Nhập cư đã giúp cho Hoa Kỳ phát triển kinh tế như thế nào

Mục lục

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Hoa Kỳ

Thời kỳ thuộc địa và thế kỷ 18Sửa đổi

Lịch sử kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ giai đoạn di dân và định cư của người Anh dọc trên bờ biển phía đông nước Mỹ ngày nay trong thế kỷ 17 và 18. Cuộc di dân và định cư này hình thành nên các thuộc địa của Anh ở Mỹ hay còn được gọi là Mười ba thuộc địa, các thuộc địa này đã dành được độc lập từ tay Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 và nhanh chóng phát triển từ nền kinh tế thuộc địa sang nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp.

Thế kỷ 19Sửa đổi

Công ty sản xuất và chế tạo Washburn và Moen ở Worcester, Massachusetts, 1876

Trong 180 năm, nền kinh tế Mỹ đã phát triển thành một nền kinh tế công nghiệp hoá hợp nhất với quy mô khổng lồ, chiếm tới một phần năm sản lượng nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là mức thu nhập GDP bình quân đầu người trước kia thấp hơn nay đã vượt qua Anh Quốc cũng như các quốc gia khác. Nhờ chính sách duy trì mức trả tiền công rất cao giúp nền kinh tế thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới.

Trong những thập niên đầu 1800, nước Mỹ chủ yếu canh tác nông nghiệp với hơn 80% dân số làm nông. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất mới ở giai đoạn đầu của sơ chế nguyên liệu thô với các sản phẩm từ gỗ, dệt may, làm giầy dép. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đã đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và mở rộng kinh tế nhanh chóng trong suốt thế kỷ 19. Những vùng đất rộng lớn trù phú giúp nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất canh tác, nhưng các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, dịch vụ, vận tải và lĩnh vực khác cũng đã phát triển với tốc độ cao hơn nhiều. Vì thế mà đến năm 1860 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp tại Mỹ đã giảm từ 80% xuống còn xấp xỉ 50%.[62]

Trong thế kỷ 19, những đợt suy thoái kinh tế thường diễn ra tiếp sau các cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng 1837 nối tiếp sau nó thời kỳ suy thoái 5 năm, với hàng loạt nhà băng đóng cửa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.[63] Vì những thay đổi lớn của nền kinh tế qua nhiều thế kỷ, mức độ thiệt hại của suy thoái kinh tế trong thời kỳ hiện đại khó lòng so sánh được với những đợt suy thoái trước đây.[64] Thời kỳ suy thoái sau chiến tranh thế giới thứ 2 [WWII] có vẻ ít nặng nề hơn so với trước, nhưng nguyên nhân thì chưa được làm rõ.[65]

Thế kỷ 20Sửa đổi

Giếng dầu ở Los Angeles, California, 1905

Những phát minh và cải tiến kỹ thuật đầu thế kỷ đã mở ra canh cửa cho việc nâng cao mức sống của người dân Mỹ. Nhiều công ty đã tăng trưởng lớn nhờ tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô và sự phát triển của thông tin liên lạc để mở rộng mạng lưới ra khắp quốc gia. Việc tập trung phát triển này đã gây ra những lo ngại về nạn độc quyền sẽ kéo theo sự tăng giá cả hàng hoá và giảm sản lượng, tuy nhiên rất nhiều những công ty này đã thành công trong việc cắt giảm mạnh chi phí và tăng sản lượng dẫn đến giá hàng hoá được tiếp tục giảm xuống. Nhiều tầng lớp công nhân làm thuê đã được hưởng lợi trực tiếp từ những công ty phát triển này, cụ thể là hưởng những mức tiền công cao nhất thế giới.[66]

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP từ những năm 1920.[43] Nhiều năm tiếp theo sau cuộc Đại khủng hoảng 1930, khi mà những hậu quả của suy thoái trở nên nghiêm trọng nhất thì chính phủ đã có những hành động nhằm điều chỉnh nền kinh tế, bằng việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế nhằm kích thích người dân tăng chi tiêu tiêu dùng, và bằng việc tăng lượng cung tiền, chính phủ cũng thành công trong việc khuyến khích chi tiêu. Những ý tưởng về công cụ tốt nhất nhằm ổn định nền kinh tế đã thay đổi đáng kể từ giữa những năm 1930 và 1980. Từ kế hoạch chính sách mới [New Deal của tổng thống Franklin D. Roosevelt] năm 1933, tới sáng kiến xã hội vĩ đại của tổng thống Lyndon B. Johnson] năm 1960, các nhà làm chính sách đã dựa chủ yếu trên chính sách tài khoá để tác động tới nền kinh tế.

