Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Người cổ Ai cập thưởng thức hội hè, tiệc tùng, và thường sống chung thủy với bạn đời. Nhiều chứng cứ về các điểm vui chơi này tồn tại, bao gồm các thực đơn và danh sách các vũ công và ngạc công tham dự. Để giải khuây ban ngày, người Ai cập chơi cờ, nghe kể chuyện, đi săn, và tham gia thể thao.

Mặc dù giữ gìn vệ sinh một cách tương đối, người Ai cập bị bao vây bởi bệnh tật, và các y sĩ đã ghi lại nhiểu triệu chứng, chẩn đoán, và ‘cách chữa trị’ __ hầu hết sẽ khiến cơ quan y tế của chúng ta ngày nay choáng váng. Từ bệnh ký sinh trùng đến sưng nướu, thật ngạc nhiên là họ còn có thể chú tâm vào việc xây dựng kim tự tháp và đền thờ nữa chứ!

Tôn giáo cổ Ai cập đầy tình tưởng tượng và đa dạng, với hàng trăm vị thần linh, những lối hành lễ, tín ngưỡng, và nghi thức khác nhau tùy thuộc vào địa phương. Mặc dù dân chúng Ai cập không được phép bước vào các đền thờ chính hiện này còn sừng sững, họ thờ phượng tại nhà.

Nhiều tín ngưỡng tống táng của người Ai cập tập trung vào việc kéo dài cuộc sống vào cõi vĩnh hằng trong thế giới bên kia, và họ giữ gìn thi thể và tài sản, khiến chúng ta có thể dựng nên một hình ảnh đầy thuyết phục về cuộc sống và tín ngưỡng của họ.

Chương 7: Thưởng Thức Món Ngon và Trò Giải Trí

Trong Chương Này

  • Kể chuyện cho già và trẻ
  • Trò Chơi
  • Rèn luyện thể thao và đánh trận
  • Săn bắn và đánh cá
  • Tổ chức tiệc tùng __ giải trí, ăn uống

Mọi người đều thích vui chơi, và người cổ Ai Cập cũng vậy. Trong một thời đại không có truyền hình, đài, hoặc máy tính, người Ai Cập phải tìm những cách khác để giải khuây sau một ngày làm việc mệt nhọc.

Và một tuần làm việc, cho dù đối với tầng lớp ưu tú hoặc các thợ cấp cao, đúng là dài đến mười ngày, hai ngày nghỉ __ ngày làm việc kéo dài khi còn mặt trời. Có thể tầng lớp nghèo hơn làm việc nhiều giờ hơn, theo thời khóa nghiêm nhặt hơn, nhưng vì không có ghi chép gì để lại, các sử gia không biết được. Chương 2 đã cung cấp thêm chi tiết về sinh hoạt hàng ngày của những người cổ Ai Cập này.

Do thời tiết nóng bức, giờ nghỉ trưa có thể có, mặc dù những chi tiết nhỏ __ dù nó quan trọng ra sao đối với người cổ Ai Cập __ không được ghi chép lại. Với những điều kiện làm việc này, việc giải khuây sau ngày làm việc hoặc ngày cuối tuần là cực kỳ quan trọng.

Một số cách giải trí sau giờ làm việc hoặc cuối tuần của người cổ Ai Cập giống một cách đáng kể với cách giải lao của chúng ta ngày nay. Các gia đình quây quần bên nhau, bạn bè gặp gỡ hàn huyên bên vài cốc bia, và dân chúng chơi cờ, nghe nhạc, kể chuyện, và thưởng thức những trò hoạt động hơn, như đấu vật và (trong thời Tân Vương quốc) đua xe ngựa và săn bắn. Các tiết mục sau sẽ phát hiện một số cách phổ biến nhất mà người cổ Ai Cập giải khuây trong đó một số cách bạn có thể bắt chước như người Ai Cập.

Nuôi Dưỡng Chất Xám

Như bất kỳ cộng đồng nào trong lịch sử, người cổ Ai Cập có người ham thích thể thao, có người thụ động hơn. Không phải người Ai Cập nào cũng năng động về mặt thể chất, và một số dùng thời gian để chăm chỉ học tập, nhất là nếu họ là người có học.

Những hoạt động học tập không chỉ là sự lựa chọn của người giàu, và những trò giải trí thể lực không chỉ dành cho người nghèo. Những trò tiêu khiển, học tập, tuy nhiên, dành cho người có học __ chủ yếu thuộc thành phần ưu tú __ nhưng điều đó không có nghĩa một thành viên thiếu học nghèo nàn của cộng đồng không biết thưởng thức niềm vui vẽ vời trên cát, kể chuyện xưa hoặc chơi cờ hơn là vật lộn và đánh gậy!

Tình trạng thất học rất cao ở cổ Ai Cập với chỉ 1-5 phần trăm dân số biết đọc biết viết. (Ngay cả ngày nay, tỷ lệ có học ở Ai Cập hiện đại ước tính khoảng 25 phần trăm.) Đây là một thống kê khó nuốt đối với nhiều người, trong khi tỷ lệ có học ở Anh ngày nay rất cao (99.9 phần trăm). Nhiều trò giải khuây ngày nay phụ thuộc vào trình độ học vấn, như đọc sách, chơi ô chữ, chơi sudoku, và viết văn.

