Điểm tương đồng giữa trường hấp dẫn và trường tĩnh điện là gì

You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an alternative browser.

  • Thread starter Mỹ Duyên
  • Start date Jul 17, 2021

Tĩnh điện vs điện từ

Điện trường tĩnh và động rất quan trọng trong nghiên cứu lý thuyết trường điện từ. Một từ trường được gây ra bởi một thời gian điện trường khác nhau. Tĩnh điện và điện từ là hai chủ đề rất quan trọng được thảo luận trong lý thuyết trường điện từ. Các ứng dụng của điện từ và tĩnh điện là rất lớn. Điều quan trọng là phải có một sự hiểu biết đúng đắn trong các khái niệm về tĩnh điện và điện từ để hiểu các lĩnh vực như điện, từ, phát điện, vô tuyến và các sóng điện từ khác và nhiều hơn nữa. Trong bài viết này, chúng ta sẽ thảo luận về tĩnh điện và điện từ là gì, định nghĩa về tĩnh điện và điện từ, sự tương đồng của chúng và cuối cùng là sự khác biệt giữa tĩnh điện và điện từ.

Tĩnh điện

Thuật ngữ điện tử có nghĩa là điện hoặc điện tích. Tĩnh có nghĩa là không thay đổi theo thời gian. Lĩnh vực tĩnh điện giải quyết các vấn đề liên quan đến điện trường tĩnh. Có một vài khái niệm chính trong tĩnh điện. Lực tương tác tác dụng lên hai điện tích Q1 và Q2 đặt khoảng cách r cách nhau trong một môi trường có độ thấm là ε, là F = Q1 * Q2 / 4πεr2. Nếu cả hai điện tích đều có cùng dấu, lực sẽ bị đẩy. Nếu các điện tích có dấu hiệu khác nhau, lực hấp dẫn. Một khái niệm quan trọng khác là tiềm năng của điện trường. Điều này được định nghĩa là khối lượng công việc cần thiết để mang phí thử nghiệm 1C từ vô cực đến điểm đã cho. Điện thế do điện tích điểm bằng Q / 4πεr. Đối với năng lượng tiềm tàng của điện tích Q1, phương trình chúng ta nhận được là Q * Q1 / 4πεr2. Một trường điện tĩnh không tạo ra từ trường.

Điện từ

Điện từ là một trong bốn lực cơ bản trong tự nhiên. Ba người khác là lực yếu, lực mạnh và trọng lực. Thuật ngữ điện từ có thể được chia thành hai từ. Electro có nghĩa là bất cứ điều gì có liên quan đến một khoản phí. Từ có nghĩa là bất cứ thứ gì được liên kết với nam châm. Lý thuyết điện từ [hay thường được gọi là lý thuyết trường điện từ] mô tả mối quan hệ giữa điện và từ. Một thời gian thay đổi điện trường gây ra một thời gian từ trường khác nhau. Một thời gian từ trường khác nhau tạo ra một thời gian điện trường khác nhau. Những khái niệm này được sử dụng để tạo ra sóng điện từ. Trong điện từ, các hiệu ứng từ cả điện trường và từ trường đều được xem xét. Từ trường được tạo ra bởi điện trường thay đổi luôn vuông góc với điện trường và tỷ lệ thuận với tốc độ thay đổi của điện trường và ngược lại. James Clark Maxwell là người tiên phong trong việc đưa ra lý thuyết điện từ. Lý thuyết điện và lý thuyết từ tính được phát triển riêng bởi các nhà khoa học khác và Maxwell đã thống nhất chúng.

Sự khác biệt giữa điện từ và tĩnh điện là gì?

• Tĩnh điện luôn đề cập đến điện trường bất biến thời gian. Điều này có nghĩa là một từ trường không có trong tĩnh điện. Điện từ luôn đề cập đến thời gian thay đổi điện trường và từ trường.

• Trong trường hợp điện từ, các trường điện tĩnh riêng biệt có thể xảy ra. Tĩnh điện là một trường hợp đặc biệt của điện từ.

Trong vật lý học, trường hấp dẫn là một mô hình được sử dụng để giải thích sự ảnh hưởng của một vật thể khối lượng lớn lên không gian bao xung quanh nó, tạo ra lực tác dụng lên một vật thể có khối lượng khác. Do đó, trường hấp dẫn được sử dụng để giải thích hiện tượng hấp dẫn, và đo bằng đơn vị newton trên kilôgram [N/kg]. Trong dạng gốc của nó, hấp dẫn là một lực giữa các khối lượng điểm. Tiếp nối Newton, Laplace xây dựng mô hình hấp dẫn kiểu như trường bức xạ hoặc chất lỏng, và từ thế kỷ 19 các cách giải thích cho hiện tượng hấp dẫn đã được dạy theo lối phát biểu của một mô hình trường, hơn là lực hút giữa các điểm với nhau.