Những chiếc máy bay ném bom Consolidated B-24 Liberator tại Consolidated-Vultee Plant, Fort Worth, Texas, 1943

Trong suốt giai đoạn chiến tranh thế giới của thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã có những bước đi khôn ngoan hơn tất cả những quốc gia còn lại khi mà không có cuộc chiến nào của Chiến tranh thế giới thứ nhất [WWI] và một phần nhỏ của Chiến tranh thế giới thứ hai [WWII] xảy ra trên lãnh thổ Mỹ. Trong thời kỳ cao điểm của WWII, gần 40% GDP Hoa Kỳ đóng góp cho chiến tranh. Những quyết định về ngành sản xuất được phục vụ cho mục đích quân sự và gần như tất cả những yếu tố đầu vào được phân bổ cho nỗ lực chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được cố định phân phối, giá và tiền lương được kiểm soát và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng lâu bền không còn được sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được điều động vào quân đội, trả lương giảm một nửa và gần một nửa trong số này trở về với tình trạng bị thương.[67]

Học thuyết kinh tế mới của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes đã mang lại cho các chính trị gia vai trò tiên phong định hướng nền kinh tế, khi mà chi tiêu chính phủ và thuế được kiểm soát bởi Tổng thống và Quốc hội. Hiện tượng tăng trưởng nhảy vọt về dân số đã diễn ra trong thời kỳ 1942-1957, có nguyên nhân từ sự trì hoãn hôn nhân và sinh con trong trước đó trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế, tiếp sau là sự thịnh vượng tăng lên, nhu cầu về nhà ở cho các hộ gia đình tại nông thôn [cũng như nhà ở tại thành thị] và sự lạc quan mới về tương lai. Sự tăng nhảy vọt đạt đỉnh vào năm 1957, sau đó tăng chậm lại.[68] Một thời kỳ tăng cao lạm phát, lãi suất và thất nghiệp sau năm 1973 đã làm giảm đi sự tự tin trong việc sử dụng các chính sách tài khoá để điều chỉnh tốc độ chung của nền kinh tế.[69]

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng với tốc độ bình quân 3,8% một năm từ 1946 đến 1973, trong khi mức thu nhập trung bình hộ gia đình tăng 74% [hoặc 2,1% một năm].[70][71]

Đợt suy thoái kinh tế tồi tệ nhất trong những thập kỷ gần đây xảy ra sau khủng hoảng tài chính 2007-08, khi GDP giảm 5% từ mùa xuân 2008 đến mùa xuân 2009. Những đợt suy giảm đáng kể khác xảy ra vào 1957-58, GDP giảm 3,7%; tiếp theo khủng hoảng dầu mỏ 1973, GDP giảm 3,1% từ 1973 đến 1975; và đợt suy thoái 1981-82 GDP giảm 2,9%.[72][73] Những giai đoạn sau có thể kể đến một số đợt suy thoái nhẹ như: suy thoái 1990-91, GDP giảm 1,3%; suy thoái 2001, GDP giảm 0,3%.[73] Xen kẽ với những đợt suy thoái là những giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Có thể kể đến những thời kỳ kinh tế tăng trưởng ngoạn mục với tốc độ cao như: giai đoạn 1961-1969, GDP tăng 53% [5,1% một năm]; 1991-2000, GDP tăng 43% [3,8% một năm], và 1982-1990, GDP tăng 37% [4% một năm].[72]

Nhà hàng McDonald's ở Mount Pleasant, Iowa

Trong những năm 1970 và 1980, nhiều người Mỹ tin rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ vượt qua Mỹ, nhưng điều này đã không xảy ra.[74]

Từ những năm 1970, một vài nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách với kinh tế Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này xảy ra có nguyên nhân từ việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất vốn trước kia đặt tại Mỹ tới các quốc gia này, nơi việc sản xuất được thực hiện với chi phí thấp hơn, đủ để bảo đảm các chi phí vận chuyển và đem lại lợi nhuận cao hơn. Trong các trường hợp khác, một vài quốc gia đã dần học được cách sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ giống như những loại trước kia chỉ được sản xuất tại Mỹ và một số quốc gia khác. Tăng trưởng về thu nhập thực tế của Hoa Kỳ đã chậm lại.