Một ví dụ của ô chữ Ai Cập đã được khám phá. Mặc dù ô chữ này không có đầu mối gợi ý, nó được khám phá có mạng lưới phải điền vào và với tất cả những chữ đan chéo nhau như ô chữ ngày nay. Mặc dù trò sudoku không tồn tại ở cổ Ai Cập, trò papyri với một số câu đố hình học và toán học, mà một số thư lại (người chép thuê, thư ký) Ai Cập có thể vò đầu bứt tai suy nghĩ hàng giờ liền, cũng tồn tại.

Trong số nhiều thư lại Ai Cập, một người đặc biệt nổi bật: Kenhirkhepshf sống ở Deir el Medina trong triều đại thứ 19 và quan tâm đặc biệt đến quá khứ. Ông bỏ ra thời gian rảnh rổi nghiên cứu lịch sử Ai Cập. Ông viết một niên biểu chính xác theo thứ tự biên niên sử các vì vua của Vương quốc Cổ. (Khổ thay, danh sách của ông ngày nay không thể sử dụng được vì ông đã loại ra những ông vua ít người biết đến và chỉ trị vì một xứ sở bị chia cắt.) Các nhà nghiên cứu tin rằng Kenhirkhepshef có thể đã đến thăm một số đền thờ chôn cất và thu nhặt những thông tin từ các thầy tu đang làm việc ở đó.

Kenhirkhepshef cũng là nhà ngôn ngữ học và có một danh sách những chức vị trong bộ máy chính quyền bắt đầu bằng chữ ‘chef’ (trưởng). Buồn thay ông không giải thích các chức vị có vai trò gì, và nhiều chức vị chỉ được biết đến từ danh sách này.

Các thư lại khác bỏ ra những buổi chiều và dịp cuối tuần làm thơ. Mặc dù một số người tin rằng những bài thơ này được sáng tác bởi những kẻ thất tình, chúng viết đúng văn phạm và đúng vần điệu cùng với lối chơi chữ. Như vậy, chắc chắn chúng được chấp bút bởi những thư lại chuyên nghiệp. Buồn thay những tác giả của các bài thơ này là vô danh. Một số bài thơ chắc chắn được lưu truyền vào thời đó, và chắc chắn chúng được lặp đi lặp lại dưới ánh lửa.

Kể chuyện

Chứng cứ gợi ý là người Ai Cập cổ thích kể chuyện __ mặc dù phương pháp kể chuyện của họ và danh tính tác giả ngày nay không ai biết. Người kể chuyện không cần phải có học vấn mới có duyên kể chuyện hay.

Các câu chuyện chắc chắn là được truyền miệng. Vấn đề nảy sinh với truyền thống kể chuyện là mỗi lần chuyện được kể lại, nó lại thay đổi tùy theo cảm hứng của người kể __ cũng như khán giả thuộc đủ mọi lứa tuổi. Các truyền thống truyền miệng không có quy luật. Kết quả là, các câu chuyện có thể biến thành hình thức thơ ca, bài hát, hoặc ngay cả lời ‘tám’ trong lúc rảnh rổi __ tất cả những việc này có thể cho ta hàng giờ giải trí.

May mắn thay, một số thư lại chợt nhớ ghi lại những câu chuyện thuộc loại kể chuyện truyền thống này. Họ có thể cảm thấy mình đang đóng góp một phần di sản của mình khi ghi chép chúng. Một số chuyện còn lưu lại, bao gồm:

  • Chuyến Đi của Sinuhe, trong đó kể chuyện một người đàn ông bôn tẩu đến Ai Cập ngay cái chết của nhà vua và định cư tại một thị trấn Á châu, vươn lên giành lấy quyền lực cho đến khi thành chúa tễ.
  • Hoàng tử bị Lời Nguyền, trong đó một nhà quý tộc trẻ được báo trước phải chịu ba số phận bi đát có thể đưa đến cái chết. Y đã trải qua những giây phút cận kề với cái chết trong đường tơ kẻ tóc.
  • Câu Chuyện của Anh Nông Dân Hùng Biện, trong đó một người nông dân nghèo khổ thưa kiện triều đình về những việc thường ngày, tài hùng biện của anh ta gây ấn tượng với nhà vua. Câu chuyện dài này minh họa việc nghèo hèn không có nghĩa là dốt nát.
  • Chuyện Người Thủy Thủ Đắm Tàu, trong đó một thủy thủ đắm tàu lạc vào một hoang đảo do một con rắn thần vài nhiều thước làm chủ.
  • Năm Chuyện Kể về Ma Thuật và Kỳ Quan, mô tả năm biến cố khác nhau xảy ra trong triều đình Vương quốc Cổ, trong đó những nhà ảo thuật biểu diễn những trò ma thuật đặc sắc cho nhà vua tiêu khiển.
  • Chuyện Hai Anh Em kể về chuyện ly tán của hai anh em vì sự hiểm độc của người chị dâu.
  • Chuyện (khác) Hoàng Tử bị Lời Nguyền, kể câu chuyên một hoàng tử được báo trước cái chết của mình. Câu chuyện kể lại chuyến đi của y và hơn một lần gặp tai nạn suýt chết. Trong đó một lần được một công chúa trong một tòa tháp buông mái tóc dài xuống cứu y thoát chết.

