. cần phải tiếp tục đổi mới, sáng tạo hơn trong cách làm, đặc biệt là cần phải gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị.

Ví dụ: các cơ quan làm công tác ngoại giao có thể học tập làm theo tư tưởng: Dĩ bất bất biến ứng vạn biến, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc trong đối ngoại; học về Đạo đức đó là: Tinh thần quốc tế trong sáng “giúp bạn là tự giúp mình”; học về Phong cách đó là: Giản dị, quần chúng trong hoạt động đối ngoại của Bác sẽ hiệu quả hơn việc học Bác tiết kiệm so với các đơn vị sản xuất. Hay, các cơ quan hành chính học làm theo Bác, về tư tưởng học: lấy dân là gốc; về đạo đức, học: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về phong cách, học: gần dân, lắng nghe dân, quan tâm đến vấn đề thiết yếu của dân sẽ hiệu quả hơn việc học làm theo đạo đức: yêu thương con người như các cơ quan làm công tác nhân đạo.

Tư tưởng, tấm gương, đạo đức của Bác chỉ phát huy hiệu quả khi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào trong suy nghĩ và trở thành hành động tự giác của mỗi người, mỗi cơ quan đơn vị. Mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân nên chọn ra một số nội dung trọng tâm, trọng điểm trong tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mình, phù hợp với bối cảnh cụ thể để học tập sâu, tổ chức thực hiện kỹ. Như vậy, kết quả làm theo Bác sẽ thiết thực và hiệu quả hơn so với cách làm hiện tại.

Thứ ba,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không phải tự nhiên mà có. Đấy là kết quả nêu gương, nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống, và đặc biệt là phải rèn luyện bền bỉ, hàng ngày, rèn luyện suốt đời của Bác. Để học và làm theo Bác hiệu quả, cùng với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách, cũng cần phải nắm chắc, và làm theo nguyên tắc, phương pháp rèn luyện đạo đức, phong cách của Người. Điều này là hết sức quan trọng tránh tình trạng học và làm Bác kiểu phong trào.

Đạo đức Hồ Chí Minh là tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, đất nước, dân tộc lên trên tất cả… là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đó là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; yêu thương con người, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng.

Trong việc rèn luyện đạo đức, tác phong, Người không chỉ nêu lên những nội dung của việc tu dưỡng để có đạo đức, tác phong cách mạng mà Người còn chỉ rõ những nguyên tắc trong rèn luyện. Muốn có đạo đức, tác phong cách mạng, trước hết nói phải đi đôi với làm và luôn nêu gương. Việc nêu gương phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực, mọi bối cảnh. Trong gia đình, đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước đó là tấm gương của những người đứng đầu, phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác…

Cùng với nêu gương, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải rèn luyện tinh thần “xây đi đôi với chống”, “muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây”. Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. Để xây và chống có hiệu quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Có phong trào, có cuộc vận động cho toàn Đảng, toàn dân; nhưng lại có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Thông qua đó, lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm “xây” gì, “chống” gì rất cụ thể, rõ ràng để mọi người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng.

Cùng với hai nguyên tắc nêu trên, việc học và làm theo phải được tiến hành thường xuyên, suốt đời. Hôm nay làm tốt, ngày mai và ngày kia cùng nhiều ngày sau vẫn phải rèn rũa, giữ gìn để làm tốt hơn. Theo Bác, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó là công việc kiên trì, bền bỉ suốt đời. Và việc rèn luyện này phải thường xuyên và ở mọi môi trường, được thực hiện trong hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong đời công, sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, từ gia đình đến nhà trường, đoàn thể, xã hội; từ quan hệ bạn bè đến đồng chí, anh em, cấp trên, cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong quan hệ quốc tế. Có rèn luyện công phu theo các nguyên tắc trên đây thì con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, những phẩm chất ấy sẽ ngày càng được bồi đắp và nâng cao

Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn là tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta, nhân dân ta. Điều quan trọng, và cũng là trách nhiệm của thế hệ hôm nay là phải thiết thực, trách nhiệm và sáng tạo trong hành động để tài sản vô giá ấy tiếp tục sinh sôi, lan toả và thấm sâu vào đời sống của mỗi một cá nhân, mỗi một địa phương đơn vị. Làm tốt điều này sẽ là động lực để bàn tay chúng ta chạm gần hơn tới mục tiêu đưa đất nước thành một quốc gia phồn vinh hạnh phúc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh bằng các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Phong cách Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, làm việc dân chủ, khoa học, là ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, nói đi đôi với làm, là giản dị, gần gũi với quần chúng…

Để có thể học và làm theo Bác hiệu quả và để hiện thực hóa lời kêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng đã chỉ ra về học tập, làm theo Bác thì mỗi cá nhân, mỗi tập thể luôn phải không ngừng nghiên cứu, thấm nhuần, tận tâm, nhiệt huyết áp dụng những tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người bằng cả trái tim chân thành trước mỗi sự việc cụ thể, có như vậy học mới không khó, và làm mới chân thành, hiệu quả./.