Đầu thế kỷ 21Sửa đổi

Xem thêm: Đại suy thoái và en:COVID-19 recession

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua cuộc khủng hoảng năm 2001 với sự phục hồi về việc làm chậm chưa từng có khi số lượng việc làm không thể hồi phục về như mức vào tháng 2 năm 2001 cho mãi đến tận tháng 1 năm 2005.[75] Cuộc khủng hoảng này đi kèm với bong bóng bất động sản và bong bóng nợ được cho rằng là đang ngày một nhiều lên bởi tỷ lệ nợ của các hộ gia đình trên GDP đã tăng lên mức kỷ lục từ 70% vào quý 1 năm 2001 lên 99% vào quý 1 năm 2008. Những người muốn sở hữu nhà ở phải đi vay để trả tiền cho những căn nhà đang có nguy cơ rơi vào tình trạng bong bóng làm tăng mức nợ của họ lên trong khi GDP đang tăng trưởng một cách thiếu ổn định. Khi giá nhà ở giảm vào năm 2006, giá trị của các trái phiếu có tài sản thế chấp giảm mạnh khiến tiền gửi tại các hệ thống ngân hàng phi lưu ký đồng loạt bị khách hàng rút ra một cách không có kiểm soát, hiện tượng này hay còn gọi là Đột biến rút tiền gửi, các hệ thống ngân hàng phi lưu ký này thậm chí còn có thời kỳ từng phát triển vượt trội hơn so với các loại hình ngân hàng lưu ký được kiểm soát. Rất nhiều công ty cho vay thế chấp và các ngân hàng phi lưu ký khác [ví dụ: Các ngân hàng đầu tư] thậm chí đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng còn tồi tệ hơn vào giai đoạn 2007-2008 khi mà cuộc khủng hoảng ngân hàng lên đến đỉnh điểm vào năm 2008 đã buộc tập đoàn Lehman Brothers phải tuyên bố phá sản cùng với việc nhiều tổ chức tài chính khác phải kêu gọi sự cứu giúp.[76]

Tổng thống Donald Trump và những nhà lãnh đạo hàng đầu ngành công nghiệp ô tô của Mỹ, 2017

Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Bush[2001-2009] và Obama[2009-2017], các chương trình cứu trợ tài chính và gói kích thích tăng trưởng kinh tế mang tên Keynesian đã được áp dụng thông qua các khoản chi lớn từ ngân sách chính phủ đồng thời Cục Dự trữ Liên Bang duy trì chính sách các khoản vay với lãi suất gần như là không đồng. Các biện pháp kể trên đã khôi phục được nền kinh tế khi mà các hộ gia đình đã gần như trả được hết nợ trong giai đoạn 2009-2012, điều chưa từng xảy ra kể từ năm 1947[77] đã tạo ra một rào cản đáng kể cho tiến trình hồi phục.[76] GDP thực tế tính đến trước năm 2011,[78] giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình trước quý 2 năm 2012,[79] bảng lương phi nông nghiệp trước tháng 5 năm 2014[75] và tỷ lệ thất nghiệp trước tháng 9 năm 2015[80] đều đạt được những con số tích cực nhất trong giai đoạn trước khủng hoảng [cuối năm 2007]. Những chỉ tiêu trên tiếp tục đạt được những con số kỷ lục của giai đoạn sau suy thoái ở những ngày sau đó, đánh dầu thời kỳ phục hồi dài thứ 2 trong lịch sử Hoa Kỳ cho đến tháng 4 năm 2018.[81]

Nợ nắm giữ bởi công chúng - 1 chỉ tiêu đo lường nợ quốc gia, đã tăng lên trong suốt thế kỷ 21 từ con số 31% GDP vào năm 2000 lên thành 52% vào năm 2009 và năm 2017 đã đạt mức 77%, khiến Hoa Kỳ trở thành quốc gia có tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP cao thứ 43 trong tổng số 207 quốc gia. Sự bất bình đẳng trong thu nhập đạt đỉnh vào năm 2007 và giảm xuống trong thời kỳ Đại khủng hoảng , mặc dù vậy Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có sự chênh lệch về thu nhập cao thứ 41 trên tổng số 156 quốc gia vào năm 2017 [74% các quốc gia có phân phối thu nhập bình đẳng hơn Hoa Kỳ].[82]