Chơi Cờ

Mặc dù các tay kể chuyện có duyên có thể mua vui cho đám đông một hai giờ, nhưng buổi chiều còn dài. Người Ai Cập lấp đầy thời gian chết bằng cách chơi những trò chơi trên những tấm bản gỗ (tạm gọi là cờ). Ba trong số trò chơi này còn sống sót đến ngày nay. Những trò này có tên Senet, Chó Nhà và Chó Rừng, và Mehen __ các tên này còn lưu truyền nhiều thiên niên kỷ.

Buồn thay, các luật chơi các trò này đã thất truyền. Tuy nhiên, một số cá nhân sáng dạ đã chế tác các luật chơi dựa vào số các ô vuông, tính chất của hột xúc sắc, và số các thẻ.

Senet

Một trong những trò chơi xưa nhất là Senet, có nghĩa là ‘trò vượt qua’. Senet là một trò chơi chiến thuật, hơi giống trò backgammon. Nó được chơi từ thời Vương quốc Cổ về sau và thường được mô tả trong các lăng mộ. Senet là trò chơi dành cho hai người. Muốn chơi, bạn cần:

  • Hai loại thẻ __ các khối nón và ống trụ (như ống chỉ). Mỗi người chơi chọn loại thẻ nào mình sử dụng lúc bắt đầu cuộc chơi.
  • Bàn senet. Bàn senet có một mạng lưới có đánh số gồm 30 ô vuông xếp thành ba hàng, mỗi hàng 10 ô. Bạn có thể vẽ và làm một bàn senet cho mình như trong Hình 7-1.
  • Một bộ bốn ‘gậy’ hoặc ‘xương đốt tay’. Số các ô vuông bạn di chuyển trên bàn Senet được xác định bằng việc ‘ném gậy’ hoặc ‘ném xương đốt tay’ __ tương tự như ngày này ta ném xúc sắc. Bốn gậy gỗ này có một mặt trơn và một mặt có sơn màu. Số mặt màu hiện ra khi bạn ném gậy xác định số ô bạn di chuyển về phía trước. Nếu không có mặt màu nào hiện ra, bạn di chuyển về phía trước 5 ô.

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Hình 7-1

Người chơi thỏa thuận với ba, năm, hoặc bảy thẻ. Mục tiêu của trò chơi là làm người đầu tiên di chuyển tất cả thẻ của bạn từ ô số một đến ô 30, dùng số mặt màu hiện lên để xác định số ô bạn đi được mỗi lượt. Các hạn chế sau đây áp dụng:

  • Nếu người chơi 1 di chuyển đến một ô của người chơi thứ hai, các vị trí của họ hoán chuyển cho nhau.
  • Hai người chơi đều phải bắt buộc ngừng ở ô số 26 trước khi ra khỏi bàn.

Bạn và người chơi có thể chế ra những luật lệ khác để trò chơi gay cấn hơn. Chẳng hạn, bạn có thể bắt buộc người chơi phải ném đúng con số mặt màu để đến được ô 30 mới kể là hoàn tất một vòng đi trên bàn cờ.

Chó Nhà và Chó Rừng

Một trò chơi phổ biến khác từ thời Tân Vương quốc là Chó Nhà và Chó Rừng __ trong đó một nhóm thẻ tượng trưng cho đầu chó rừng và nhóm kia là chó nhà. Trò chơi cũng có tên là 58 lỗ.

Chó Nhà và Chó Rừng là trò chơi hai người. Để chơi, bạn cần:

  • Một bàn có hai hàng, mỗi hàng 30 lỗ. Bàn có thể là tấm ván có khoét lỗ. Những bàn 3-D tinh xảo hơn cũng sử dụng được. (Bảo tàng Louvre còn lưu trữ một bàn có chạm khắc theo hình con hà mã.)

Hình 7-2 cho thấy cách sắp xếp bàn cờ. Bạn có thể photo hình này rồi dán vào tấm ván dày 1.5 cm rồi khoét lỗ theo vị trí trên hình.

  • Mười thẻ. Năm thẻ có hình chó rừng và năm thẻ có hình chó nhà. Bạn có thể sử dụng thẻ với hai màu khác nhau để phân biệt.
  • Một bộ bốn gậy. Số ô vuông bạn di chuyển trên bàn được xác định bằng số gậy ném xuống, tương tự như luật chơi Senet.

Mỗi người chơi bắt đầu với năm thẻ (hoặc chó nhà hay chó rừng). Mục tiêu của trò chơi là được cả năm thẻ của mình rơi vào lỗ 30, theo lộ trình đi trên phần nửa bàn cờ của mình.

Mỗi thẻ cần đi chung quanh lộ trình hai lần mới thắng trận. Như trong luật trò chơi Rắn và Thang, nếu người chơi rơi vào

  • Lỗ 6, người đó được nhảy trực tiếp đến ô 20
  • Lỗ 15 hay 25, y phải ném gậy lần nữa

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Hình 7-2

Như trong trò Senet, bạn có thể thay đổi luật để trò chơi thêm gay cấn.