Bản đồ dị thường trọng lực của trọng trường Trái Đất từ vệ tinh GRACE.

Trong mô hình trường, khác biệt với hai hạt hút lẫn nhau, các hạt làm cong không thời gian thông qua khối lượng của chúng, và sự cong này được cảm nhận và đo như là một "lực". Trong mô hình này có thể nói rằng vật chất di chuyển theo cách đáp ứng lại độ cong của không thời gian,[1] và do đó hoặc là không có lực hấp dẫn,[2] hoặc hấp dẫn là lực giả.[3]

Trong cơ học cổ điển, trường hấp dẫn được miêu tả bằng định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Trường hấp dẫn g xung quanh một hạt khối lượng M xác định theo cách này là một trường vectơ mà tại mỗi điểm chứa một vectơ chỉ theo hướng đi vào tâm của hạt. Độ lớn của trường tại mỗi điểm được tính bằng định luật của Newton, và miêu tả lực trên một đơn vị khối lượng tác động lên một vật thể bất kỳ nằm tại điểm đó trong không gian. Bởi vì trường lực này là bảo toàn, do vậy thế năng trên mỗi đơn vị khối lượng, Φ, tại mỗi điểm trong không gian đi kèm với trường lực; hay còn gọi là thế năng hấp dẫn.[4] Phương trình trường hấp dẫn là[5]

g = F m = − d 2 R d t 2 = − G M R ^ | R | 2 = − ∇ Φ , {\displaystyle \mathbf {g} ={\frac {\mathbf {F} }{m}}=-{\frac {{\rm {d}}^{2}\mathbf {R} }{{\rm {d}}t^{2}}}=-GM{\frac {\mathbf {\hat {R}} }{|\mathbf {R} |^{2}}}=-\nabla \Phi ,}  

với F là lực hấp dẫn, m là khối lượng của hạt thử, R là vị trí của hạt thử, R ^ {\displaystyle \mathbf {\hat {R}} }   là vectơ đơn vị theo hướng của R, t là thời gian, G là hằng số hấp dẫn, và ∇ là toán tử del.

Phương trình này chứa đựng định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, và mối liên hệ giữa thế năng hấp dẫn và gia tốc của trường. Lưu ý rằng d2R/dt2 và F/m cả hai đều bằng gia tốc trọng trường g [tương đương với gia tốc quán tính, do vậy có cùng dạng phương trình toán học, nhưng cũng được định nghĩa bằng lực hấp dẫn trên một đơn vị khối lượng[6]]. Dấu trừ được thêm vào vì lực tác dụng hút hai vật. Phương trình trường tương đương theo dạng mật độ khối lượng ρ của khối lượng hút là:

− ∇ ⋅ g = ∇ 2 Φ = 4 π G ρ {\displaystyle -\nabla \cdot \mathbf {g} =\nabla ^{2}\Phi =4\pi G\rho \!}  

mà cũng bao hàm định luật Gauss cho hấp dẫn, và phương trình Poisson cho hấp dẫn. Định luật Newton và định luật Gauss là tương đương về mặt toán học và liên hệ với nhau bởi định lý phân kỳ. Phương trình Poisson thu được bằng cách lấy phân kỳ ở cả hai vế của phương trình trước đó. Những phương trình cổ điển này là các phương trình chuyển động dạng vi phân cho một hạt thử nằm trong trường hấp dẫn, có nghĩa là khi viết ra và giải phương trình cho phép xác định và miêu tả chuyển động của khối lượng thử.

Trường hấp dẫn bởi nhiều hạt được miêu tả bằng cộng vectơ của mỗi trường bao quanh cho từng hạt. Một vật nằm trong trường hấp dẫn của nhiều hạt sẽ chịu một lực bằng tổng vectơ của mỗi lực mà nó chịu từ từng trường riêng rẽ. Điều này tương đương với phương trình toán học:[7]

g j [net] = ∑ i ≠ j g i = 1 m j ∑ i ≠ j F i = − G ∑ i ≠ j m i R ^ i j | R i − R j | 2 = − ∑ i ≠ j ∇ Φ i {\displaystyle \mathbf {g} _{j}^{\text{[net]}}=\sum _{i\neq j}\mathbf {g} _{i}={\frac {1}{m_{j}}}\sum _{i\neq j}\mathbf {F} _{i}=-G\sum _{i\neq j}m_{i}{\frac {\mathbf {\hat {R}} _{ij}}{{|\mathbf {R} _{i}-\mathbf {R} _{j}}|^{2}}}=-\sum _{i\neq j}\nabla \Phi _{i}}  

nghĩa là trường hấp dẫn tác dụng lên khối lượng mj là tổng của mọi trường hấp dẫn do các khối lượng mi khác, ngoại trừ chính mj. Vectơ đơn vị R ^ i j {\displaystyle \mathbf {\hat {R}} _{ij}}   theo hướng của vectơ Ri − Rj.