Dữ liệuSửa đổi

Bảng dưới đây trình bày các chỉ số kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ giai đoạn 1980-2019.[83]

Năm GDP danh nghĩa
[tỷ Đô-la Mỹ] GDP bình quân
[Đô-la Mỹ] Tăng trưởng GDP
[thực tế] Tỷ lệ lạm phát
[%] Tỷ lệ thất nghiệp
[%] Ngân sách cân đối
[theo% GDP][84] Nợ chính phủ do công chúng nắm giữ
[theo% GDP][85] Tài khoản vãng lai
balance
[theo% GDP]
2020 [dự báo] 20,934.0 57,589 −3.5% 0.62% 11.1% −n/a% 79.9% −n/a%
2019 21,439.0 64,674 2.2% 1.8% 3.5% −4.6% 78.9% −2.5%
2018 20,611.2 62,869 3.0% 2.4% 3.9% −3.8% 77.8% −2.4%
2017 19,519.4 60,000 2.3% 2.1% 4.4% −3.4% 76.1% −2.3%
2016 18,715.0 57,878 1.7% 1.3% 4.9% −3.1% 76.4% −2.3%
2015 18,224.8 56,770 3.1% 0.1% 5.3% −2.4% 72.5% −2.2%
2014 17,521.3 54,993 2.5% 1.6% 6.2% −2.8% 73.7% −2.1%
2013 16,784.9 52,737 1.8% 1.5% 7.4% −4.0% 72.2% −2.1%
2012 16,155.3 51,404 2.2% 2.1% 8.1% −5.7% 70.3% −2.6%
2011 15,517.9 49,736 1.6% 3.1% 8.9% −7.3% 65.8% −2.9%
2010 14,964.4 48,311 2.6% 1.6% 9.6% −8.6% 60.8% −2.9%
2009 14,418.7 46,909 −2.5% −0.3% 9.3% −9.8% 52.3% −2.6%
2008 14,718.6 48,302 −0.2% 3.8% 5.8% −4.6% 39.4% −4.6%
2007 14,477.6 47,955 1.9% 2.9% 4.6% −0.8% 35.2% −4.9%
2006 13,855.9 46,352 2.9% 3.2% 4.6% −0.1% 35.4% −5.8%
2005 13,093.7 44,218 3.3% 3.4% 5.1% −1.2% 35.8% −5.7%
2004 12,274.9 41,838 3.8% 2.7% 5.5% −2.3% 35.7% −5.1%
2003 11,510.7 39,592 2.8% 2.3% 6.0% −2.8% 34.7% −4.1%
2002 10,977.5 38,114 1.8% 1.6% 5.8% −1.7% 32.7% −4.1%
2001 10,621.9 37,241 1.0% 2.8% 4.7% 1.2% 31.5% −3.7%
2000 10,284.8 36,433 4.1% 3.4% 4.0% 2.3% 33.7% −3.9%
1999 9,660.6 34,602 4.8% 2.2% 4.2% 1.3% 38.3% −3.0%
1998 9,089.2 32,929 4.5% 1.5% 4.5% 0.8% 41.7% −2.4%
1997 8,608.5 31,554 4.4% 2.3% 4.9% −0.2% 44.6% −1.6%
1996 8,100.1 30,047 3.7% 2.9% 5.4% −1.3% 47.0% −1.5%
1995 7,664.1 28,763 2.7% 2.8% 5.6% −2.1% 47.7% −1.5%
1994 7,308.8 27,756 4.0% 2.6% 6.1% −2.8% 47.8% −1.7%
1993 6,878.7 26,442 2.7% 3.0% 6.9% −3.7% 47.9% −1.2%
1992 6,539.3 25,467 3.6% 3.0% 7.5% −4.5% 46.8% −0.8%
1991 6,174.1 24,366 −0.1% 4.2% 6.9% −4.4% 44.1% 0.0%
1990 5,979.6 23,914 1.9% 5.4% 5.6% −3.7% 40.9% −1.3%
1989 5,657.7 22,879 3.7% 4.8% 5.3% −2.7% 39.4% −1.8%
1988 5,252.6 21,442 4.2% 4.1% 5.5% −3.0% 39.9% −2.3%
1987 4,870.2 20,063 3.5% 3.6% 6.2% −3.1% 39.6% −3.3%
1986 4,590.1 19,078 3.5% 1.9% 7.0% −4.8% 38.5% −3.2%
1985 4,346.8 18,232 4.2% 3.5% 7.2% −4.9% 35.3% −2.7%
1984 4,040.7 17,099 7.2% 4.4% 7.5% −4.6% 33.1% −2.3%
1983 3,638.1 15,531 4.6% 3.2% 9.6% −5.7% 32.2% −1.1%
1982 3,345.0 14,410 −1.8% 6.2% 9.7% −3.8% 27.9% −0.2%
1981 3,211.0 13,966 2.6% 10.4% 7.6% −2.5% 25.2% 0.2%
1980 2,862.5 12,575 −0.2% 13.5% 7.2% −2.6% 25.5% 0.1%

