Phật mẫu địa cứu thế có nghĩa là gì năm 2024
HỎI:Tôi nhận được một Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu, bìa trước có in hình Diêu Trì Kim Mẫu (rất giống hình Bồ tát Quán Âm), ghi Phật lịch 2552. Sau khi xem qua phần Nghi thức tụng kinh Địa Mẫu thấy cũng gần giống với nghi thức tụng niệm trong kinh Nhật tụng Phật giáo, có dâng hương, lễ Phật - Pháp - Tăng, phần chánh kinh (Địa Mẫu chơn kinh, Địa Mẫu diệu kinh) rồi đến Tâm kinh Bát Nhã, Vãng sanh thần chú, Sám nguyện, Tam quy v.v… nhưng nội dung thì rất khác biệt với các kinh Phật thông thường. Như vậy, người Phật tử có nên tụng niệm, lưu hành và ấn tống kinh này không? Mong được quý Báo hướng dẫn. (TÂM THỦY, Q.3, TP.HCM) ĐÁP:Bạn Tâm Thủy thân mến! Đọc xong Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu, tuy kinh được phát hành dưới dạng “lưu hành nội bộ” để ấn tống, không có tên người hoặc đơn vị chủ trương, không có tên nhà xuất bản nhưng chúng tôi vẫn xác định được rằng kinh này của ngoại đạo, không nằm trong danh mục kinh sách Phật giáo. Nội dung kinh tập trung giới thiệu sự tích, quyền năng và công hạnh của đức Diêu Trì Kim Mẫu (còn gọi Phật Mẫu Diêu Trì) cùng với những lời khuyến cáo tin tưởng, răn nhắc tu hành. Theo Cao Đài Từ điển, soạn giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, Phật Mẫu là hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn (Ngọc hoàng Thượng đế) chưởng quản khí Âm quang và toàn thể càn khôn vũ trụ. Hết thảy vạn linh, tất cả sự sự vật vật đều do Phật Mẫu tạo ra. Phật Mẫu được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau như: Phật Mẫu (mẹ thiêng liêng của vạn linh và chúng sanh), Diêu Trì Kim Mẫu (vì Phật Mẫu ngự tại cung Diêu Trì), Kim Bàn Phật Mẫu (vì chưởng quản Kim Bàn - nơi Phật Mẫu dùng chứa các nguyên chất để tạo Chơn thần cho con người nơi cõi thiêng liêng), Cửu Thiên Huyền Nữ (Phật Mẫu ngự tại từng thứ 9 trong Cửu trùng thiên), Mẹ thiêng liêng, Đại từ mẫu, Thiên hậu, Địa mẫu, Mẹ sanh. Phật giáo luôn tôn trọng các tín ngưỡng và tôn giáo khác. Tuy nhiên, Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu sử dụng rất nhiều yếu tố Phật giáo, có thể khiến cho những người Phật tử sơ cơ nhầm lẫn đây là kinh Phật nên chúng tôi phải miễn cưỡng bàn luận. Trước hết, bìa kinh in hình Diêu Trì Kim Mẫu rất giống hình Bồ tát Quán Thế Âm, lại ghi Phật lịch 2552, khá giống với quy cách của kinh sách Phật giáo. Thứ đến, phần mở đầu Nghi thức tụng kinh Địa Mẫu có đủ các chân ngôn của Phật giáo như: Tịnh pháp giới, Tịnh tam nghiệp, Phổ cúng dường. Phần xướng lễ Phật-Pháp-Tăng, tuy nội dung không phải là kính lễ Tam bảo của Phật giáo nhưng cũng khiến cho những người chưa mấy am tường về Tam bảo nhầm lẫn. Đặc biệt Phật A Di Đà và Phật Di Lặc (hai vị Phật quá khứ và tương lai của Phật giáo) cũng được kinh này xưng danh hiệu và kính lễ. Nhất là sau phần chánh kinh (Địa Mẫu chơn kinh, Địa Mẫu diệu kinh), đến xướng lễ Lạy Địa Mẫu (tr.63-64, sđd) có đoạn: “Nam mô Địa Mẫu ân độ sanh vô lượng/Ân bảo trì cứu tử lại vô biên/Mẹ của nhân gian, mẹ Thánh mẹ Hiền/Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi nhớ” (lạy 1 lạy) và “Nam mô Địa Mẫu xin mẹ ban ân lành/Cho Việt Nam Phật giáo thịnh hành/Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành/Cho con mẹ bốn phương đều kính mẹ” (lạy 1 lạy). Ở hai đoạn này có hai từ quan trọng là “Phật tử” và “Việt Nam Phật giáo” đã đề cập trực tiếp đến Phật giáo Việt Nam. Thiết nghĩ, trong kinh điển Phật giáo không tôn thờ vị Phật hay Bồ tát nào tên Địa Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu) cả. Ở đây có một sự gán ghép hết sức khiên cưỡng, thiếu thành ý và không thể chấp nhận của người biên soạn Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu. Quan trọng hơn, Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu đã sử dụng nguyên văn Tâm kinh Bát nhã (tr.66, sđd), thần chú Vãng sanh lồng ghép, chắp nối vào nhằm lạc dẫn người đọc là kinh Phật. Tiếp theo sau thần chú Vãng sanh, bài Xưng tán có đoạn: “Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán/Đấng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh”. “Chúng Thích tử” là một thuật ngữ Phật giáo, chỉ cho Tăng Ni và Phật tử đệ tử của Đức Phật. Và rõ ràng ngay trong lời quy nguyện đầu tiên, “Quy y Phật không quy y trời, thần, quỷ vật” nên “chúng Thích tử” không ai kiền thành xưng tán “Đấng Mẫu nghi” cả. Như vậy, dù Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu chỉ lưu truyền dưới dạng “lưu hành nội bộ” nhưng tác giả kinh này khi biên soạn đã có chủ ý lợi dụng kinh Phật và ảnh hưởng Phật giáo để chiêu dụ những Phật tử sơ cơ. Do đó, hàng Phật tử không nên đọc tụng, lưu hành và ấn tống kinh này. Mỗi khi gặp những kinh lạ, hàng Phật tử phải thỉnh ý chư Tăng Ni duyệt lãm trước khi đọc tụng, hành trì để tránh lầm lạc, rơi vào tà kiến và những hậu quả đáng tiếc. Hoàng Mẫu chơn kinh, cầu nguyện Tam cõi cộng đồng, Thánh Thần Tiên Phật nghe nguyện này vui hỷ lạc thanh tịnh trang nghiêm, cầu cho quốc thới dân an, thế giới thái bình an lạc xứ. (1 lạy) Cầu cho chúng sanh nhân loại được ấm no, phước lộc thọ đủ đầy, thoát ách, tiêu tai, nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ. (1 lạy) Cầu nguyện cho Phật tử nam nữ trẻ già trên non, dưới thế, theo Mẹ tu hành tinh tấn, tâm lành sáng suốt, hiếu đạo vẹn toàn với Mẹ, tu cho đến ngày thành Tiên đạo bất thối tâm. (1 