Theo Tạp chí Tuyên giáo

[Văn Quang sưu tầm]

  • Tweet


8 giải pháp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

- 2 December 2021

Submitted by Tổng biên tập on 2 December 2021

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, Tạp chí Tuyên giáo đã đưa ra 8giải pháp chủ yếu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cụ thể như sau:

Toàn cảnh Hội nghị học tập chuyên đề toàn khóa nhiệm kỳ Đại hội của Đảng tại Đảng bộ Sở Y tế

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên.Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.

Hai là,các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị .Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

Ba là,đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội.Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, "trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân", thực hiện có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng", làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động "Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước", với quyết tâm "sánh vai với các cường quốc" như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn là,nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

Năm là,nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, "nói đi đôi với làm", "rèn luyện suốt đời", thường xuyên "tự soi", "tự sửa".

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minhđáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

Bảy là,nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình", bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tám là,coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện nêu gương.

Minh Anh [ Tổng hợp từ Tạp chí Tuyên giáo ]

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

08:57 19/05/2021

Ngày 18/5/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Báo CAND trân trọng giới thiệu nội dung Kết luận:

  • Quyết tâm chính trị của Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị
  • Tiếp tục nâng cao nhận thức về Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 05 của Bộ Công an
  • Quán triệt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị TW 3 - khóa X


Tại phiên họp ngày 7/5/2021, sau khi nghe Ban Tuyên giáo Trung ương báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khoá XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" [Chỉ thị 05] và ý kiến của các cơ quan liên quan, Bộ Chính trị kết luận:

Năm năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị 05, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khoá XI, XII] về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, có sức lan toả trong Đảng và toàn xã hội.

Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã từng bước đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là vai trò tiên phong, gương mẫu của các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; góp phần kiềm chế, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả nêu trên là nhân tố quan trọng, góp phần vào sự thành công Đại hội XIII của Đảng, của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị 05 còn bộc lộ một số hạn chế: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa quyết liệt, chưa kịp thời, chưa sát thực tế; một số người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, thiếu sáng tạo trong triển khai thực hiện Chỉ thị.

Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật.

Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc còn bị động, kết quả chưa cao. Việc phát hiện, biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình trong học tập và làm theo Bác chưa kịp thời, thiếu sức thuyết phục.

Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi. Công tác kiểm tra, giám sát của nhiều cấp uỷ đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt, phạm vi, đối tượng còn hẹp, hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm chưa đạt yêu cầu.

Để việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực, cần phải quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

1. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân. Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nữa giữa Đảng với dân, thực hiện có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng", "trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân", "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

2. Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn. Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.

"Xây" là tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địa phương, cơ quan, đơn vị đã đề ra.

"Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không ngừng nghỉ, không bị tác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân có hành vi không lành mạnh nào. Nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực, đồng thời khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

3. Trong quá trình tổ chức thực hiện, phải đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Việc tự giác nêu gương để khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".

Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ.

Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, mẫu mực về nhân cách, lối sống; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành; không tham nhũng, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm, không để người nhà, người thân lợi dụng vị trí công tác để vụ lợi. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh.

4. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, hình thức học tập, tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ, cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh việc phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, tuyên truyền, nhân rộng các tấm gương, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hoá trong lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

5. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết và chỉ đạo thực tiễn để giải quyết hiệu quả những vấn đề đang đặt ra; tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ.

6. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khoá XI, XII] về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặn vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, thực chất.

Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những mô hình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu.

7. Tổ chức thực hiện

- Cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả Chỉ thị 05 và Kết luận này.

- Các ban đảng Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp tục hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả Chỉ thị 05 theo tinh thần, nội dung Kết luận này.

