Lao thận là gì

Lao thận là tổn thương nhu mô một trong hai quả thận. Bệnh xuất hiện do vi khuẩn lao từ phổi theo đường máu [hay từ ruột, xương, hạch bạch huyết] tới thận, gây lao thận.

Mới đầu, vi khuẩn làm tổn thương nhu mô thận, sau vào đài, bể thận. Từ nơi này, trực khuẩn lao lan ra hệ tiết niệu và sinh dục. Bệnh khởi đầu yên lặng nên ở giai đoạn sớm, chưa thể biết tổn thương lao đã vào tới đài, bể thận. Ở thời kỳ toàn phát sẽ có các triệu chứng như luôn tiểu rắt, nhiều về đêm; mỗi lần chỉ đi vài giọt, không thành tia... mặc dù người bệnh cố hết sức rặn. Người bệnh tiểu buốt vào cuối bãi. Buốt lan ra vùng tiết niệu, lan lên trên và lan xuống dưới hai đùi...
Người bệnh thường xuyên tiểu đục và tiểu có máu.

Quảng cáo

Chụp phim thận có thuốc cản quang cho thấy sự thay đổi hình dáng của bể, đài thận, niệu quản và bàng quang. Bể thận hẹp, phình, cắt cụt, hình cánh hoa hay giãn ra. Niệu quản chỗ hẹp, chỗ giãn. Bàng quang dung tích bé và thành dày. Soi bàng quang cho thấy niêm mạc phù, nhiều cột cơ dày; có những hạt to bằng đầu đinh trắng hay vàng; những ổ loét lao.

Quảng cáo

Bệnh diễn biến rất lâu, từ bị lao một thận chuyển sang lao hai thận.
Thận bị ứ nước do hẹp, tắc niệu quản, bể thận. Bàng quang teo, có ỏi tiết niệu. Lao lan sang các bộ phận sinh dục lân cận như túi tinh, mào tinh hoàn, ống dẫn trứng hay các cơ quan khác như màng não.

Để phòng ngừa lao thận, phải phát hiện, điều trị khỏi dứt điểm lao phổi. Người bị lao thận cần được nghỉ ngơi, tránh lao động nặng, ăn uống đầy đủ các dưỡng chất và điều trị thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ.

BS. Hoàng Anh, Sức Khỏe & Đời Sống

1. Khái niệm: Lao thận là một bệnh thường gặp, là giai đoạn 2 khi cơ thể nhiễm trực khuẩn lao. Lao thận gây tổn thương hai thận, có thể bên nặng bên nhẹ nhưng rất ít gặp chỉ lao một bên. Lao thận gặp ở lứa tuổi 20-40, nam nhiều hơn nữ. Trước đây điều trị lao thận bằng ngoại khoa là chính; ngày nay nhờ các thuốc chống lao hữu hiệu nên điều trị nội khoa đóng vai trò quan trọng, song việc chẩn đoán lao thận vẫn còn khó khăn, hoặc bỏ sót hoặc quá lạm dụng.

2. Nguyên nhân: Do trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis, một trong gần 30 loại thuộc chủng Mycobacteria.

3. Triệu chứng:

- Sốt kéo dài, sốt về chiều.

- Sút cân, kém ăn.

- Đổ mồ hôi đêm.

- Đái máu.

- Đau hông lưng, thắt lưng.

- Đái buốt, đái rắt, đái khó.

- Nam giới sưng đau mào tinh hoàn, sờ thấy nhân cứng ở đuôi mào tinh hoàn, rò hậu môn.

- Nữ giới đau hố chậu hai bên, khí hư, khám phụ khoa phát hiện lao phần phụ, vòi trứng, tử cung, cổ tử cung…

4. Cận lâm sàng:

a. Nước tiểu:

- Protein [-] hoặc [+] nhẹ.

- Hồng cầu [+++].

- pH thấp, khoảng 5,6 [toan tính].

- Tạp khuẩn [-].

- Trực khuẩn lao: Đây là xét nghiệm cơ bản, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán lao thận.

- Tiểu mủ vô trùng: Danh từ này nhắc nhở chúng ta rằng cấy nước tiểu quy ước sẽ không phát hiện được vi trùng lao và cần phải sử dụng các môi trường đặc biệt cho loại vi trùng này. Ít nhất 20% bệnh nhân lao thận có bội nhiễm vi trùng thường. Do đó, nếu cấy nước tiểu dương tính với vi trùng thường cũng không loại trừ được là có vi trùng lao đi kèm. Ngoài ra, sử dụng tetracyclin [thuốc kềm khuẩn đối với vi trùng lao], ofloxacin va ciprofloxacin [thuốc diệt khuẩn lao ] có thể đưa đến tình trạng âm tính giả khi cấy vi trùng lao. Ðể có kết quả chính xác, phải cấy nước tiểu liên tiếp 3 buổi sáng sớm.

b. Chụp X quang thận:

- Chụp X quang thận không chuẩn bị với 1 phim thẳng và 1 phim nghiêng, có thể thấy hình ảnh hơi mờ cản quang tương ứng với vùng lao thận bã đậu hóa thành hang hoặc vôi hóa.