Sống Đời Thể Thao

Một số thành viên của tầng lớp ưu tú thích cuộc sống xã hội năng động hơn và tham giá một số trò chơi thể thao, bao gồm đấu vật và nâng tạ (bằng bao cát). Mặc dù các trò này là một phần trong chương trình huấn luyện quân sự, một số người có thể chơi đơn thuần vì muốn nâng cao thể lực.

Trong số các đồ chơi trẻ em ở thị trấn Kahun ở Faiyum, các nhà khảo cổ phát hiện một ít quả bóng tròn làm bằng những mảnh da thú khâu vào nhau và độn với cỏ khô. Không biết liệu trò chơi của trẻ con này người lớn có tham gia không, nhưng tôi dám chắc một số người thích cho rằng bóng đá không chỉ là ‘một trò chơi đẹp’ mà còn là ‘một trò chơi cổ’.

Những mục sau đây bàn về những trò giải trí phổ biến cả tầng lớp ưu tú và quần chúng đều tham gia.

Điều khiển chiến mã xa

Chiến mã xa (xe ngựa đánh trận) chỉ được đưa vào Ai Cập vào cuối Thời Kỳ Trung Gian Thứ Hai. Các vị vua và một số nhà quý tộc của Tân Vương quốc từ thời trẻ đã được huấn luyện điều khiển chiến mã xa để chuẩn bị lâm trận. Xem Chương 4 để biết thêm về những thời kỳ lịch sử.

Chiến mã xa ở cổ Ai Cập nhỏ và nhẹ. Xe do hai ngựa kéo và hai người điều khiển __ một người cầm cương và một người cầm giáo hoặc cung thủ. Vua và quý tộc đều phải học cách làm chủ cả hai vai trò này.

Hầu hết các thiếu niên nam đều được huấn luyện các kỹ năng điều khiển chiến mã xa, nhưng ở Amarna, các cô con gái nhỏ của Khanaten (xem Chương 4) được mô tả trên tường La Mã và đền thờ đang điều khiển chiến mã xa của mình __ một hình ảnh độc đáo của thời kỳ này. Một phác họa nhỏ ở Bảo Tàng Cairo cho thấy một hoàng hậu, có thể là Hatshepsut, lái chiến mã xa và bắn tên vào kẻ thù, chứng tỏ có lẽ một số quý tộc nữ cũng có kỹ năng điều khiển chiến mã xa. Ở Amarna, hầu hết thành viên ưu tú của xã hội đều sở hữu một chiến mã xa, vì nó là thời trang giao thông đang thịnh hành.

Sau khi người Ai Cập đã làm chủ việc điều khiển chiến mã xa, chứng cứ cho thấy họ đã tố chức thi chạy. Không phải thi kiểu tầm cỡ như trong phim Benhur, nhưng dù sao cũng là thi đua. Ngay bên ngoài Malkata, cung điện ở Thebes của Amenhotep III, là một nhà nghĩ tạm thời có tên là Kom el Abd, nhìn qua một con đường thẳng rất dài. Con đường được dọn sạch dành cho các cuộc đua chiến mã xa tốc độ cao, trong đó không nghi ngờ gì nữa có sự tham gia của Amenhotep. Những cuộc đua này chắc chắn là những sự kiện bán-riêng tư chỉ có dân chúng sống quanh Malkata mới được chứng kiến.

Bắn bia

Sau khi các ông hoàng trẻ hoặc các chiến binh đã điều khiể được chiến mã xa, phát triển kỹ năng bắn cung là bài tập tiếp theo. Không chỉ tài thiện xạ là cốt lõi trên chiến trường, mà nó còn hữu dụng khi săn bắn.

Trước khi được phép đi săn trong sa mạc mà mục tiêu là những thú dữ nguy hiểm, các cung thủ thực tập trong một môi trường an toàn. Mục tiêu điển hình là một tấm bia bằng đồng dựng cao ngang vai dọc theo đường chạy. Người lái chiến mã xa lái xe với tốc độ cao và bắn vào bia với năm mũi tên, lực bắn rất mạnh làm thủng bia đồng.

Săn bắn

Các hình vẽ trong lăng mộ của tầng lớp ưu tú mô tả các cuộc đi săn linh dương, bò rừng và sư tử của người quá cố trong sa mạc cũng như săn cá và chim chóc ở đầm lầy. Trong khi những hình vẽ này mang ý nghĩa tượng trưng cho nam tính và khả năng sinh sản, chúng cũng phản ảnh sự kiện là săn bắn và đánh cá là những hoạt động phổ biến của người cổ Ai Cập.

Trong sa mạc

Ai Cập được bao quanh bởi đất đai trên cả hai bờ đông và tây của sông Nile và nuôi sống các loài sư tử, linh dương, hưu nai, và bò rừng. Chứng cứ cho thấy nhiều loại vật này có thể đã bị bắt và nuôi nhốt trong những bãi lớn được rào kín để cuộc săn được an toàn hơn cho nhà vua và tầng lớp ưu tú. Hơi giống các công viên safari (vùng nuôi thú hoang dã để nghiên cứu và tham quan) nhưng không có mục đích bảo tồn. Người đi săn di chuyển bằng chiến mã xa và thỉnh thoảng có mang theo đội chó săn để thu mồi bắn được.