lạy) Cầu nguyện cho Cửu huyền Thất tổ, ông bà cha mẹ, lục thân quyến thuộc, âm siêu dương thới, đặng nghe lời của Mẫu, dứt tâm mê muội, xa lìa tội ác, hồn linh siêu thoát, sớm về nơi Tây vực, an vui mùi Tiên đạo. (1 lạy) Thành tâm khẩn nguyện, nhờ oai linh nhiệm mầu của Mẫu Kim Quang, vận chuyển gia đình hưng thạnh, quyến thuộc tăng phước hoàn viên, phước lộc thọ miên trường, sở nguyện sở cầu như ý. (1lạy) • Nam mô Phật Mẫu chứng minh. (1 lạy) • Nam mô Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh. (1 lạy) • Nam mô Diêu Trì cung, Hội Mẫu chứng minh. (1 lạy) ĐỊA MẪU CHƠN KINH TỰ LUẬN Quang Tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhật, Thiểm Tây, Hớn Trung Phủ, Thành Cố Huyện, Địa Mẫu miếu, phi loan truyền kinh. (Đời nhà Thanh, vua Quang Tự, năm thứ 9, nhằm tiết tháng Giêng, ngày mùng 9, tại nơi tỉnh Thiểm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cố, Phật Địa Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu, Bà giáng cơ bút truyền ra kinh này.) NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH Phật Địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tầng tối cao đặt quyển Chơn Kinh đặng khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tánh mạng cho tất cả người đời. XƯNG TÁN ĐỊA MẪU Địa Mẫu đấng tối cao giác ngộ Điển linh quang tế độ chúng sinh Hỡi ai chớ có lạc lầm Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẻo tu Cõi trần thế mịt mù tăm tối Phải nghe lời Mẹ thuyết chơn kinh Chớ ham vật chất lụy phiền Sớm mau thức tỉnh Mẹ ban phúc lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (3biến) CÚNG HƯƠNG Đốt hương trầm thấu đến Diêu Cung Thành tâm khẩn nguyện đức Mẫu Từ Trên khói hương này xin Mẫu Ngự Cảm ứng chứng minh tấc lòng thành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH Khai đuốc huệ tâm đăng tỏa sáng Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu Hạ ngươn kỳ ba Long Hoa Hội Mẹ ban điển lành mới rõ thông. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (3 biến) ³ ³ ³ ³ ³ ³ SÁM KINH ĐỊA MẪU DÂNG ĐĂNG Dâng đuốc thiêng thành tâm kỉnh Mẫu Ngọn linh đăng soi thấu mười phương Điển quang tỏa ánh chiêu dương Cầu xin Từ Mẫu Tây phương chứng đàn Mẹ giáng thế độ an non nước Chuyển huyền linh ban phước vạn dân Nguồn thương sầu đọng bâng khuâng Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miếu Tỉnh Thiểm Tây huyền diệu ứng linh Bút cơ Mẹ thảo tâm kinh Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương Nhìn biển cả trùng dương nước biếc Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau Mẹ trông từng lượn sóng ào Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi Núi sông vũ trụ đất trời Chính do Hoàng Mẫu tạo đời an vui Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh con Dâng đăng Mẹ chứng lòng son Vạn dân bá tánh nước non thanh bình. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH DÂNG HƯƠNG Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát Gió đông về ngào ngạt nguồn thương Chốn trần trẻ dại dâng hương Thỉnh cầu từ Mẫu Tây phương chứng đàn Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền Lạy cầu vọng thấu cung Tiên Nơi Tây Vương Mẫu diệu huyền chứng minh Mẹ thương con thâm tình muôn thuở Đạo hoằng khai truyền mở khắp nơi Gắng tu thoát tục xa đời Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về Nhìn quang cảnh sơn khê non nước Cõi giới ba hưởng phước Mẹ ban Chính do Hoàng Mẫu chỉnh an Độ cho sanh chúng một đàng chánh tu Làn khói bạc ngút mù bay tỏa Tâm hương thành hiện rõ Diêu cung Đài hương Mẹ ngự không trung Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền Tam nhựt Mậu cố siêng bái Mẫu Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương Con quỳ dâng nén tâm hương Lạy Mẹ phủ đức thập phương an lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH ³ ³ ³ DÂNG TRẦM Nhìn làn khói trầm hương bay tỏa Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu Đàn con tha thiết nguyện cầu Mẫu Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh Chốn trần miền cung nghinh đại lễ Kỷ niệm ngày giáng thế Từ tôn Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn Chuyển khai hoằng đạo pháp môn hạnh từ Đọc kinh Mẫu lòng như xao xuyến Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân Chuông chùa vang tiếng xa ngân Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa Khói hương trầm thiết tha theo gió Áng mây lành hiện rõ huyền vi Con nguyền kíp kíp tu trì Nương về theo bóng từ bi Mẫu Hoàng Cầu lịnh Mẹ chỉnh an non nước Điển Mẫu Từ ban phước chúng sanh Trần gian biết nẻo tu hành Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ Hạt bồ đề nẩy nở rừng cây Am thiền nối nghiệp thang mây Điển thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH DÂNG HOA Hoa tươi thắm kính dâng Từ Mẫu Gió hương lành nhẹ thổi mười phương Dập đầu lạy Mẹ xót thương Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa Lời vang cầu thiết tha ai oán Chốn dương trần tợ áng phù vân Chúng sanh đau khổ vô ngần Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa Ngày Kỵ Mậu sớm trưa bái Mẫu Tiếng chơn thành vọng thấu Diêu cung Gắng tu noi chí bá tùng Bồ đề hạnh nguyện thơm chung hương lành Điển huyền linh phủ quanh bao khắp Nhớ Mẫu hiền con chắp tay cầu Lạy Mẹ độ hết năm châu Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu cung Người chốn thế hiếu trung trọn giữ Hội Long Hoa Mẫu Tử tương phùng Hương