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Tiêu đề 8 của Bộ luật Hoa Kỳ § 1101[a][22] ["Thuật ngữ 'quốc tịch Hoa Kỳ' có nghĩa là [A] một công dân Hoa Kỳ, hoặc [B] một người, mặc dù không phải là công dân Hoa Kỳ, có lòng trung thành vĩnh viễn với Hoa Kỳ."]
  2. ^ “United Nations Population Division | Department of Economic and Social Affairs”. www.un.org. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
  3. ^ “Ausländer in Zahlen”. Blick. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018.
  4. ^ Canada, Government of Canada, Statistics. “The Daily — Immigration and ethnocultural diversity: Key results from the 2016 Census”. www150.statcan.gc.ca [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2018.
  5. ^ a b c “Table 7. Persons Obtaining Lawful Permanent Resident Status By Type And Detailed Class Of Admission: Fiscal Year 2016 — 2016 Yearbook of Immigration Statistics”. DHS.gov. United States Department of Homeland Security [DHS]. 18 tháng 12 năm 2017. Truy cập 23 tháng 6 năm 2018.
  6. ^ “Green Card for a Victim of a Crime [U Nonimmigrant]”. www.uscis.gov. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
  7. ^ “INS CLASS OF ADMISSION CODES” [PDF]. www.hplct.org. Truy cập 30 tháng 7 năm 2019.
  8. ^ Foner, Nancy; Fredrickson, George M. biên tập [ngày 8 tháng 12 năm 2005]. “Chapter 6: American Gatekeeping: Race and Immigration Law in the Twentieth Century”. Not Just Black and White: Historical and Contemporary Perspectives on Immigration, Race, and Ethnicity in the United States. Russell Sage Foundation. ISBN978-0-87154-270-0. Bản gốc lưu trữ 1 tháng 1 năm 2016.
  9. ^ “Per Country Limit”. U.S. Citizenship and Immigration Services. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 1 năm 2016. vào năm 1965.
  10. ^ "Immigrants in the United States and the Current Economic Crisis Lưu trữ 2010-04-08 tại Wayback Machine", Demetrios G. Papademetriou and Aaron Terrazas, Migration Policy Institute, Tháng 4 năm 2009.
  11. ^ "Immigration Worldwide: Policies, Practices, and Trends Lưu trữ 2016-01-01 tại Wayback Machine". Uma A. Segal, Doreen Elliott, Nazneen S. Mayadas [2010],
  12. ^ The Integration of Immigrants into American Society [bằng tiếng Anh]. National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine. 2015. doi:10.17226/21746. ISBN978-0-309-37398-2. Người Mỹ từ lâu đã tin rằng người nhập cư có nhiều khả năng hơn người bản địa phạm tội và nhập cư tăng dẫn đến tội phạm gia tăng... Niềm tin này có khả năng phục hồi đáng kể với bằng chứng trái ngược rằng người nhập cư thực tế ít có khả năng phạm tội hơn người bản địa..

Tác động tích cực của người nhập cư tới nền kinh tế Hoa Kỳ

Share
Xem

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Chương trình đầu tư định cư Mỹ, lấy thẻ xanh EB-5 dự kiến sắp mở cửa nhận hồ sơ trở lại, đồng thời tăng mức đầu tư vào thời gian tới. Nhà đầu tư chỉ còn 1 tháng để tranh thủ mức đầu tư 500.000 USD.

Chương trình EB-5 diện trung tâm vùng sẽ được gia hạn đến 2027, mở cửa hồ sơ vào 18/2/2022 và mức đầu tư tối thiểu sẽ tăng lên 700.000 USD.