Hình ảnh nhà vua và tùy tùng đi săn thường mô tả nhà vua săn bắn bằng cung và tên, mặc dù họ có thể sử dụng thêm giáo mác hoặc __ nếu họ muốn bắt sống con mồi thì phải dùng thòng lọng.

Một cảnh tượng phi thường được mô tả ở Medinet Habu __ đền thờ của Ramses III ở Thebes __ cho thấy nhà vua ở giữa đoàn săn bò rừng hoang dã. Nhà vua đang cởi chiến mã xa với dây cương thắt quanh eo, để hai tay được tư do bắn tên vào đàn thú. Ông ta hồ hởi đến nổi đã vắt chân lên bờ trước của chiến mã xa để làm điểm tựa khi vung tay vươn cung. Một con bò rừng mà ông đã bắn trúng đổ sụp trong đám sậy.

Phần lớn cuộc săn là để kiếm lương thực, cung cấp những món ngon cho nhà vua, các quý tộc và gia đình của họ. Da sư tử thường được sử dụng làm vải bọc ghế, giường trong cung điện hoặc tư gia. Chứng cớ cho thấy Ramses II và III thực sự nuôi sư tử làm thú cưng.

Trong đầm lầy

Săn trong đầm lầy cũng là hoạt động phổ biến trong giới ưu tú, đặc biệt trong những khu đầm lầy được ưa chuộng ở Faiyum. Khu này trở nên quá quen thuộc đến nổi trong thời Tân Vương quốc một cung điện hoàng gia được xây dựng tại đây để các tay săn có thể ở lại qua đêm trong chốn tiện nghi vương giả.

Nhiều hình vẽ trong lăng mộ mô tả cảnh săn bắt nơi đầm lầy trong đó người chủ của lăng mộ đứng trên một bè cói nhỏ hay thuyền dơ cao một que gỗ lên cao để ném. Để làm đàn chim bay lên, một con mèo được huấn luyện hoặc một đầy tớ chạy vào bụi rậm xua đàn chim. Khi đàn chim bay lên, người chủ lăng một ném que gỗ, làm rơi một lúc hai hay ba con. Sau đó mèo hay đầy tớ sẽ chạy đến thu nhặt mồi.

Bắt cá

Sông Nile và các kênh đào của nó thừa thải nhiều loại cá, vì thế bắt cá là một trò tiêu khiển phổ biến. Phóng lao để bắt cá là môn thể thao ưa chuộng. ‘Ngư phủ’ đứng trên bè cói, đợi cá bơi ngang qua, và tại một giây phút thuận tiện nhất phóng lao xuống nước. Trong các hình vẽ trong lăng mộ, người chủ lăng mộ luôn được mô tả phóng lao một phát xuyên được hai con cá.

Ngoài rau củ, cá là thực phẩm chủ yếu của hầu hết người Ai Cập. Khi bắt cá làm lương thực, người Ai Cập đánh lưới trên sông, một mẻ lưới thu được nhiều cá. Sau đó cá được mổ ruột rồi làm thức ăn, hoặc ướp muối phơi khô dưới ánh nắng.

Tiệc Tùng Đàn Đúm

Người Ai Cập ưa thích tụ họp để tán chuyện, vui đùa và ăn uống cùng nhau. Không có nhiều thông tin về những cuộc họp mặt này nơi tầng lớp thấp, nhưng những bữa tiệc tùng của giới thượng lưu thì được ghi chép đầy đủ.

Nhiều hình ảnh trên mộ bia thời Tân Vương quốc cho thấy giới ưu tú thích tổ chức những buổi tiệc tùng đình đám, có ca vũ nhạc. Mặc dù những hình ảnh này thường liên hệ đến các lễ tang, nhưng chắc chắn chúng phản ảnh những loại tiệc tùng hay xảy ra trong tư gia của những người quyền quí, giàu có.

Những hình ảnh này cho ta một số chi tiết thú vị sau:

  • Khách khứa ngồi, thường thì các ông và các bà tách riêng ra. Điều này có vẽ kỳ cục đối với một lễ tang.
  • Khách được đãi ăn và uống (bia và rượu vang) thừa mứa. Thật ra, trong một lăng mộ có hình ảnh vui nhộn của một bà giải rượu trong một thùng nước sau một cơn chếnh choáng.
  • Từng đội tiếp viên phục vụ khách. Mọi việc ở buổi tiệc đều được tổ chức để khách khứa cảm thấy mình được trọng vọng và khác biệt. Các tiếp viên được mô tả rót rượu vào ly, phân phát thức ăn, và tô điểm cho khách vòng hoa và mũ thơm. Dầu xức được chế bằng mở động vật trộn với dầu thơm. Mũ thơm được đội lên đầu khách và phát ra hương thơm khi dầu chảy ra.

Chơi nhạc

Chủ nhân các buổi tiệc tùng cung cấp những trò giải trí, thường dưới dạng của một ban nhạc. Các nhạc công thường họp thành nhóm nhỏ, thường có đàn ông lẫn phụ nữ. Ban nhạc chơi một số nhạc cụ gồm sáo, đàn luýt, quả lắc (những que ngà buộc thành chùm vang lên tiếng lách cách đánh nhịp khi lắc), và đàn hạc. Một cái trống tay nhỏ hoặc một nhóm các ông các bà vỗ tay đánh nhịp.