- Chụp X quang có tiêm thuốc cản quang vào tĩnh mạch [UIV] được coi là ưu thế trong các biện pháp chẩn đoán lao thận.

+ Do mức độ nhẹ hay nặng của tổn thương lao, chúng ta có thể thấy những thay đổi: Đài bể thận hẹp, bị gặm, bị cắt cụt và co kéo. Có các hình gai hoặc hình tròn như chùm nho, cánh hoa do giãn đài bể thận hoặc hang lao chứa thuốc cản quang. Niệu quản cũng có hình ảnh nơi chít hẹp, nơi phình to, thường thấy xẹp khu trú nơi nối bể thận - niệu quản hay đoạn niệu quản tiểu khung sát bàng quang. Niệu quản ngấm thuốc không đều, lượn khúc hoặc hình ảnh như chiếc gậy.

+ Tùy theo giai đoạn bệnh, có các hình ảnh ở bàng quang: Giảm thể tích, thành dày có bờ nham nhở, nhiều vòng cung, kích thước bàng quang nhỏ nhiều so với bình thường.

- Chụp thận ngược dòng [UPR] là một chỉ định rất thận trọng trong lao thận vì có thể gây nhiều biến chứng, tổn thương lao thận lan rộng hoặc bội nhiễm tạp khuẩn.

c. Soi bàng quang:

Nội soi tiết niệu không được chỉ định một cách có hệ thống để chẩn đoán lao thận và đường tiết niệu vì có thể gây bội nhiễm. Giá trị thông tin giúp cho chẩn đoán không nhiều hơn chụp UIV. Thủ thuật này lại khó tiến hành khi bàng quang bé, xơ hóa hoặc hẹp niệu đạo..

d. Siêu âm: Có thể phát hiện:

- Củ lao ở nhu mô thận.

- Hang lao ở nhu mô thận.

- Hiện tượng ứ trệ nước tiểu, tắc nghẽn.

- Bàng quang bé, thành dày.

e. Các xét nghiệm khác:

- Công thức máu, máu lắng.

- Phản ứng trong da với Tuberculin [IDR-Mantoux].

- Chụp X quang phổi.

- Xét nghiệm miễn dịch học: ELISA, PCR.

5. Các thể bệnh: Có thể gặp đơn thuần hay thể phối hợp:

a. Thể đơn thuần: Gặp khi tổn thương ít, biểu hiện nhẹ ở giai đoạn sớm.

- Đái máu.

- Đái protein.

- Đau thắt lưng hay đau quặn thận.

- Giả u, sờ thấy thận to.

- Sốt.

- Thận ứ mủ: Sốt, thận to, đái đục.

- Theo tuổi: < 20 tuổi và > 50 tuổi.

b. Thể phối hợp:

- Với suy thận.

- Với tăng huyết áp.

- Với sỏi tiết niệu.

- Với các bệnh khác: Ung thư thận, nang đơn thận, đa nang thận.

- Với thai nghén.

- Lao thận còn lại sau cắt 1 thận do lao.

6. Biến chứng:

a. Suy thận mạn tính do hủy hoại tổ chức thận hay viêm thận kẽ.

b. Suy thận cấp tính:

Biểu hiện bằng thiểu niệu, vô niệu, urê máu tăng, creatinin máu tăng do:

- Viêm niệu quản đã bị co hẹp.

- Viêm thận - bể thận cấp do bội nhiễm.

- Sỏi tắc đường tiết niệu.

- Suy vỏ thượng thận cấp.

- Sau mổ lao thận.

- Sau dùng một số thuốc chống lao, thường gặp do PAS, Rifamycin.

c. Tăng huyết áp trong quá trình lao thận.

d. Thận nhiễm bột:

Nên nghĩ tới khi một người bị lao thận nay bị phù nhiều, xét nghiệm nước tiểu và máu có đủ các triệu chứng của hội chứng thận hư, xét nghiệm đỏ Congo [+].

7. Điều trị:

Ngày nay, điều trị nội khoa đã thay thế vai trò của ngoại khoa trước đây.

7.1. Nội khoa:

Cho đến nay, chỉ có 6 loại thuốc được WHO coi là các thuốc chống lao chính.