- Giao cho Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng và hướng dẫn triển khai thực hiện chuyên đề toàn khoá; hằng năm, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ cụ thể, xây dựng hướng dẫn nội dung sinh hoạt chuyên đề bảo đảm vừa bám sát nội dung mang tính chiến lược, lâu dài, cốt lõi, vừa mang tính thời sự; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị 05 và Kết luận này.

# Chỉ thị 05 phong cách Hồ Chí Minh sáng tạo

Facebook Twitter Link gốc

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”

Thứ tư - 27/10/2021 09:53

LỜI NÓI ĐẦU

Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinhhạnh phúc là nội dung quan trọng trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạngViệt Nam. Người “là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩaanh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khíphách, lương tri của dân tộc và thời đại”. Trọn cuộc đời, Người hiến dâng cho sựnghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Di sản tư tưởng Người để lại có ý nghĩalịch sử và thời đại sâu sắc, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp,góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vàosự nghiệp đổi mới đất nước; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy tinhthần yêu nước, ý chí và khát vọng phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dânchủ, công bằng, văn minh.Đại hội đã xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 vàtầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045, định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo toànbộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội. Trong quan điểm chỉ đạo thựchiện đường lối đổi mới giai đoạn tới, Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Kiênđịnh và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lốiđổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảovệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời chỉ rõ: “Động lựcvà nguồn động lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinhthần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khátvọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếptục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Vềđẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; tiếptục thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung ươngĐảng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩymạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và đẩymạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ươngĐảng đã biên soạn, ban hành tài liệu chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh toàn khóa: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Chuyên đề cung cấp những nội dung cơ bản, các giải pháp chủ yếu trong họctập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong năm 2021 vànhững năm tiếp theo, nhằm phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.Chuyên đề được dùng trong sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị của hệthống chính trị và được tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể nhân dân.Nội dung chuyên đề, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 2 phần:

- Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực,tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
- Phần thứ hai: Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu tài liệu tới các đồng chí và quý bạn đọc!



Phần thứ nhất

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

1. Sự hình thành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phátđiểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọngphát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị vănhoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Sinh thời trong cảnh nước nhà bị nô dịch, lầm than, người thanh niên trẻNguyễn Tất Thành đã sớm thức tỉnh, đau đáu nỗi niềm cứu nước, cứu dân. Ngườichọn hướng đi sang các nước tư bản phương Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩuhiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế nào rồi trở về giúp đồngbào mình. Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người bắt đầu chuyến hành trìnhtrên con tàu Amiral Latouche Tresville, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự docho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy làtất cả những điều tôi hiểu”
4. Điều này sớm đã thể hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tựcường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
- Sinh sống và làm việc tại nhiều nước tư bản phương Tây đã giúp NguyễnTất Thành nhận thức và vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản: Ở đâu đâu đế quốctư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính;ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em,đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, đứng lên đấu tranh giải phóng.
- Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luậncương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lêninđã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc màNgười tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộckhông có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tháng 12/1920, Người đã gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,đánh dấu sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong tư tưởng của Người từ chủnghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

- Sau khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Người tích cựctruyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước. Người đã mang đến một luồng giómới về đấu tranh cách mạng đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộcthuộc địa, phụ thuộc, khơi dậy trong họ tinh thần đoàn kết đấu tranh chống chủnghĩa thực dân, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sảnở nước ta trong những năm 30 của thế kỷ XX, đưa tới sự ra đời của chính đảng vôsản Việt Nam, mở ra thời đại rực rỡ của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo củaĐảng, với những dấu ấn lịch sử và tầm vóc thời đại.
Ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đãbồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọigiai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọnggiải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ởViệt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành côngcủa cách mạng nước nhà.

2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về ý chí tự lực, tự cường
2.1. Ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, cóquan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế
- Hầu hết các đảng cộng sản ở Châu Âu đều có quan điểm rằng, cách mạng ởcác thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước tư bản [chính quốc], cáchmạng ở các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốcchưa thắng lợi. Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng,
với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ởcác nước thuộc địa [trong đó có Việt Nam] hoàn toàn có thể chủ động giành thắnglợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không.
- Người cũng chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa vàcách mạng ở chính quốc. Người ví mối quan hệ đó như hai cánh của một conchim. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vạch trần bản chất của chủnghĩa tư bản thực dân giống con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ởcác nước tư bản, vòi kia hút máu các dân tộc thuộc địa, Người khẳng định muốntiêu diệt nó, phải cắt cả hai cái vòi, muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữacách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc.

- Hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc luôn chú trọng đưa rađề nghị Quốc tế Cộng sản đặt đúng vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa trongphong trào cách mạng vô sản thế giới, tích cực giúp đỡ cách mạng thuộc địa về lýluận và phương pháp đấu tranh, đào tạo cán bộ cho các dân tộc thuộc địa, cổ vũ và
hướng dẫn phong trào cách mạng thuộc địa phát triển đúng hướng, có khả năng tựgiải phóng mình.

- Thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc theo con đường chủ nghĩa MácLênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng,thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối vớitôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
2.2. Ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng

- Ý chí tự lực, tự cường trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã giúpNgười thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính, bao gồm chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của các dân tộc bị áp bức trênthế giới đứng lên chống đế quốc, thực dân. Từ thực tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷXIX đầu thế kỷ XX, Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước.Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngườiculi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạpdịch và thuế muối... nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cáchmạng trốn sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa”.
- Theo Người, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dântộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh[1927], Người viết: “chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnhdậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”. Nêu cao tinh thầnđộc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phảicủng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dânPháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tínhnguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
- Ở một nước thuộc địa như Việt Nam, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấptrở thành vấn đề sống còn, ngọn cờ giải phóng dân tộc phải giương cao hơn hếtthảy. Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc được coilà nền tảng căn bản, có thể huy động, tập hợp được hết thảy các giai tầng xã hộiđoàn kết trên một mặt trận, đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như bảo vệ vữngchắc nền độc lập đó. “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trungnông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”.
- Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 [11/1939], Đảng ta khẳng định chủtrương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, liên hiệp tất cảcác dân tộc, giai cấp, đảng phái, giành độc lập dân tộc, xây dựng hình thức Nhànước cộng hòa, dân chủ “Chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng”. Nghị
quyết Trung ương nêu rõ: “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, vì quyền lợisinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư sảnbổn xứ, trung tiểu địa chủ”.

- Ngay sau khi trở về nước, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trungương 8 [1941]. Ngoài những chủ trương lớn về giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cáchmạng chủ yếu, Hội nghị còn chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợpđoàn kết rộng rãi toàn dân tộc với các tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thống nhất ýchí, hành động trong toàn Đảng, toàn nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủCộng hòa ra đời là minh chứng sống động nhất về sức mạnh dân tộc, mà chủ nghĩayêu nước, tinh thần dân tộc, kết hợp chủ nghĩa quốc tế trong sáng là nhân tố quytụ, thúc đẩy, hòa quyện, kết tinh mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, sức mạnhcủa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, kiên cường đấu tranh dưới sựlãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

2.3. Ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiệncủa cách mạng
- Điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận độngvà tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọinơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vữngthuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng aicũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũngnhư người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
- Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lậpĐảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạnthảo. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợpvới hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chốngchủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêuchiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyềncách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự ra đời của Đảngđánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trởthành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫndắt, tập hợp và lãnh đạo nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọimặt, đưa tới sự thành công của cách mạng.
- Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minhtrở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng nhưhoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giaicấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.
- Người chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, cần kíp về việc chuẩn bị các điềukiện đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng, như: xây dựng lực lượng cách mạng[bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang]; căn cứ địa cách mạng; tậpdượt cho quần chúng đấu tranh, xác định phương pháp đấu tranh khởi nghĩa từngphần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; chuẩn bị bộ máy tổng khởi nghĩagiành chính quyền khi thời cơ chín muồi và dự kiến các công việc sau khi giànhđược chính quyền.

- Nhờ có sự chủ động, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, chỉ trong vòng 15 ngàyCách mạng tháng Tám [1945] diễn ra mau lẹ, ít đổ máu, giành thắng lợi hoàn toàntrên cả nước, đập tan chế độ thực dân thống trị nước ta hơn 80 nghìn năm, lật đổ chếđộ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, khai sinh nền dân chủ cộng hòa, mởra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liềnvới giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỉ nguyên độc lập dân tộcgắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin ở mộtnước thuộc địa, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ýchí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tựcường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được pháttriển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại củacuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1945- 1954], kháng chiến chống đế quốcMỹ [1954-1975], trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước [1975- nay], đặcbiệt trong 35 năm đổi mới [1986- nay].
2.4. Ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnhcủa Nhân dân
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng không phải ở đâuvà bất cứ lúc nào quần chúng nhân dân cũng làm được cách mạng. Muốn làmđược cách mạng, quần chúng nhân dân phải được vận động, rèn luyện và tổ chứcnhằm huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượngquần chúng trên cùng một mặt trận, biến thành sức mạnh của quần chúng thànhsức mạnh cách mạng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Ngườinói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnhbằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”16. Người khẳng định, dân khí mạnh thìbinh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gìkhó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”.
- Trong giai đoạn vận động giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh thườngnhấn mạnh phải động viên lực lượng của toàn dân, có dân là có tất cả. Khi thời cơcách mạng chín muồi [8/1945], Người đã gửi Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa trongcả nước. Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng chota... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồngbào hãy dũng cảm tiến lên!”. Sức mạnh toàn dân được huy động và hiện diện tolớn, tạo nên thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám.

- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp [1946-1954], trong hoàn cảnh thực dânPháp rắp tâm xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toànquốc kháng chiến, thôi thúc nhân dân ta đứng lên đứng lên đấu tranh, quy tụ sứcmạnh toàn dân trong thế trận chiến tranh nhân dân, chống thực dân Pháp nhằm giữvững nền độc lập dân tộc: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đànông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Aicó súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954-1975], đương đầuvới kẻ thù có sức mạnh số một thế giới về kinh tế và quân sự, Chủ tịch Hồ ChíMinh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng caotinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miềnBắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nướcta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.

- Vai trò và sức mạnh của nhân dân luôn được Đảng ta trân trọng, phát huycao độ trong công cuộc trường kỳ kháng chiến, cũng như trong trong thời kỳ xâydựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hòa bình lập lại đến nay, tạo nên những thànhtựu vô cùng quan trọng trên các phương diện đời sống xã hội, đem lại những giátrị kinh tế– xã hội, những thay đổi lớn lao về diện mạo đất nước trong tiến trìnhthực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”như Bác Hồ hằng mong ước.
2.5. Ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc,“nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độclập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu vớinhững kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chốnglại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
- Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộckháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủtịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng.Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyếttâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất địnhkhông chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
.

Nhờ phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, quyết tâm vừa khángchiến vừa kiến quốc, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, làmnên chiến thắng Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chiếnthắng của ý chí, khát vọng độc lập và khí phách Việt Nam.
- Lịch sử tiếp tục chứng kiến những thách thức cam go về ý chí và khát vọngđộc lập dân tộc qua cuộc đối đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ.Trước một cuộc chiến tranh khốc liệt, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu caoquyết tâm trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Người nói: “Phải giành thắnglợi quyết định trong một thời gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày,nhưng trong một thời gian càng ngắn càng tốt”.
- Khích lệ, thôi thúc ý chí đấu tranh đến ngày đất nước toàn thắng, thống nhấttrong mỗi người dân, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúcnày là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miềnNam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâmlược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước, trong bản Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước củanhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất địnhthắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”
.

- Chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcmột lần nữa khẳng định ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và giữ vững nềnđộc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam. Đồng thời, tiếptục được Đảng ta phát huy trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sau giải phóng đến nay.

3. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
3.1. Xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí,bồi dưỡng nhân tài

- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với cương vị là người đứng đầuNhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xâydựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tưtưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng [1951]: Xây dựngmột nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Ngườinhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Ngườiđã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền đó là diệt giặc đói, giặc dốtvà giặc ngoại xâm. Nói cách khác, tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu: phụchồi và phát triển nội lực đất nước; đối ngoại linh hoạt tránh nguy cơ ngoại xâm,kéo dài thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
- Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách đó, Người đặc biệt chú trọngviệc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh.Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Namđộc lập [05/9/1945], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ, khích lệ: “Non sông ViệtNam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quangđể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phầnlớn ở công học tập của các em”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, trước đây thực dân Pháp cai trị đã thực hiệnchính sách ngu dân để dễ lừa dối, bóc lột dân ta, có tới 95% đồng bào ta không biếtchữ. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phảithực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Nạn thất học, kém hiểu biết làmột cản trở lớn cho sự phát triển của đất nước và dân tộc. Người kêu gọi: “...Mọingười Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiếnthức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phảibiết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
- Bên cạnh việc nâng cao dân trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nhiệm vụquan trọng trong kiến thiết đất nước là bồi dưỡng nhân tài. “Kiến thiết cần có nhântài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéophân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.
- Xuyên suốt hai cuộc trường chinh kháng chiến chống lại các thế lực đế quốcthực dân Pháp và Mỹ, đường lối kiến thiết đất nước, từng bước hiện thực hóa vọngxây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh luôn được Đảng và Bác Hồlãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách cụ thể, phù hợp, sáng tạo và quyết liệt.
- Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng,cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựngmột nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và gópphần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

- Những tư tưởng, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam hùngcường tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân tộc từng bước hiện thực hóa trong côngcuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới pháttriển đất nước trong 35 năm qua và trong những chặng đường tiếp theo. Kết quả,thành tựu đem lại “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”, nhưVăn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có đượccơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
3.2. Thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảngcầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân
- Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớnlao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôichỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàntoàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.

