Điểm giống nhau của nước ta với các nước châu á ở thế kỉ XIX là
Bởi TT. TS. Thích Nhật Từ, TT. TS. Thích Bửu Chánh, PGS. TS. Trương Văn Chung, PGS. TS. Nguyễn Công Lý Giới thiệu về cuốn sách này
Việc để đất nước rơi vào tay của thực dân phương Tây, là do các quốc gia phong kiến Đông Nam Á không tiến hành duy tân đất nước nhằm đưa đất nước phát triển, không có tầm nhìn cũng như tiến bước theo thời đại, bảo thủ, cố duy trì chiếc ngai vàng phong kiến đang trở nên mục ruỗng. Khi thực dân phương Tây đến “gõ cửa” thì giai cấp cầm quyền các nước này thực hiện phương sách giữ nước bằng việc “đóng cửa”, ngăn chặn người và hàng hóa từ châu Âu đến, hoặc quá thụ động trong việc tìm kiếm chính sách đối phó với mưu toan của thực dân phương Tây. Kết quả là các nước Đông Nam Á lần lượt rơi vào tay các nước thực dân, biến các nước này thành thuộc địa, trở thành nơi khai thác thị trường và nhân công của riêng mình. Trong tình hình đó, các quốc gia Đông Nam Á buộc phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại các cuộc xâm lược để giữ nước, giữ độc lập dân tộc. Cũng vì thế, phong trào đấu tranh vũ trang chống xâm lược diễn ra sôi nổi từ khi thực dân châu Âu nổ súng xâm lược. Với tinh thần và ý chí chiến đấu quật cường, toàn thể nhân dân các quốc gia Đông Nam Á đã tự nguyện tham gia vào hàng ngũ yêu nước, chiến đấu chống lại kẻ thù chung, nhằm hoàn thành một ước nguyện là góp một phần sức lực nhỏ bé của mình công cuộc bảo vệ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Có thể nói rằng phong trào là sự thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn, là đỉnh cao của tinh thần quật cường của nhân dân các nước Đông Nam Á. Ngay từ khi thực dân phương Tây xâm nhập và xâm lược, nhân dân Đông Nam Á đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ đất nước. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ làng diễn ra bền bỉ, liên tục, kiên cường, lớp trước ngã xuống, lớp sau nối tiếp tiến lên, kiên quyết đánh giặc cho dù phải hy sinh cả tính mạng; tất cả vì một mục tiêu chiến đấu cho dân tộc sinh tồn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, cuộc đấu tranh mới ở giai đoạn khởi đầu, đặt nền móng cho những bước tiến của giai đoạn sau. Trước khi người Âu châu đến "gõ cửa", các nước Đông Nam Á đang ở trong tình trạng thấp kém, lạc hậu cách xa rất nhiều lần so với phương Tây. Nhưng khi bị xâm lược, các quốc gia Đông Nam Á đều tiến hành kháng cự để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Những cuộc kháng cự đó có khi là do nhà nước phong kiến tiến hành, có khi do một hoàng thân lãnh đạo, nhưng cũng có khi do chính nhân dân tự động tiến lên khi tổ quốc bị xâm lăng. Khi thực dân phương Tây xâm lược, các nhà nước phong kiến ở Đông Nam Á đã cùng với nhân dân đứng lên kháng chiến chống xâm lược. Nhưng đến khi các vương triều và giai cấp phong kiến đầu hàng thực dân thì nhân dân đã tự động đứng lên chống xâm lược và chống luôn cả giai cấp phong kiến nhu nhược đầu hàng. Mặc dù không có sự lãnh đạo của chính quyền, nhưng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân tỏ ra rất anh dũng, quả cảm, mang lòng yêu nước sâu sắc. Tuy nhiên, các cuộc chiến đấu ấy đều ở trong trạng thái thiếu tổ chức, thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Các cuộc chiến tranh của nhân dân Indonesia chống Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới sự lãnh đạo của Tơrunô Giôgiô, của Đipônêgôrô, cuộc kháng chiến của nhân dân Achê, cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ở các địa phương Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Định và những cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực...Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Khơ Me dưới sự lãnh đạo của hoàng thân Sivôtha, của AchaSoa, của Pôcumbô; những cuộc chống trả quân Anh của quân đội Miến Điện do Mahabanđula chỉ huy và những cuộc kháng cự sau đó của nhân dân Miến Điện; các cuộc nổi dậy chống Tây Ban Nha của các tiểu vương và các bộ lạc ở Cebu, ở Manila, ở các đảo Luxông, Xamara, Lâyetta của Philippin… mang những sắc thái khác nhau nhưng đều chung mục đích chống xâm lược, bảo vệ độc lập và chịu chung một kết cục là bị đàn áp thất bại. Quá trình đấu tranh chống xâm lược của nhân dân các nước Đông Nam Á diễn ra không cùng thời điểm cụ thể, không giống nhau về hình thức, lại khác về phương pháp đấu tranh, nhưng lại có điểm chung, thống nhất ở mục tiêu: ngăn chặn quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân, cố gắng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quá trình xâm lược, thực dân phương Tây vấp phải sự kháng cự kéo dài và kiên cường, liên tục của nhân dân từng nước. Ngay trong một nước cuộc kháng cự này thất bại, cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, kiên quyết đánh đuổi quân xâm lược. Ở Campuchia, cuộc chiến đấu do hoàng thân Sivôtha tổ chức đang tiếp diễn thì cuộc khởi nghĩa do Acha Soa lãnh đạo đã bùng lên. Khi Acha Soa bị bắt, cuộc khởi nghĩa không tan rã mà nó được tiếp sức bằng cuộc nổi dậy của nghĩa quân Pô cum Bô. Ở Việt Nam, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp bị sự tấn công liên tục và khắp nơi của nhân dân yêu nước. Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho tới Gia Định, Cần Thơ, Đồng Tháp Mười… đều vấp phải phong trào kháng Pháp của nhân dân. Ở Miến Điện, ba lần tiến hành chiến tranh là cả ba lần thực dân Anh gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân đội triều đình. Sau khi quân triều đình thất bại, thì nhân dân khắp cả nước vùng lên chống lại thực dân Anh bằng cuộc chiến tranh du kích bền bỉ, anh dũng làm cho quân giặc khiếp sợ. Phong trào đấu tranh vũ trang của các quốc gia Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến những năm cuối thế kỷ XIX thực sự tạo thành một sức mạnh to lớn, bước đầu làm chậm bước tiến của thực dân phương Tây, không những thế còn làm cho đội quân xâm lược nhà nghề nhiều phen kinh sợ, hàng ngàn binh lính thực dân đã phải bỏ mạng tại nơi đây. Phong trào là sức mạnh của sự đoàn kết quân dân, nhiều giai tầng trong xã hội, mặc dù bị thất bại, nhưng nó tạo cơ sở cho các phong trào đấu tranh thời kỳ sau phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi hoàn toàn. Các cuộc đấu tranh chống lại thực dân phương Tây do người nông dân lãnh đạo, hay do một nhà sư, một trí thức phong kiến, một hoàng thân hoặc một thủ lĩnh bộ lạc đứng đầu, thì tất cả đều chung một mục tiêu bảo vệ cho kỳ được đất nước, giữ cho kỳ được xóm làng quê hương không để rơi vào tay giặc. I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức: a. Kiến thức cơ bản: Giúp học sinh nắm được tình hình chính trị xã hội, kinh tế các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mĩ La tinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX) b. Kiến thức trọng tâm: TIẾT 1: - Lớp 11A (lớp khá) + Nội dung, tính chất, ý nghĩa của cải cách Minh Trị, + Những biểu hiện của Chủ nghĩa đế quốc ở Nhật Bản và đánh giá được bản chất CNĐQ của Nhật. + Đánh giá được vai trò của Thiên hoàng Minh Trị. - Lớp 11B - 11C (Tb- yếu) + Nội dung, tính chất, ý nghĩa của cải cách Minh Trị + Những biểu hiện của Chủ nghĩa đế quốc ở Nhật Bản. TIẾT 2: - Lớp 11A + Nét chính về phong trào chống phong kiến và đế quốc của nhân dân Trung Quốc và cuộc cách mạng Tân Hợi 1911. - Lớp 11B -11C + Nét chính về phong trào chống phong kiến và đế quốc của nhân dân Trung Quốc và