Cần tuân thủ một số nguyên tắc trong điều trị bệnh lao: Sớm, phối hợp tối thiểu 3 thứ thuốc, đúng liều, dùng đều đặn, đủ thời gian theo 2 giai đoạn [tấn công và duy trì], tất cả các thuốc đều dùng cùng một lúc vào một giờ nhất định trong ngày, dưới sự kiểm soát của nhân viên y tế, điều trị toàn diện với chế độ ăn uống, nghỉ ngơi.

- Isoniazid [INH-Rimifon]: Ký hiệu H.

. Đặc điểm: Có cấu trúc tương tự Pyridoxin, tác động vào quá trình hình thành vi khuẩn.

. Chống chỉ định: Suy gan nặng, thiếu men G6PD.

. Tác dụng ngoài ý muốn: Nhiễm độc gan, mất ngủ, co giật, bí đái, rối loạn tâm thần.

. Liều dùng: 5 mg/kg/24giờ ở người lớn.

- Rifamycin: Ký hiệu là R.

. Đặc điểm: Là dẫn xuất bán tổng hợp của Rifamycin ức chế ARN polymeraza cần cho sự tổng hợp ARN và ADN của vi khuẩn. Kháng thuốc thường xuất hiện nhanh.

. Liều lượng: 8-12 mg/kg/24giờ ở người lớn.

. Tác dụng ngoài ý muốn: Nhiễm độc gan, thận, mẩn ngứa, giảm tiểu cầu.

. Tương tác thuốc: Warfarin, Ketoconazol, Chloramphenicol.

- Pyrazinamid: Ký hiệu Z.

. Đặc điểm: Cấu trúc hóa học giống như Isoniazid, là dẫn xuất của Nicotinamid.

. Liều lượng: 1,5-2,5 g/24giờ ở người lớn.

. Tác dụng ngoài ý muốn: Nhiễm độc gan, đau khớp.

- Ethambutol: Ký hiệu E.

. Đặc điểm: Kháng thuốc thường xuất hiện nhanh.

. Liều lượng: 15-25 mg/kg/24giờ ở người lớn.

. Tác dụng ngoài ý muốn: Giảm thị lực, viêm thần kinh thị giác.

- Streptomycin: Ký hiệu S.

. Đặc điểm: Là kháng sinh nhóm Aminoglycosid, chiết suất từ dịch nuôi cấy sinh vật, ức chế tổng hợp protein vi khuẩn ở mức ribosom.

. Liều lượng: 0,75-1 g hay 20 mg/kg/24giờ, không vượt quá 80g trong đợt điều trị.

. Tác dụng ngoài ý muốn: Điếc, dị cảm quanh miệng, giảm tế bào máu, độc thận.

- Thioacetazon: Ký hiệu Tb1. Ít sử dụng.

Hiện nay, nhiều phác đồ phối hợp thuốc chống lao đã được chứng minh là có hiệu quả và được áp dụng tùy thuộc điều kiện khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới. Ở nước ta, chương trình chống lao quốc gia hiện đang sử dụng 3 phác đồ điều trị lao ngắn hạn áp dụng cho các loại bệnh nhân khác nhau, đặc biệt trong điều trị lao phổi. Trong điều trị lao thận chưa được nghiên cứu nhiều.

Phác đồ điều trị 8 tháng, cho bệnh nhân lao mới [2SHRZ/6HE]:

- Hai tháng đầu: Giai đoạn tấn công, điều trị hàng ngày bằng 4 loại thuốc: Streptomycin, Rifamycin, Isoniazid và Pyrazinamid.

- Sáu tháng sau: giai đoạn duy trì, điều trị hàng ngày bằng 2 loại thuốc: Isoniazid và Ethambutol.

Phác đồ điều trị 8 tháng, cho bệnh nhân lao cũ [thất bại hoặc tái phát với phác đồ trước] - 2SHRZE/1HRZE/5H3R3E3.

- Hai tháng đầu: Điều trị hàng ngày bằng 5 loại thuốc: SHRZE.

- Tháng thứ 3: Điều trị hàng ngày bằng 4 loại thuốc: HRZE.

- Năm tháng sau: điều trị 3 lần/tuần bằng 3 loại thuốc: HRE.

Phác đồ điều trị 6 tháng, cho bệnh nhân lao trẻ em: 2HRZ/4RH.

- Ở Việt Nam, điều trị lao bằng hóa trị liệu ngắn ngày có giám sát trực tiếp [DOTS] đang được áp dụng rộng rãi.

7.2. Ngoại khoa:

Tùy theo tổn thương mà có các chỉ định:

- Cắt bán phần thận.

- Cắt thận.

- Chỉnh hình, sửa chữa, tái tạo đường dẫn niệu.

7.3. Thay thế: Khi giảm nặng chức năng cần lọc ngoài thận.

Video liên quan

Chủ Đề