- Khi nước nhà độc lập, khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trở thànhđộng lực và mục tiêu hành động của toàn Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ ChíMinh. Trong tư tưởng của Người, hạnh phúc của người dân đơn giản là quyền sống,từ đó phát triển một dân tộc, một quốc gia hạnh phúc. Đó là một xã hội do nhân dân
lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, “một xã hộihoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứngđáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốctự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.
- Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các chính sách kinhtế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người.Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạovừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân.
- Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn chocách mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnhphúc của quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồngbào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mởnhững lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánhsinh”. Mong muốn của Người là ai ai cũng được góp công sức vào sự nghiệp cáchmạng của dân tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.

Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cườngcho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhândân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toànĐảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
3.3. Xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạchvới sự đồng lòng của Chính phủ và người dân

- Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ ChíMinh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựngđời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốtđẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện
với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

- Đất nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội trởnên cấp thiết. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78 về việcthiết lập “Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết” của Chính phủ. Phát biểu trongphiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh mong muốn mọingười “đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội”, “Làm cho dân có ăn.Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
- Trong thư gửi các giới công thương Việt Nam, Người viết: “Trong lúc cácgiới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập củanước nhà, thì giới Công-Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế vàtài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúpgiới Công-Thương trong công cuộc kiến thiết này”. Người nhấn mạnh, nền kinhtế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp,thương nghiệp thịnh vượng. Các nhà công nghiệp, thương nghiệp hãy cùng đemvốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân.

- Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nước muốngiàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”, “Chúng ta phải quý mỗi tấc đất nhưmột tấc vàng”. Người khuyến khích: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà,Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nôngdân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”.
- Theo Người, “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển côngnghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăngkhít với nhau... Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp khôngphát triển thì khập khễnh như người đi một chân”. Xuất phát từ điều kiện nướcta, sản xuất nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng, Người chủ trương phảicải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tếkhác, để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà.

- “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêunước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”42. “Tự lực cánh sinh, tăng giasản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xãhội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần củanhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.
3.4. Phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mởcửa, thu hút đầu tư nước ngoài

- Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, ngay khi thời cơ đến, dưới sựlãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh nội lực của hơn 20 triệungười dân Việt Nam đã được phát huy, làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cáchmạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Sau ngày nền độc lập ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự lúcgiành quyền độc lập đến nay, xứ Việt Nam ta vẫn hết sức cố gắng để một mặt yênnội trị, một mặt gây thực lực chống xâm lăng và tranh thủ ngoại giao được thắnglợi. Sức cố gắng ấy đã đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan”. Điều nàyđã nói lên tinh thần, quan điểm, đường lối của Đảng và Bác Hồ trong xây dựng vàbảo vệ đất nước là phát huy tối đa các nguồn lực bên trong, tranh thủ nguồn lựcbên ngoài, có chính sách mở cửa, hỗ trợ phát triển nền kinh tế nhằm tạo nội lựcdân tộc vững mạnh.
- Người tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thichính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, “Nước Việt Nam dành sự tiếpnhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cảcác ngành kỹ nghệ của mình”.
- Quan điểm của Người trong việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằmmục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoạilực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, pháttriển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta, do vậy phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Ta phảikhéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêmđiều kiện để tự lực cánh sinh.