lành thơm ngát lạ lùng Bồ đề nở rộ tại cung Diêu Trì Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh Tay ngà dâng đóa hoa xinh Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH ³ ³ ³ DÂNG QUẢ Quả tươi xanh tâm thành cung kỉnh Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ Tôn Điển linh phủ khắp càn khôn Chuyển khai đại đạo tiếng đồn vang xa Tụng kinh Mẫu gia gia an ổn Mẹ giáng trần hỗn độn sơ khai Lời châu ghi lại trần ai Là do huyết mạch phi tài Từ Tôn Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng Phước tài lộc thọ triền miên Dân lành nước thạnh nhà yên thanh bình Tam nhựt mậu trì kinh Địa Mẫu Chúng sanh đều số đổi nhàn thanh Mùa màng sung túc tươi xanh Quả hoa thơm ngát hương lành từ bi Thâm ân Mẹ khắc ghi kinh sử Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung Dập đầu bái tạ Vương cung Độ an sanh chúng tao phùng Long Hoa Kính lạy Mẫu thiết tha lời trẻ Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri Dập đầu lạy đức Diêu Trì Điển linh Mẹ phủ cứu nguy dân lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH ³ ³ ³ DÂNG THỦY Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát Nhớ trăng mười thập bát hằng niên Đúng ngày giáng thế Mẫu hiền Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng Độ dân lành bền vững tâm tu Sơn khê rảo bước ngao du Vào nơi biển Thánh rừng nhu tu hiền Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái Điển Mẫu Từ phủ rải khắp nơi Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu Mẹ truyền pháp nhiệm mầu phản chiếu Cứu đàn con tận hiếu tận trung Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi Hoằng khai đại đạo khắp nơi Kể từ vô thỉ đến đời hậu thiên Tâm kinh Mẫu lời khuyên lai láng Điển huyền linh tỏa sáng mười phương Tay dâng bát ngọc trà hương Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH SÁM KINH ĐỊA MẪU ÐỊA MẪU KINH Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành Cố Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh Thượng tầng tỏa ánh quang minh Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời. Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết Ðức Từ Tôn tha thiết khuyên con Hiếu trung giữ vẹn cho tròn Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh. Tam nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung Gia gia sum họp trùng phùng Dân an quốc thới hưởng chung thanh bình. Mùa màng được tươi xinh sung túc Mẹ độ con từng phút từng giây Núi sông vũ trụ đó đây Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên. Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ Tâm chơn kinh Mẹ tỏ lời châu Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu Hóa sanh bốn biển năm châu tươi nhuần. Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế Ðiển chơn linh phước huệ rải ban Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh. Phước lộc thọ hiển vinh do Mẫu Trọn đủ thời Kỵ Mậu hằng niên Dân an nước thạnh nhà yên Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì. Thơ thâm diệu huyền vi cơ bút Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh Xưa vua Bàn Cổ phong danh Diêu Trì Phật Mẫu hóa sanh muôn loài. Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ Ðiển âm dương kết tựu anh nhi Thượng tầng Mẫu ngự phương phi Phân ra Thiên Ðịa trị vì chúng sinh. Ðịa Mẫu truyền chơn kinh tâm huyết Khí âm dương hội hiệp cùng nhau Mưa hòa gió thuận tươi màu Hóa sanh nhơn loại ngạt ngào chơn thân. Vậy ai mới bước lần đường đạo Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh Lời châu Mẹ dạy huyền linh Hoàng Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn. Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng Ðộ nhơn sanh giữ đúng hạnh Tiên Từ đây Thiên Ðịa phân riêng Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời. Nhựt nguyệt tinh phương trời sáng tỏa Máy huyền vi hiện rõ thần thông Mẹ phân nam bắc tây đông Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn. Ðiển thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu Chốn trung ương Mẹ thủ địa châu Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành. Phu quân Mẫu trường sanh bất lão Tài cao minh sáng tạo huyền vi Thiên lung địa á diệu kỳ Tri âm phối hợp phục quy Diêu Ðài. Thiên Ðịa lập âm lai dương khứ Khí thần giao gìn giữ điển linh Ðất trời do tạo hóa sinh Pháp luân thường chuyển siêu hình căn nguyên Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa thánh Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh Thiên can thường chuyển vận hành địa chi. Thần với khí tựu thì thai thánh Mẹ cưu mang canh cánh thập niên Tình thâm mẫu tử thiêng liêng Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào. Trong bát quái phân vào tám hướng Tám quẻ do mỗi hướng định ra Sáu hào một quẻ đó là Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào. Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng Thập niên trường chuyển dụng thánh thai Minh quân xuất thế trần ai Sáu vì Thiên tử phi tài huyền quang. Mẹ phân vua Thiên Hoàng con trưởng Ðến Ðịa Hoàng Mẹ thưởng thứ hai Nhơn Hoàng tam đệ thiên tài Còn ba vị nữa phân rày sau đây. Vua Phục Hy, ngài hay biến hóa Bát quái phân phát họa hiển linh Chỉ rành tám hướng thinh thinh Âm dương vũ trụ quang minh phân bày. Vua Thần Nông phi tài ngũ cốc Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi Ðó là hạt giống của Trời Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang. Vua Hiên Viên tạo ban y phục Ðem ấm no hạnh phúc vạn dân Lưu truyền cơm áo chốn trần Ðể cho người thế tâm thân thanh nhàn. Vũ trụ do Mẫu Hoàng xuất phát Mẫu tạo ra Bồ Tát, Thần, Tiên Thượng từng bao phủ điển thiêng Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh. Nhìn biển cả trời thanh nước biếc Khắp bốn mùa tám tiết trở xoay Gió ngàn tỏa lượn tầng mây Hóa sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm. Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trỗi Khắp muôn nước Từ Mẫu dưỡng sanh Các đời vương đế đại danh Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra. Danh lam có năm tòa thắng cảnh Chốn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi Cỏ cây cổ thụ sống đời Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành. Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh Nhân dân no ấm hiển vinh Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy. Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu Sự hóa sanh dời đổi vô thường Thân Mẹ là chỗ tựa nương Từ Tôn Ðịa Mẫu nguồn thương ngập tràn Nào châu, quận, thôn, làng, tỉnh, huyện Kìa lâu đài cung điện nguy nga Am, chùa, quán xá lập ra Hiền Thần, Tiên, Thánh Mẹ đà thưởng phân. Chư Phật đắc kim thân do Mẫu Cả trân châu ngọc bửu đó đây Thiếu chi kẻ ước việc này Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành. Loại kim khí bạc vàng quí báu Tất cả do Mẫu tạo xuất ra Vương hầu vạn quốc gia gia Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng. Người chốn thế hiếu trung hưởng phước Bao huyền linh sau trước Mẹ ban Dân an quốc thới thanh nhàn Ðế Vương cung kỉnh Mẫu Hoàng Từ Tôn Nước nào bị dập dồn chinh chiến Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành Vậy ai nào biết đến danh Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây. Có tạo lãnh the đầy lụa vải Cùng quả hoa rau cải trái cây Nào là chua ngọt đắng cay Lúa ăn, thuốc uống, rừng cây ai tường. Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi Khắp nhơn sinh ai khỏi bệnh đau Hóa sanh linh dược nhiệm mầu Cao lương mỹ vị thiếu đâu vật nào. Lại có giấm, chanh, dầu, tương, muối Suối nào bằng nguồn suối tình thương Mẹ ban trăm vạn mùi hương Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con. Công lao Mẹ bút son khó tả Tình bao la biển cả khó hơn Khổ đau Từ Mẫu chẳng sờn Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành. Vật ăn uống Mẹ dành con đó Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra Cân đai áo mão phù hoa Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày. Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng Thân Mẫu sanh ban thưởng khắp nơi Vật chi chẳng sót trên đời Mẫu không nghe có một lời nhớ thương. Trong vũ trụ tuần hườn tạo hóa Do Mẫu sanh ra quả địa cầu Biến dành sáu ngã luân hồi Biết bao sản vật hoa màu tốt xinh. Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu Dầu Hoàng Thiên khó nỗi sánh hơn Trên trời mưa đổ từng cơn Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu. Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam lộ Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh Cỏ cây tươi tốt hương thanh Ðịa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu. Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết Bao tinh vi sương tuyết giá băng Ðài mây gom tựu phủ giăng Gặp luồng quang điển biến tan mây liền. Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp Cù rồng kia trốn nấp ngàn sông Lãnh phần vận chuyển gió giông Mẹ truyền hoán võ hô phong ứng hầu. Cù rồng ở xứ nào chẳng có Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây Ðều do lịnh Mẹ phán bày Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu. Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai Nhọc nhằn nào quản đắng cay Ðiển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh. Chốn dương trần con lành tọa hưởng Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân Tất cả do lịnh Mẫu phân Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm. Mẹ thương con dạ thầm đau thắt Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu Ðiển quang nếu Mẹ rút thâu Càn khôn, vũ trụ, địa cầu tiêu tan. Khi cá ngao trở ngang vùng vẫy Thiên địa đành chịu phải rã đôi Dương trần như thể bèo trôi Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai. Ngoại càn khôn Như Lai tạm ẩn Chư Bồ Tát tàn lẫn biệt tin Từ vua chúa đến quân binh Sẽ đều tận diệt nhơn sinh điêu tàn. Phương hướng đành tiêu tan tất cả Như ở trong lò hỏa bị thiêu Muôn loài vạn vật bao nhiêu Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu. Mẹ phán truyền lời châu cao quý Ai sưu tầm diệu lý quang minh Tâm thành khảo sát chơn kinh Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành. Từ Tôn chiếu điển lành ban phước Sắc lịnh phê người được hiển vinh Phi tài huyền diệu cao minh Mẫu Từ giáng bút ngọc linh chi truyền. Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên Mẫu cho phản bổn huờn nguyên Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài Khai tâm rung chuyển đạo ngay Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua. Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu Chớ khoe tài nông nỗi mà chi Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì Quân thần văn võ chẳng khi lời vàng. Ðại Từ Tôn Mẫu Hoàng cao cả Ân đức dày vong ngã đành sao Tao nhân mặc khách anh hào Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lãng ngơ. Không đền đáp tôn thờ cung kính Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng Ðành lòng bội bạc chơn truyền lời châu. Chánh pháp đạo nhiệm mầu ai rõ Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi Phụ ân Từ Mẫu Diêu Trì Ðọa đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh. Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành Lão Bà hỗn độn hóa sanh Thuở còn mờ mịt trược thanh chưa tường Thiên Ðịa chia âm dương chơn khí Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn. Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ Mẫu Hoàng từ giã con thơ Hóa thân chớp nhoáng phút giờ chia tay. Hư không ngự mây đài thượng cõi Ðiển quang minh chiếu rọi khắp nơi Huyền vi biến hóa chuyển đời Truyền kinh châu ngọc bao lời thiết tha. Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương Ngự thuyền lướt sóng trùng dương Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu. Mẹ thương con chẳng câu phiền trách Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng Sớm về điện ngọc Diêu Cung Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền. Hội Tý Sửu khai Thiên tịch Ðịa Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời. Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra Gồm bao lời ngọc thiết tha Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi. Khắp gia gia đều trì niệm mãi Thì mùa màng cây trái hoằng sai Ấm no hưởng lạc trần ai Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn. Ðiển quang Mẹ bảo tồn trường cửu Ðộ con thơ hội đủ Diêu Cung Nếu ai chẳng tin bất tùng Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn. Cuộc sống đành khó khăn đau khổ Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy Không mong sống sót được gì Ðại kiếp thủy hỏa phong phi ngập tràn. Ðại Từ Tôn Mẫu Hoàng cho biết Ðúng trăng mười vào tiết trời đông Mẫu Từ xuất hiện thần thông Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh. Mẹ phủ hết điển linh quảng đại Tâm huyết thư để lại chơn kinh Kim ngôn siêu thoát quang minh Từ Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn. Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh Mỗi hằng niên nguyện thỉnh Mẫu Từ Ðúng ngày thập bát trăng mười Gia gia tụng niệm người người trì kinh. Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả Dâng hương đăng tất cả khiết tinh Cùng nhau hội hiệp trì kinh Sớ dâng Từ Mẫu chứng minh con lành. Nếu như có nhơn danh hiền sĩ Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy Từ Tôn đài thọ ân dầy Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng. Hưởng lộc thọ vinh sang phú quí Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần Truyền kinh phổ biến xa gần Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no. Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo Năm trai lành kế tạo lửa hương Hai gái hiếu đạo thuần lương Ðời đời nối dõi tổ đường tông môn. Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu Kỉnh lễ ngày Kỵ Mậu thành tâm Mẹ ban phước lộc cao thâm Thiên xuân vạn đại hưởng âm đức dầy. Xứ phương nào hằng ngày cúng vía Ðàn tràng cầu bốn phía an ninh Bảo toàn tánh mạng chúng sinh Mẫu Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền Quốc dân nào kiền thiền vọng bái Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân Mẫu Từ cho xuất Thánh nhân Thông minh xuất chúng muôn phần huyền linh. Công đức Mẫu vô hình khó tả Dầu lâm sơn biển cả khó hơn Ai mà đáp nghĩa đền ơn Phải sùng am tự, họa sơn tượng hình. Rồi dâng lên hương linh thờ phượng Tạo lập thành tâm tưởng bái tôn Diêu Trì Phật Mẹ linh hồn Hiếu tử làm đặng y ngôn kim truyền. Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo Gắng sức xây tái tạo mau đi Tùy gia phương tiện hữu vi Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào. Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo Sẽ ghi tên con thảo danh đề Thẻ ngọc Mẹ chuyển bút phê Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu Cung. Bởi vì con tận trung tận hiếu Ðắc quả cao cửu khiếu khai minh Con hiền thọ hưởng trường sinh Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở Chánh quả thành dứt nợ trần ai Ban cho cửu phẩm liên đài Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng. Thành Ðại La nghiêm trang quý báu Phu phụ đồng đắc đạo kim thân Mẹ ban thọ hưởng hồng ân Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang. Ðức Từ Tôn Mẫu Hoàng bảo dưỡng Trải hết tâm vô lượng vô biên Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng Ðộ cho quốc thới dân yên thanh bình. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH ÐỊA MẪU DIỆU KINH Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh Ban ra lời ngọc chơn kinh Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu. Thuở hỗn độn một bầu không khí Còn mịt mù vô thỉ biết đâu Phật Mẫu đã ngự đó rồi Phân ra Thiên Ðịa hoàn cầu chuyển xoay. Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất Ðạo hoằng khai lời thật huyền linh Phổ thông truyền bá chơn kinh Phán bày phong tục nhơn sinh sáng ngời. Chốn phàm trần đến đời ngươn hạ Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh Ai truyền ấn tống phổ in Mẫu Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường. Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn Dựng đời thạnh trị thượng ngươn Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường. Khắp thế giới thập phương cung kỉnh Ráng niệm trì nguyện thỉnh lời châu Ðắc thành sở nguyện mong cầu Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm. Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ Lưu truyền kinh từ thuở ban hành Kẻ nào tụng niệm chơn thành Thánh Tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi. Ai chẳng tín bất cầu ác cảm Chê bai rằng mờ ám không tùng Ðến khi vào lúc lâm chung Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau. Ngục A-tỳ sa vào miên viễn Ðọa đày người lắm tiếng dễ khinh Sanh lòng nhạo báng lý kinh Tội như biển cả mông minh thảm sầu . Gây nhiều lỗi thâm sâu đại hải Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu Xét ra khắp cả hoàn cầu Ðều do lịnh Mẹ pháp mầu chuyển ra. Mẹ thương con vị tha tất cả Nào thấy ai để dạ xót thương Ðắng cay khổ nhọc ai tường Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao. Trang nữ kiệt anh hào chí hiếu Bố cáo cho người hiểu rõ ràng Ðứng ra giải đáp lời vàng Cho người trần thế dương gian tri tường. Khắp thiên hạ thập phương chung cảnh Nạn thiên tai phải quạnh hiu sầu Dập dồn nhiều cảnh khổ đau Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ. Mẹ thương con đề thơ phân tỏ Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu Cuộc đời thế sự bể dâu Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri. Dầu khó khăn việc chi nguy khốn Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi Phán truyền bày tỏ bao lời Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh Phật Mẫu có phân rành tất cả Bảy mươi hai vị đã lãnh phần Ðương kim hành sự xa gần Vị nào cũng có Thánh Thần hợp chung. Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả Khắp ở trong thiên hạ xứ nào Lập chùa tạo miễu đền cao Phụng thờ Thần Thánh ra vào cung nghinh. Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ Ðến tánh danh cũng chớ tường tri Cõi trần chẳng có chi chi Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không. Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ Nên cam đành khổ lụy sầu bi Quanh năm bao cảnh loạn ly Trời mưa không thuận đất thì không sanh Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng Các con lớn nhỏ nghe chăng Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành. Khắp nhơn sanh đều hành tâm đạo Giúp cho đời cải tạo ăn năn Chẳng luận cao thấp ngang bằng Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh. Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng Ðiển huyền vi hữu dụng Mẹ ban Cốt nhục xa cách lạc đàng Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy. Vui trong cảnh bao ngày cách biệt Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau Không phân hai bậc thấp cao Ai ai cũng được truyền trao kinh này. Khắp non nước đông tây nam bắc Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng Thập phương bá tánh rõ thông Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn. Bao nguy khổ dập dồn đau xiết Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng Chúng sanh ngã gục nhào lăn Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào. Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật Sinh ra nhiều chứng thật gớm ghê Khắp trong tất cả thành quê Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân. Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết Thổ sản này ngả chết chẳng còn Ðói lòng quằn quại các con Vậy nên ráng nhớ lời son Mẫu Từ. Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối Gắng tâm tu thông suốt lý kinh Truyền trao giải nghĩa phổ in Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời. Chúng con sẽ thấy đời hết khổ Nội trong năm phổ độ đầu tiên Mưa hòa gió thuận khắp miền Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai. Còn như đáo lệ ngày Kỵ Mậu Lập đàn tràng bái Mẫu trì kinh Dâng đèn sáp thiệt quang minh Từ Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy. Mỗi trăng có ba ngày Mậu Kỵ Hãy thành tâm bền chí cúng dường Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo. Việc cúng kiến phải cho tinh khiết Cố gắng tu tha thiết cần chuyên Lo tròn phận sự hằng niên Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh. Sắm lễ vật cung nghinh Từ Mẫu Trong các ngày Kỵ Mậu lập đàn Gồm có sáu ngọn đăng quang Quả hoa tươi thắm hương phần năm cây. Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ Cùng chung nhau họp, trì kinh kỉnh đàn Thuyết kinh giải lý rõ ràng Mỗi người đều định tâm an thọ trì. Ai xứ nào làm y lời dạy Ðịnh tinh thần tụng bảy biến kinh Tiêu bao nghiệp chướng tội mình Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn Ai cố gắng sớm hôm trì tụng Thêm hai thời chuyển dụng tâm thành Mẹ ban huyền diệu điển thanh Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia. Ðức Từ Tôn truyền ra cho biết Các con cần tha thiết ghi lòng Lúa mạch gần chín đầy đồng Hiện ra móng bạch hư không rõ ràng. Gió từ đâu thổi sang rất mạnh Trong niên này gặp cảnh phong ba Khổ sầu từ trẻ tới già Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ hàn. Nạn đói lạnh lầm than đau xiết Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng Thiên đình thâu hạt lúa vàng Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời. Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa Trì kinh Ðịa Mẫu phước thừa bình an. Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó Ðược trúng mùa mưa gió thuận hòa Ai từng phổ biến gia gia Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giải bày. Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần Gia thần ủng hộ ân cần Ðồng theo độ kẻ xa gần thành tâm. Ðược phúc lành tháng năm no ấm Trên Thiên đình ghi chấm phước ban Nội gia kẻ đó thanh nhàn Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần. Thanh Long, Bạch Hổ thần cũng giáng Phò tá người xứng đáng con lành Từ Tôn cho biết rõ rành Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền. Ðến giờ Ngọ kiền thiền kỉnh Mẫu Chẳng có nên dời đổi thời gian Sửu, mùi, thìn, tuất không an Ðúng giờ nhất định lập đàn trì kinh. Cầu lịnh Mẹ thương tình cứu khổ Phủ điển linh phổ độ chúng sanh Các con tựu họp tâm thành Ðược ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi Mẹ hiển Thánh xuống đời tri chứng Phương hướng nào bền vững chí tâm Thường hành kinh Mẫu diệu thâm Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn. Còn lo chi mùa màng chẳng trúng Gia nào hay trì tụng kinh này Phước lành sẽ được hưởng ngay Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm Hưởng quý tế cao thâm lộc cả Thọ hương đăng trà quả vinh sang Chơn kinh của đức Mẫu Hoàng Gồm bao diệu lý lời vàng ngọc châu. Kinh Ðịa Mẫu đứng vào bậc nhứt Chẳng tường phân ý thức suy tầm Người đời còn bởi mê tâm Chẳng nên khinh dễ lỗi lầm tội mang. Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân Kinh Ðịa Mẫu thấm nhuần đạo lý Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền Ðược nhiều công đức tội liền tiêu tan. Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác Ai chí tâm hiển đạt phúc lành Rõ thông từng chữ hiểu rành Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân. Ðiển huyền linh xa gần chiếu tỏa Phóng hào quang khắp cả bầu trời Thưởng người hiểu rõ từng lời Tâm tư kẻ đó sáng ngời minh châu. Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ Ðã tri tường nghĩa lý Diệu kinh Có thể gội sạch tội mình Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan. Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy Qua nạn tai sắp xảy đến mình Lại còn hưởng được phước vinh Tam tài lộc thọ khương ninh thanh nhàn. Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang Luôn được phước lộc bình an Ðời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc đầy. Như nghe thuyết kinh này chẳng tưởng Lại bỏ qua không lượng tường tri Mà lòng chẳng khứng thọ trì Bị khép vào tội khinh khi Phật Trời. Tội phỉ báng bao lời xúc phạm Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than Ngày ấy chẳng có kêu oan Phải đành vướng tội gian nan ngục hình. Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha Ðại kiếp thủy hỏa phong ba Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi. Lòng Từ Mẫu nghĩ suy đau xiết Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba Nạn thủy hỏa sắp xảy ra Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh Mẹ muốn bỏ sổ tử hình Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều. Mẹ tính mãi bao điều phương kế Chẳng đành lòng bỏ phế lãng ngơ Tình thương vô bến vô bờ Làm sao cứu được con thơ trở về. Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh Phán phân rằng chỉ định thế này Truyền thần Thiện, Ác đến đây Chia làm hai phái lướt mây xuống trần. Người hung dữ Ác Thần dẫn dắt Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm Ðộc ác, tàn nhẫn, đa dâm Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi. Bậc hiền lương phương phi quân tử Thiện Thần gom lại giữ một nơi Ðưa vào chánh giác kịp thời Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan. Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc Mẫu sẽ vãy ra một cái chài Dầu cho thiện, ác phân hai Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung. Liên lụy kẻ tận trung hiếu thảo Người tu hành học đạo kinh tâm Chừng đó mới thấy diệu thâm Mẫu Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành. Ðược sống sót nhàn thanh đủ trí Biết tường phân chánh lý đường tà Thiện gần ác lại tránh xa Từ đó các Ðạo mở ra khai hoằng. Ðồng xuôi lòng ăn năn quy tựu Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về Chẳng còn chia rẽ khen chê Phân ra nhiều mối khó bề tường phân. Hình tướng chài phép Thần mầu nhiệm Mẫu tả ra những điểm rất cần Nhị Thập Bát Tú phân thân Phủ vây chánh bắc giáp gần chánh nam. Còn phương hướng tây nam, tây bắc Các vị Thần giáp mặc bông bào Gồm sáu mươi vị tài cao Mẫu Từ phán lịnh truyền trao lời vàng. Tuân lời dạy Thiên Can mười vị Thập Nhị Thần định chỉ Ðịa Chi Tất cả Tinh Tú các vì Ủng hộ Hoàng đế Thái Vi hoàn toàn. Ðức Từ Tôn Mẫu Hoàng điều khiển Thần Lôi Công, Lôi Điển tám phương Phân thân trấn thủ phi thường Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm. Hiện nguyên hình tay cầm binh khí Ðứng dàn ra trực chỉ đó đây Khắp trong thiên hạ đủ đầy Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền. Cõi trời Nam từ niên Ðinh Hợi Ðến niên Thân Dậu mới thiệt rồi Biết bao huyền bí nhiệm mầu Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha. Mẫu Từ bủa Thiên la, Ðịa võng Sức đại hùng vang động kinh hồn Làm cho Thiên ám, Ðịa hôn Thần sầu quỷ khóc vong hồn thảm thương. Còn Tứ Ðại Thiên Vương tiếp lịnh Bốn cửa trận Mẫu định trấn an Tám vị Thần lực Kim Cang Xông vào trận hóa pháp đàn thần thông. Làm trời đất hư không nghiêng ngã Nhựt Nguyệt Tinh châu hỏa đảo xây Cũng như chong chóng lăn quay Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra. Mẫu thâu lại yêu tà lăng mị Kẻ bất lương phải bị ngục hình Hô phong hoán võ lôi đình Làm cho sấm nổ nước minh mông tràn. Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng Mẫu tận diệt đứa bất trung Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào. Ðến chừng đó vàng thau mới rõ Mẫu thâu xong ngày đó bình an Nước rút, sóng lặng, gió tan Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần. Chỉ còn người hiền lương sống sót Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng Thế là Mẫu dụng huyền công Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng. Kinh đô có sen vàng đua nở Bốn phía vòng khắp ở thị thành Các con hiếu thảo hiền lành Ðến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân. Ðược đổi xác kim thân bất hoại Chẳng tử sanh thoát khỏi nghiệp duyên Chứng đặng Ðại La Tiên Thiên Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công. Hội bàn đào thưởng đồng tất cả Các con nào đắc quả dự vào Thế rồi vĩnh viễn về sau Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền. Chúng con được niên niên bất tử Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn Giống cảnh Diêu Ðiện Mẫu Hoàng Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi Hoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn Hết lòng quảng đại sắc son Hóa sanh dạy dỗ các con phản hồi. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH LẠY ĐỊA MẪU 1. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu đấng tối cao vô thượng Đã giáng lâm phò hộ thế gian này Với anh linh cùng đức độ cao dầy Công tế thế an bang danh còn đượm. 2. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu ân độ sanh vô lượng Ân bảo trì cứu tử lại vô biên Mẹ của nhân gian Mẹ Thánh Mẹ Hiền Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi mãi. 3. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu đấng mẫu nghi tứ hải Danh vang lừng khắp cả nước non tiên Xuống trần gian làm Phật Mẫu Mẹ hiền Để cứu độ chúng sanh cơn hoạn nạn. 4. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu đấng anh linh vô hạn Xin mẹ ban phép lạ cứu trần gian Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn Xin tế độ cho muôn loài hết khổ. 5. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu xin Mẹ ban ân lành Cho Việt Nam Phật giáo thịnh hành Được tôn nghiêm mầu nhiệm viên thành Cho con mẹ bốn phương đều kính Mẹ. NGŨ CANH TỪ 1. Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi Chúng dân khổ lụy nạn tơi bời Nên lo tu tỉnh này con dại Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi. 2. Canh hai điển lực rải mọi nơi Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi Sao không cố gắng tu trì vậy Thương xót con, Mẹ chẳng nghỉ ngơi. 3. Canh ba lụy Mẹ nhỏ tràn trề Hết lời kêu gọi con tỉnh mê Cuộc đời say đắm đường vật chất Chôn lấp linh quang cản lối về. 4. Canh tư đẫm lệ cõi ta bà Cứu vớt cuộc đời giấc Nam Kha Điển linh ban xuống lời từ ái Kêu gọi thiện nhân nhủ mẹ già. 5. Canh năm trầm ngâm suy diệu huyền Bố ban huyền diệu dứt oan khiên Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy Di Lạc oai linh dạy chư hiền. NAM MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN ĐẠI TỪ TÔN A DI ĐÀ PHẬT ³ ³ ³ MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn Sáng trong ngần, chẳng bợn mảy trần Làu làu một tánh thiên chân Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm. Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt Cõi bờ kia một bước đến nơi Trải lòng tròn đủ xưa nay Công thành quả chứng tỏ bày đích đang. Hàng Bồ tát danh Quan tự tại Khi tham thiền vô ngại đến trong Thẩm vào trí huệ mở thông Soi thấy năm uẩn cũng không có gì. Luống tất cả không chi khổ ách Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra Sắc không chung ở một nhà Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không. Ấy sắc tướng, cũng đồng không tướng Không tướng y như tượng sắc kia Thọ, tưởng, hành, thức phân chia Cũng lại như vậy tổng về chơn không. Tỏa sắc tướng nhơn ông tạm đó Các phép kia tướng nọ luống chơn Chẳng sanh chẳng dứt thường trơn Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm. Cớ ấy nên cõi trên không giới Thảy làu làu vô ngại trường chân Vốn không ngũ uẩn ấm thân Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không. Thấy rỗng không mà không nhãn giới Biết hoàn toàn thức giới cũng không Tánh không sáng suốt đại đồng Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi. Vẫn không có thân gì già chết Huống chi là hết chết già sao? Tứ đế cũng chẳng có nào Không chi là trí có nào đắc chi. Do vô sở đắc ly tất cả Nhơn pháp kia đều xả nhị không Vận lòng trí huệ linh thông Bờ kia mau đến tâm không ngại gì. Không quái ngại có chi khủng bố Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên Tâm không rốt ráo chi duyên Niết Bàn quả chứng, chơn nguyên hoàn toàn. Tam thế Phật, y đàng bát nhã Đáo Bồ Đề chứng quả chánh chơn Cho hay Bát nhã là hơn Pháp môn tối thắng, cõi chơn mau về. Thiệt thần chú linh tri đại lực Thiệt thần chú, đúng bậc quang minh Ấy chú tối thượng oai linh Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần. Trừ tất cả nguyên nhân các khổ Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư Thiên nhiên chơn thiệt bất hư Án Lam thần chú chơn như thuyết rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần) VÃNG SANH THẦN CHÚ Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di ri đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. ( 3 lần ) |