Không chứng cứ tồn tại cho thấy các quý tộc chơi nhạc cụ ở nơi công cộng; các nhạc công được thuê phục vụ cho những buổi tiệc tùng đặc biệt. Tuy nhiên, có thể giới ưu tú học chơi nhạc để giết thì giờ. Trong triều đại thứ sáu các nhà mộ mastaba (xem Chương 13) ở Saqqara, vợ của Mereruka, có lẽ một công chúa, ngồi trên giường chơi đàn hạc cho người chồng ngồi kế bên thưởng thức.

Khiêu vũ

Người Ai Cập sẽ không nhảy tót lên mặt bàn và nhảy suốt đêm theo ban nhạc. Nhạc thường chơi cho một nhóm vũ công biểu diễn, những người này cũng được thuê như các nhạc công.

Khiêu vũ là một hình thức giải trí rất gợi tình. Người biểu diễn thường là không ăn mặc gì ngoài một vòng cổ sắc sảo và một đai nịt trang sức hoặc một khăn thêu quấn quanh eo. Một số vũ công được mô tả mang mũ thơm trên đầu, chắc chắn để tỏa ra hương thơm cho thực khách khi họ lướt qua.

Xem xét thực đơn của buổi chiêu đãi

Thức ăn là phần chủ yếu của một buổi chiêu đãi, và may thay một số thông tìn về nó còn lưu lại.

Hình ảnh của những bàn cúng thần linh cho thấy người Ai Cập chọn món gì để dâng cho thần. Kết hợp với thức ăn còn để lại trong nhà mồ và được mô tả trong danh sách lễ vật, ta có thể đưa ra một danh sách thức ăn chi tiết có thể đã từng là thực đơn của những buổi tiệc sang trọng.

Mặc dù đối với phần còn lại của dân số thịt là món xa xỉ, nó là thành phần chủ yếu của một bữa ăn sang trọng. Một số miếng thịt cắt ra có thể khó nuốt đối với thực khách ngày nay; nhưng người cổ Ai Cập không bỏ phí bộ phận nào cả của con vật. Một số thịt phổ biến nhất là bò (kể cả đầu, lưỡi, và bộ đồ lòng), ngổng, bồ câu, và cá. Thịt ăn kèm với

  • Rau củ, như dưa leo, củ hành, và cải bắp
  • Đậu lăng và hạt dẽ, bao gồm hạt dưa, và quả hạnh
  • Dược thảo, bao gồm cây rau mùi, và tỏi
  • Trái cây, bao gồm sung, nho, hạt nho, hạt cọ, chà là, và lựu

Bánh mì

Hầu hết các hình ảnh mô tả tiệc tùng đều cho thấy các gia chủ phục vụ những loại bánh mì và bánh ngọt khác nhau cho thực khách, bao gồm bánh mật ong và bánh mì trái cây. Bánh mì là lương thực chủ yếu trong khẩu phần người Ai Cập, và mọi người, nghèo hay giàu, đều tiêu thụ nhiều. Bánh mì cũng có mặt trên mâm cúng các thần linh.

Những loại bánh mì khác nhau đến nay vẫn tồn tại, bao gồm bánh làm từ lúa mì và lúa mạch. Thậm chí lăng mộ của Tutankhamun còn giữ lại những ổ bánh mì nhân dâu.

Người Ai Cập nướng những loại bánh mì khác nhau trong những hình thể khác nhau (hình tam giác và hình ô van là thường nhất) để dễ nhận diện. Buồn thay, ý nghĩa chính xác của những hình thể này đến nay vẫn chưa hiểu rõ.

Để xay bột thật nhuyển, người nướng bánh hoặc phụ nữ trong nhà có thể đã cho thêm bột đá (thạch anh hay granit) hoặc cát vào cối xay, có tác dụng như chất ma sát, nhờ thế bột được xay nhuyển mau hơn gấp hai. Rất có năng suất, nhưng chất phụ gia này trong bánh mì mau ăn mòn hàm răng của người Ai Cập (xem chi tiết rùng rợn ở Chương 8).

Ủ bia

Không có bữa tiệc nào trọn vẹn nếu không có rượu, và người Ai Cập yêu các loại rượu của họ. Các bữa tiệc phải cung cấp rượu vang và bia thừa mứa. Bia là khẩu phần chính trong thực đơn người Ai Cập và được tính trong phần lương và khẩu phần do nhà nước trả.

Bia được làm tương tự như bánh mì. Nó phần nào nặng hơn bia ta uống ngày nay và có thể chứa một số tạp chất. Bia Ai Cập được làm từ lúa mạch hoặc bánh mì thiu hoặc được nướng sơ. Chúng được sắp trên một lưới bắc lên miệng bình. Sau đó nước được đổ lên bánh mì cho đến khi chúng tan rã và rơi xuống bình, và được ủ lại để lên men. Sau đó, chất lỏng được chắt ra vào bình hai quay để trữ hoặc vận chuyển.

Kết quả là một thứ bia không quá nặng nếu uống vừa phải, nhưng người cổ Ai Cập thì chè chén ít khi vừa phải.