- Ngay từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đãnêu rõ vấn đề này trong đường lối kháng chiến, đường lối kiến thiết đất nước.Người chỉ rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thươngnghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước, trước hết là cácnước anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Suốt cuộc kháng chiến, mặc dù tình hìnhthế giới diễn biến phức tạp, song Người vẫn cố gắng mở rộng quan hệ hợp tác quốctế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩaxã hội ở miền Bắc. “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơichúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tếmột cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ý chí tự lực, tự cường đượckhơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng và nhân dân hai miền Nam – Bắc nhằm thựchiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo toàn nền độc độc lập, đưa cả nướctiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời gian này, chúng ta tiếp tục nhận được rấtnhiều sự ủng hộ, giúp đỡ từ các nước anh em và bè bạn quốc tế. Điều này một lầnnữa khẳng định quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng và Bác về coi trọng nộilực, khéo léo tranh thủ, tận dụng ngoại lực, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

3.5. Luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lýluận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáođiều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng và Chủ tịchHồ Chí Minh đặt ra trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn lý luận chủ nghĩaMác-Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước. Từ thực tiễn, hoàn cảnh nước ta làmột nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”,“làm sao cho dân giàu nước mạnh”
.

- Độc lập, sáng tạo trong tư duy, quan điểm, chủ trương và hành động làphong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng, phát triểnđất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm,bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô cóphong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… ta có thể đi con đường khác đểtiến lên chủ nghĩa xã hội”.
- Chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinhnghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩaMác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lêninmà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn nhữngđặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luậtphát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm,bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn vànghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đườngcủa chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng đểĐảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quyluật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng[12/1986] và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để ViệtNam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Phần thứ hai

ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀKHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚCTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhvề ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Từ thuở bình minh, sơ khai trong lịch sử dân tộc, các thế hệ ông cha ta sớmđã hình thành ý chí, khát vọng phát triển quốc gia, dân tộc. Trải qua quá trình lịchsử, ý chí, khát vọng độc lập và hùng cường dân tộc đã được nuôi dưỡng, hun đúctrở thành giá trị truyền thống, lẽ sống và sức mạnh Việt Nam, là cơ sở để khơi dậy,phát huy, nhân lên sức mạnh tổng thể, sự nỗ lực của cả dân tộc trong tiến trình xâydựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ thời các vua Hùng dựng nước, đến Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa “đềnnợ nước, trả thù nhà”, ước vọng của Triệu Thị Trinh “đánh đuổi quân Ngô giànhlại giang sơn”... Hay qua lời tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt,“Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, nhữngchiến thắng vang dội 20 vạn quân Thanh dưới thời đại Quang Trung...
- Kế thừa truyền thống lịch sử - văn hóa của dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, ýchí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ở HồChí Minh luôn bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn về con người, hạnh phúc của ngườidân, của quốc gia dân tộc, ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
- Người quan niệm chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất mang lại hạnh phúccho mọi người. Hạnh phúc ấy do chính con người tạo dựng với sự lãnh đạo, địnhhướng của đảng cộng sản, đảng cách mạng chân chính. Hạnh phúc ấy bắt đầu từnhững mục tiêu căn bản nhất, mọi người đều thoát cảnh đói nghèo, được ăn, ở, họchành, có đời sống văn hóa vật chất, tinh thần tốt đẹp, lành mạnh. Từ hạnh phúccăn bản đó mà tạo ra từng gia đình hạnh phúc, nhân rộng thành cộng đồng hạnhphúc, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc đãđạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng tháng Tám, khai sinh nền độc lập,mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, khẳngđịnh sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng và dân tộc ta là đúng đắn, phù
hợp quy luật khách quan, thực tiễn đất nước và xu hướng phát triển của thời đại.
- Hiện nay, công cuộc đổi mới đã và đang mang lại những thay đổi lớn lao,mà một trong những nguyên nhân căn bản là do chúng ta biết quy tụ, khơi dậy,phát huy ý chí tự cường và khát vọng phát triển của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạocủa Đảng, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, tiếp tục phục vụ đắc lực sự
nghiệp cách mạng dân tộc trong giai đoạn mới.

- Bài học kinh nghiệm quý giá của công cuộc đổi mới chính là dựa vào sứcdân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong xây dựng phát triểnkinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Thành tựu của công cuộc đổi mớitrên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã thể hiện rõ nét hiệu quả của việc phát huy
ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn nhân dân ta, dân tộc ta.

Điều này đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt đượcnhững thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so vớinhững năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sốngnhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa baogiờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
- Có thể nói, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang, tiếp tụclà điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến lượcphát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiếp tục dẫn dắt dân tộc tiếnbước trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.