Trên thực tế, có 2 nhóm chương trình giúp nhà đầu tư lấy thêm quốc tịch cho gia đình: nhóm chương trình quốc tịch nhanh và nhóm chương trình lấy quyền cư trú có lộ trình lên quốc tịch. Mỗi nhóm chương trình đều có mặt lợi và hạn chế riêng.

8 suất đầu tư cuối cùng từ dự án Higher Ground Education, dự án mở thêm 11 trường mầm non & tiểu học tại Mỹ theo phương pháp Montessori. Dự án dự kiến sẽ hoàn tất và sẵn sàng hoạt động vào cuối năm nay.

Việc rút đơn kháng cáo giúp bảo toàn Luật EB-5 cũ, nhà đầu tư vẫn có thể đầu tư mức 500.000 USD sau khi Chính phủ Mỹ mở cửa nhận hồ sơ trở lại

Chương trình EB-5 sẽ mở cửa khi nào? Nhà đầu tư có bao nhiêu thời gian để nộp hồ sơ để tranh thủ mức 500.000USD? Đó là 2 câu hỏi được các nhà đầu tư quan tâm nhất ở thời điểm hiện tại.

Chương trình đầu tư lấy thẻ xanh EB-5 có khả năng mở cửa nhận hồ sơ trở lại vào tháng 12/2021. IMM Group xin giới thiệu đến anh/chị nhà đầu tư Top 4 dự án EB-5 an toàn, thỏa mức đầu tư 500.000 USD trong năm 2021.

Dự án Rhoads Industries III nâng cấp xưởng chế tạo các bộ phận cho tàu ngầm hạt nhân của Hải quân Mỹ hiển nhiên là một dự án EB-5 lý tưởng cho kế hoạch định cư Mỹ của bất kỳ nhà đầu tư nào. Dự án đang tiếp tục huy động vốn EB-5 lần 3, là cơ hội đặc biệt chỉ dành cho 36 nhà đầu tư đăng ký sớm nhất.

Chương trình đầu tư lấy thẻ xanh EB-5 có khả năng mở cửa nhận hồ sơ trở lại vào tháng 12/2021. Tuy nhiên, nhà đầu tư chỉ có 1-2 tháng để tranh thủ mức đầu tư 500.000 USD. Dự án Whisky Hotel tại Hollywood chỉ còn 6 suất đầu tư cho Việt Nam.

Dự án khách sạn Marriott nằm cạnh sân bay San Francisco với 55 triệu lượt khách du lịch sẽ là cơ hội đầu tư tuyệt vời cho hồ sơ xin Visa định cư Mỹ EB-5.

Dự án trạm chứa dầu đã có chấp thuận thuộc vùng khuyến khích đầu tư, I-924 - Jefferson Terminal, hiện là lựa chọn an toàn để gia đình nhà đầu tư lấy thẻ xanh Mỹ

Nhiều nhà đầu tư EB-5 thường đặt ra câu hỏi, nếu đương đơn đứng hồ sơ mang quốc tịch Việt Nam, nhưng người phụ thuộc có quốc tịch nước khác [ví dụ: Trung Quốc] thì khi phân bổ Visa EB-5 sẽ được tính theo quốc tịch nào. IMM Group sẽ chia sẻ vấn đề này […]

Hiện tại có rất nhiều cánh cửa để người Việt trực tiếp đầu tư vào Mỹ. IMM Group giới thiệu các dịch vụ được nhiều nhà đầu tư quan tâm nhất.

Từ 06/12, hành khách trên các chuyến bay quốc tế đến Mỹ phải có kết quả xét nghiệm âm tính trong vòng 1 ngày trước giờ bay.

IMM Group sẽ chia sẻ cụ thể qua bài viết dưới đây.Tùy vào tiến độ thụ lý hồ sơ, các thành viên phụ thuộc trong gia đình ly hôn khi làm hồ sơ EB-5sẽ có hướng giải quyết để tiếp tục xin cấp thẻ xanh khác nhau.

Chương trình đầu tư EB5 là con đường định cư Mỹ trực tiếp và hiệu quả nhất hiện nay. Chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư đang rất quan tâm đến các dự án EB5 với mong muốn nhận được thẻ xanh nhanh chóng. Đặc biệt, những dự án EB5 thuộc trung tâm vùng sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn so với các dự án khác.