Trong thuyết tương đối rộng, trường hấp dẫn được miêu tả bằng tenxơ mêtric g μ ν {\displaystyle g_{\mu \nu }}   là nghiệm của phương trình trường Einstein đối với mỗi một cấu hình phân bố vật chất của tenxơ ứng suất–năng lượng,[8]

G = R μ ν − 1 2 R g μ ν = 8 π G c 4 T . {\displaystyle \mathbf {G} =R_{\mu \nu }-{\frac {1}{2}}Rg_{\mu \nu }={\frac {8\pi G}{c^{4}}}\mathbf {T} .}  

Ở đây T là tenxơ ứng suất–năng lượng, G là tenxơ Einstein, và c là tốc độ ánh sáng,

Những phương trình này phụ thuộc vào sự phân bố vật chất và năng lượng trong vùng không gian, không giống như lý thuyết của Newton khi hấp dẫn chỉ phụ thuộc vào sự phân bố của vật chất. Cũng trường hấp dẫn trong thuyết tương đối tổng quát biểu diễn cho sự cong của hình học không thời gian. Thuyết tương đối tổng quát phát biểu rằng vật thể nằm trong vùng không thời gian cong là tương đương với sự chuyển động gia tốc của nó theo hướng gradien của trường. Theo định luật hai của Newton, điều này sẽ khiến vật chịu một lực quán tính nếu nó vẫn được giữ trong trường này. Điều này giải thích tại sao một người cảm thấy bị hút xuống khi đứng trên bề mặt Trái Đất. Nói chung, trường hấp dẫn miêu tả bởi thuyết tương đối rộng chỉ khác với cơ học cổ điển trong trường hợp khối lượng là lớn [như đối với lỗ đen, sao neutron hoặc khi khối lượng tăng đáng kể so với tăng khoảng cách như ở phạm vị lớn hơn 100Mpc trên quy mô Vũ trụ] hoặc chuyển động xấp xỉ tốc độ ánh sáng. Một trong những ví dụ nổi tiếng về sự khác biệt đó là sự lệch của tia sáng khi đi gần Mặt Trời.

  • Cơ học cổ điển
  • Thế năng hấp dẫn
  • Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton
  • Các định luật về chuyển động của Newton
  • Thế năng
  • Kiểm chứng thuyết tương đối rộng

  1. ^ Geroch, Robert [1981]. General relativity from A to B. University of Chicago Press. tr. 181. ISBN 0-226-28864-1., Chapter 7, page 181
  2. ^ Grøn, Øyvind; Hervik, Sigbjørn [2007]. Einstein's general theory of relativity: with modern applications in cosmology. Springer Japan. tr. 256. ISBN 0-387-69199-5., Chapter 10, page 256
  3. ^ J. Foster, J. D. Nightingale, J. Foster, J. D. Nightingale; J. Foster, J. D. Nightingale, J. Foster, J. D. Nightingale [2006]. A short course in general relativity [ấn bản 3]. Springer Science & Business. tr. 55. ISBN 0-387-26078-1., Chapter 2, page 55
  4. ^ Dynamics and Relativity, J.R. Forshaw, A.G. Smith, Wiley, 2009, ISBN 978-0-470-01460-8
  5. ^ Encyclopaedia of Physics, R.G. Lerner, G.L. Trigg, 2nd Edition, VHC Publishers, Hans Warlimont, Springer, 2005
  6. ^ Essential Principles of Physics, P.M. Whelan, M.J. Hodgeson, 2nd Edition, 1978, John Murray, ISBN 0-7195-3382-1
  7. ^ Classical Mechanics [2nd Edition], T.W.B. Kibble, European Physics Series, Mc Graw Hill [UK], 1973, ISBN 0-07-084018-0.
  8. ^ Gravitation, J.A. Wheeler, C. Misner, K.S. Thorne, W.H. Freeman & Co, 1973, ISBN 0-7167-0344-0

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trường_hấp_dẫn&oldid=68870761”

Video liên quan

Chủ Đề