2. Bối cảnh thời đại và yêu cầu đặt ra phải phát huy ý chí tự lực, tựcường, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc
- Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, tình hình thế giới “tiếp tục có nhiều thay đổirất nhanh, phức tạp, khó lường”. Đáng chú ý là vấn đề toàn cầu hóa và hội nhậpquốc tế tiếp tục tiến triển nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩadân tộc cực đoan, vấn đề cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại diễn ra gay gắt…

- Trong bối cảnh thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau, lợi ích quốc gia, dântộc là nhân tố quyết định để mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào các mối quan hệquốc tế, hội nhập quốc tế thành công. Ngoài tiềm lực kinh tế, ý chí tự lực, tự cường,khát vọng phát triển của toàn dân tộc là chỗ dựa và điều kiện căn bản, cốt lõi để mở
rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế.

- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang có tác động mạnh mẽ đến ViệtNam càng đòi hỏi Việt Nam phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, khát vọngphát triển để bảo vệ vững chắc môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giảinhững thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc.
- Thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cáchsinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Những thành tựu của côngcuộc đổi mới là nền tảng quan trọng giúp chúng ta củng cố niềm tin, sự quyết tâm,nỗ lực, tiếp tục thúc đẩy con đường đi lên của dân tộc. Hơn lúc nào hết, cần pháthuy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng phát triểncủa toàn dân tộc làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới.
- Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổimới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chítự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đấtnước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổnghợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡngsức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạođộng lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

- Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp tăng cường côngtác xây dựng Đảng, khẳng định: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triểnsáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn ViệtNam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, côngbằng, văn minh”. “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơnnữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chứcvà cán bộ”.
- Văn kiện Đại hội cũng nhấn mạnh: Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghịquyết Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựngĐảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HồChí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùisuy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tựchuyển hoá" trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trungương đến chi bộ; cấp uỷ cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cánhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tựchuyển hoá"; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
- Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cườngdân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấpủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghịquyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhtrong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt banội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiêncứu, thực hiện hiệu quả các giải pháp sau:
[1] Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa tolớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùngvới chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động củaĐảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò,sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giảipháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trongsạch, vững mạnh, để tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành động lực,nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực,vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII củaĐảng và mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

[2] Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thựchiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị
- Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị vàcông tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và cácvấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

- Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiếnlược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt cácphong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiệnthắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địaphương, cơ quan, đơn vị đã đề ra.
"Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chínhtrị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ;phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, háchdịch, cửa quyền; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcvới tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không ngừng nghỉ, không bịtác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân có hành vi không lành mạnh nào. Nâng caotính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; khuyến khích, cổvũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhândân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
[3] Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia cácphong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội
- Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước củacác cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đạiđoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổnphận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân,“trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm vớidân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểmtra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như mongước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của báo chí và hệ thống thông tinđại chúng, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền.

[4] Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
- Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viênBan Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ cóchức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên
phong, gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểmđúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; cóphong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoànkết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tậptrung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác,chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ. Nghiêm túc tự phê bìnhvà phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh.
- Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ýchí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Không ngừng họctập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tự giác nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấmgương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt vớinhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

[5] Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phùhợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rènluyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viênthấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh cóhiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ,bè phái, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thườngxuyên “tự soi”, “tự sửa”.
[6] Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vậndụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầucủa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoahọc, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng.Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trịvăn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình ViệtNam trong thời kỳ mới. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnhđạo, quản lý. Khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật,báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
[7] Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác cácquan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, chủ động thông tin kịp thời, chínhxác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”,loại thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội, để cán bộ, đảng viên và nhândân nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,làm cho tư tưởng tiến bộ thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốnnắn những biểu hiện lệch lạc, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tinkhoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thốngnhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

[8] Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện việc thực hiện Chỉthị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khoá XI, XII] về xây dựng,chỉnh đốn Đảng, nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặnvi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thựcsự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.

- Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổchức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thựchiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cánbộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những môhình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu.
KẾT LUẬN
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vậndụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đápứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân,toàn dân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đấtnước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện tốt chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phongcách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc” là một giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện thắng lợicác nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Đây là việc làm thiết thực để mỗicán bộ, đảng viên phát huy cao độ ý thức, trách nhiệm, tinh thần cống hiến, laođộng sáng tạo, phục sự Tổ quốc, phục sự dân tộc, phục vụ nhân dân, tiếp tục pháttriển sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, xây dựng đất nướcngày càng phồn vinh, hạnh phúc, làm tiền đề căn bản hướng đến năm 2045, khi
nước ta kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay lànước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ đạt mục tiêu “trở thành nước pháttriển, thu nhập cao”
như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.



Nguồn tin: BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Video liên quan

Chủ Đề