Chứng minhnguồn tiền đầu tư EB-5là yêu cầu đầu tiên trong quy trình hồ sơ EB-5. Thủ tục khá phức tạp, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từcông ty tư vấn di trúcó kinh nghiệm. Nhà đầu tư cần biết để chủ động chuẩn bị các giấy tờ cần thiết.

Từ ngày 31/3/2020, Sở Di trú và Nhập tịch Mỹ [USCIS] sẽ thay đổi cách thụ lý hồ sơ I-526[bộ hồ sơ xin thẻ xanhMỹdiện đầu tư EB-5]. Thay vì ưu tiên xét duyệt hồ sơ I-526 cho những ai nộp trước theo thứ tự thời gian, USCIS sẽ ưu tiên xét hồ sơ cho những ai sắp đến hạn ngạch được cấp visa.

Hoa Kỳ thu hút người nước ngoài ở Châu Âu sau Brexit?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một cuộc khảo sát năm 2017, xếp hạng các quốc gia về mức độ hấp dẫn đối với người nước ngoài, cho thấy nước Anh đã giảm 21 bậc so với năm 2016 - một phần do Brexit .

Việc bầu tổng thống Mỹ và Brexit đã tạo ra nhiều tranh cãi ở hai nước này. Nhưng nó ảnh hưởng thế nào đến người nước ngoài? Catherine Hickley giải thích.

Đối với đa số người, ngày chính xác Anh chào vĩnh biệt Liên Minh Châu Âu còn mù mịt trong sương khói của nền chính trị đảng phái. Trong khi các chính trị gia cãi vã thì nhiều người lao động trẻ tài năng đã có quyết định của mình.

Theo một cuộc khảo sát hơn 10.000 người lao động của công ty kiểm toán BDO, công bố vào tháng 1, thì Anh đã không còn nằm trong số 6 nước mà người Châu Âu muốn tới làm việc vì cho rằng Brexit đã thể hiện là gánh nặng cho tương lai của kinh tế Anh.

Năm 2012, Anh được xếp hạng chung ở vị trí thứ hai nhưng đã bị Canada, Úc, Đức, Thụy Sĩ và Tây Ban Nha vượt qua. So sánh với Mỹ, nước giữ vị trí hàng đầu mặc dù các khách quốc tế đang giảm sút, được gọi là "sự tụt dốc Trump" bởi những người đổ lỗi sự sa sút là do chính sách của tổng thống Donald Trump, như trấn áp nhập cư và các quy định thị thực chặt chẽ hơn đối với một số quốc gia.

Quảng cáo

Gần một phần tư số người Châu Âu được hỏi đã xếp hạng Hoa Kỳ trong số ba quốc gia hàng đầu được lựa chọn để chuyển đến làm việc, mặc dù sự ưa thích có giảm nhẹ so với những năm trước, giảm 5% so với năm 2012. Trên toàn cầu, Hoa Kỳ vẫn đứng đầu, mặc dù tỷ lệ người bỏ phiếu cho vị trí hàng đầu giảm từ 34% xuống 30%.

Có nên bám trụ công việc mình ghét?

Trump ngăn Trung Quốc mua một công ty Mỹ

Nhịn ăn sáng trong bao lâu thì đủ tiền mua nhà?

"Bất luận ai có thể nghĩ thế nào về chính trị của Mỹ, Mỹ vẫn giữ vị trí số một trên toàn thế giới vì kinh tế đang bùng nổ," Andrew Bailey, đối tác về dịch vụ tư vấn nguồn nhân lực của BDO tại London, nói. "Nó vẫn được coi là một vùng đất của cơ hội."

Banu Senyurt, một sinh viên đã tốt nghiệp người Đức đang hoàn thành bằng MBA tại New York, đồng ý. "Có thêm rất nhiều cơ hội việc làm ở Mỹ hơn là ở Đức," cô nói. "Bạn có thể đạt được mục tiêu của mình nhanh hơn. Ở Đức thời gian mà bạn làm cho công ty được đánh giá cao hơn là kỹ năng cá nhân của bạn khi xét nâng lương."

"Tôi trông thấy rất nhiều cuộc phản đối và biểu tình," Senyurt nói. "Nhưng cho đến nay, cá nhân tôi chưa từng bị ảnh hưởng bởi các chính sách của Trump. Tôi dự định ở lại đây, nhưng tôi không biết liệu trong tương lai sẽ có khó khăn hơn trong đời sống và làm việc hay không đối với người nước ngoài."

Video liên quan

Chủ Đề