cuộc cách mạng Tân Hợi 1911. + Đánh giá được vai trò của Tôn Trung Sơn. + Hiểu được nguyên nhân làm bùng nổ các phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến của nhân dân Trung Quốc. TIẾT 3: - Lớp 11A + Học sinh biết được nửa sau thế kỉ XIX các nước đế quốc mở rộng và hoàn thành việc xâm lược các nước Đông Nam Á. Phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á chống chủ nghĩa thực dân. - Lớp 11B – 11C + Học sinh biết được nửa sau thế kỉ XIX các nước đế quốc mở rộng và hoàn thành việc xâm lược các nước Đông Nam Á. Phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á chống chủ nghĩa thực dân. - Thấy rõ vai trò của các giai cấp đặt biệt là giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc TIẾT 4: - Lớp 11A + Biết được quá trình xâm lược Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh của các nước thực dân đế quốc trong thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Hiểu rõ những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi và Mĩ Latinh. - Lớp 11B -11C + Biết được quá trình xâm lược Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh của các nước thực dân đế quốc trong thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Hiểu rõ những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi và Mĩ Latinh. + Đánh giá được bản chất của Mĩ thể hiện trong các chính sách của Mĩ đối với khu vực Mĩ Latinh. 2. Tư tưởng, tình cảm: - Lên án chính sách bành trướng, xâm lược của chủ nghĩa thực dân - Đánh giá vai trò cách mạng của một số nhân vật lịch sử - Thái độ đồng tình, ủng hộ các phong trào đấu tranh vì độc lập. 3. Kỹ năng: - Rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích, so sánh, đánh giá sự kiện. Kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ, thực hành bộ môn. - Kĩ năng tái hiện những nét chính về các phong trào đấu tranh của các dân tộc Á, Phi, Mĩ, Latinh. II. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC 1, Chuẩn bị của GV + Phương tiện: Giáo án, máy chiếu, phiếu trắc nghiệm, phiếu bài tập nhóm, bảng phụ (nếu có). + Phương pháp: Vấn đáp, nhóm, kỹ thuật bể cá, sơ đồ tư duy, khăn trải bàn... 2, Chuẩn bị của HS. + Bài cũ: Bài tập trắc nghiệm. + Bài mới: Bài tập trắc nghiệm, tìm hiểu bài mới, tranh ảnh (nếu có). iii. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP 1. Kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ (câu hỏi ktra bài cũ cho 4 tiết ): Câu 1: Em hãy nêu nội dung cải cách Minh Trị ở Nhật Bản? Câu 2: Nêu diễn biến chính của cách mạng Tân Hợi 1911? Câu 3: Trình bày diễn biến chính các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của nhân dân Cam-pu-chia? Câu 4: Em đánh giá như thế nào về phong trào giải phóng dân tộc ở ở khu vực Á, Phi, Mĩ latinh thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. 3. Dẫn dắt vào bài mới: Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX khu vực Châu Á, Châu Phi, Mĩ La Tinh diễn ra rất nhiều biến động, các nước đế quốc thi nhau bành trướng và mở rộng thuộc địa của mình, còn các khu vực Á, Phi, Mĩ la tinh lại phải gồng mình để giữ vững nền độc lập cho riêng họ. Để hiểu hơn về nội dung chuyên đề này cô và trò chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu. 4. Tổ chức các hoạt động dạy – học trên lớp TIẾT 1: NHẬT BẢN VÀ ẤN ĐỘ
5. Củng cố - dặn dò a. Củng cố: - Giáo viên tổ chức cho học sinh nhắc lại nội dung chính của bài - Giáo viên nhận xét tiết học và giao bài tập về nhà Câu 1: Trình bày một số biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản ? Câu 2: Em có nhận xét gì về phong trào cách mạng của nhân dân Ấn Độ từ 1905 - 1908 b. Dặn dò: Các em về nhà làm bài tập và học bài trước khi đến lớp. Chuẩn bị trước bài Trung Quốc. |