Đối với tay uống bia ‘trình độ’ hơn, các chất mùi thường được thêm vào, như chà là, gia vị, hoặc mật ong. Đường có trong chà là và mật ong đẩy nhanh sự lên men. Khi Hội Khám Phá Ai Cập thử nấu những mẻ bia sử dụng công thức từ thời cổ, họ tạo được một thứ bia rất ngọt nhưng không phải khó chịu.

Thưởng thức rượu vang

Mặc dù bia là thức uống có cồn chủ yếu ở cổ Ai Cập, thời Tân Vương quốc, rượu vang rất phổ biến, nhất là giữa giới thượng lưu. Rượu vang là thứ xa hoa dùng thay thế bia và được để dành cho những dịp đặc biệt.

Một số vườn nho còn tồn tại trong vùng này, và nhiều trại chủ địa phương sản xuất rượu vang. Athenaeus viết vào năm 200 AD rằng rượu vang Ai Cập ‘có màu tái, ngon, thơm, và hơi gắt, có chất lượng như dầu’.

Như trong thế giới hiện đại, mỗi bình rượu đều được dán nhản ghi ngày làm, tên vườn nho, và nhà sản xuất. Một số nhản khác từ các dinh cơ tại Malkata ở Thebes, quê hương của Amenhotep III, cũng ghi thêm loại rượu chứa trong bình, như ‘rượu pha trộn’, ‘rượu cúng’, ‘rượu thuế’, ‘rượu mừng ngày về’, ‘rượu tiệc’. Tất cả điều này chỉ ra rằng người Ai Cập thật sự là những người sành rượu.

Tiến trình làm rượu rất giống với tiến trình xảy ra trong các vườn nho nhỏ ngày nay. Các bước cơ bản gồm

  • Hái nho
  • Dẫm đạp nho trong những bồn bằng đất sét, gỗ, hay đá
  • Bỏ nho đã bị dẫm nát vào những tấm vải lanh rộng rồi vặn xoắn để vắt kiệt hết nước nho
  • Cho nước cốt nho lên men trong những bình đất
  • Chuyển nước nho đã lên men vào những vại đậy kín bằng nắp nêm có đục lỗ, cho phép cac-bon mônô-xít thoát ra.
  • Thưởng thức rượu sau một thời gian ngắn lên men.

Một loại rượu vang hiếm dưới tên Shedeh được làm từ nho, nhưng được đun nóng. Loại rượu này được phục vụ trong các buổi tiệc để gia chủ chứng tỏ cho khác mời biết mình là người giàu có và sành điệu.

Chương 8

Giữ Gìn Sức Khỏe: Bệnh Tật và Thuốc Men

Trong Chương Này

  • Gặp gỡ thầy thuốc
  • Kết hợp thuốc men và ma thuật
  • Chẩn đoán bệnh tật
  • Chữa bệnh

Bệnh tật là một tai họa hoành hành mỗi xã hội __ xưa cũng như nay. Các văn bản y học bằng giấy cói và xác ướp còn lại cung cấp những chứng cứ đầy đủ về các bệnh tật mà người cổ Ai Cập từng mắc phải. Những di chỉ này cũng giúp vẽ nên một hình ảnh rõ nét của nghề thuốc ở Ai Cập thời Pha-ra-ông, bao gồm những cách xử lý sai lầm cũng như một số cách chữa trị hiệu quả đáng kinh ngạc. Vào cuối chương này, tôi tin chắc bạn sẽ còn phàn nàn về Cục Bảo Vệ Sức Khỏe lần nào nữa!

Trong chương này, bạn sẽ gặp những thầy thuốc cổ Ai Cập, tham vấn các ghi chép của họ, và ngạc nhiên trước sự khéo léo __ và đôi khi kỳ cục __ của nhiều lối chữa trị, một số đã tạo nên nền tảng của y học hiện đại.

Khảo Sát Sức Khỏe Tổng Quát của người Ai Cập

Nhiều ghi chép y học còn lưu lại, những thi thể còn sót lại, và thậm chí một nghiên cứu tận tường những khu định cư có thể cho ta một cái nhìn chi tiết về sức khỏa tổng quát của người Ai Cập.

Theo tiêu chuẩn hiện đại, người cổ Ai Cập không khỏe mạnh, nhưng phần nhiều là do điều kiện sống của họ. Trong nhiều khu định cư, dân chúng sống quá chật chội, chen chúc, với hơn mười người sống chung trong một ngôi nhà.

Chứng cứ trong làng công nhân ở Amarna chỉ ra rằng sự hiện diện tràn lan của rận, chấy trên giường, và chuột __ tất cả những loài gieo rắc dịch bệnh. Chứng cứ bổ sung cho thấy đã từng có một dịch bệnh (như dịch hạch) bùng phát trong thành phố Amarna trong triều đại 18, giết chết nhiều người kể cả trong hoàng tộc (xem Chương 4).

Những dịch bệnh khác chắc chắn đã xảy ra do điều kiện sinh sống chen chúc, nhưng chúng rất khó tìm ra dấu vết trong những di chỉ khảo cổ, nhất là nếu chúng không chết người như bệnh dịch hạch.

Người Ai Cập trung bình có cuộc sống kham khổ và chắc chắn gặp phải một số bệnh sau đây:

  • Sưng nướu răng, kết quả là rụng răng và hoại tử xương hàm
  • Ký sinh trùng đường ruột, thông dụng nhất là giun sán
  • Rối loạn hô hấp do môi trường nhiều cát bụi
  • Viêm khớp mãn tính
  • Mù, nhất trong đám nhân công xây lăng mộ nhà vua

Dựa vào nghiên cứu hàng ngàn xác ướp ở Ai Cập, tuổi thọ trung bình chỉ là 36 tuổi. Ngoại lệ có những cá nhân sống đến tuổi ngoài 40, 50, và 60 thuộc những tầng lớp khác nhau, cho thấy địa vị và mức độ giàu có không cần thiết là những yếu tố sống thọ. Sống thọ thường là do may mắn hơn là do phán xét; nhiều bệnh tật và dịch bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến mọi người Ai Cập.

Hành Nghề Y ở Ai Cập

Trở thành y sĩ ở cổ Ai Cập liên quan đến học tập và thực tập __ trong cả hai lãnh vực y khoa và lễ nghi tôn giáo. Những mục sau đây đề cập đến tiến trình trở thành một y sĩ.

Thực tập nghề y ma thuật

Khổ thay, việc hành nghề y mà dân chúng cổ Ai Cập phải chịu đựng hoàn toàn không khoa học. Dân chúng mê tín tin rằng nhiều tật bệnh có nguyên nhân siêu nhiên __ do thần linh hoặc ma quỷ trả thù.

Kết quả là bệnh nhân quay sang thần linh cũng như thầy thuốc khi bị bệnh. Y khoa thực tiễn rất gần với tín ngưỡng và thường đi theo với bùa chú do các thầy tu được huấn luyện nghề y làm phép. Phần lớn thầy thuốc thật ra cũng là những thầy tu sử dụng ma thuật và bùa chú để bổ sung vào cách chữa trị bằng thuốc nhằm xoa dịu cơn giận của ma quỷ hay thần linh. Các thầy tu được trọng vọng vì họ có thể trao đổi với các thần linh mọi lúc.

Các thầy tu của một vài vị thần có khuynh hướng thiên về y học hơn một số khác. Các vị thần liên hệ với nghề y là

  • Sekhmet, nữ thần chiến tranh đầu sư tử, bệnh dịch
  • Selqet, nữ thần bọ cạp, mà các thầy tu của bà chuyên trị các vết cắn và chích của các loài bò sát có nọc độc, bọ cạp, và nhện lông
  • Thoth, thần kiến thức đầu cò quắm, chuyên viết bùa chú chữa trị.

Hầu hết nghề nghiệp đều cha truyền con nối, vì thế một số gia đình thầy tu kiêm thêm nghề y đều truyền nghề qua nhiều thế hệ. Một thầy thuốc mát tay và giỏi nghề chắc chắn sẽ rất đắc khách, thu nhập cao, và được nể trọng trong cộng đồng. Các xứ lân cận đánh giá rất cao thầy thuốc Ai Cập, và nhiều ghi chép cho thấy các vua lân bang cho vời các thầy thuốc Ai Cập về chữa bệnh cho mình.

Việc đào tạo nghề y

Để được công nhận là một thầy thuốc ưu tú, một sinh viên y khoa trẻ phải được huấn luyện trong Ngôi Nhà của Cuộc Sống, một học viện đặc biệt chuyên cung cấp việc dạy dỗ nghề y, nghề thư ký, và thầy tu, cũng như lưu trữ một thư viện phong phú.

Việc đào tạo nghề y và làm thầy tu chắc chắn đi song hành với nhau. Hầu hết các học viện đều liên kết với các đền thờ. Đây là trường hợp ở Edfu, Amarna, và Kom Ombo. Ngôi Nhà của Cuộc Sống danh tiếng nhất là do Imhotep (người dựng nên kim tự tháp bậc thang ở Saqqara) dựng lên ở Memphis; được sử dụng từ thời Vương quốc Cổ cho đến thời Hy-La, một khoảng thời gian dài hơn 2,000 năm.

Mặc dù thầy thuốc được đào tạo một cách chính thống, họ không cần trải qua kỳ thi mới được hành nghề. Giống như nghề y ngày nay, một bậc thang với thứ bậc nghiêm nhặt dựa vào năng lực và kinh nghiệm được thiết lập:

  • Senenu là thầy thuốc có thứ bậc thấp nhất, thường là những thư ký biết đọc những văn bản y học.
  • Kherep senenu là người kiểm soát các y sĩ và chủ trì hoạt động của một nhóm y sĩ.
  • Sau (thầy thuốc ma thuật) thường là thầy tu của nữ thần Sekhmet, cũng được đào tạo về nghề thuốc, nhưng chỉ chữa trị những cá nhân bị nữ thần quở phạt.
  • Người chăn chiên của thần Anu của Pha-ra-ông (ngự y) là tước vị cao quý dành cho thầy thuốc của nhà vua.
  • Y sĩ chuyên khoa là những y sĩ chuyên chữa trị một loại bệnh đặc biệt nào đó, như nghề y ngày nay. Các chuyên khoa thời cổ Ai Cập bao gồm mắt, răng, bao tử, và những bệnh lạ.

Trang bị phòng mạch y sĩ

Sau khi các thầy thuốc được đào tạo, họ cần hành nghề. Các thầy tu toàn thời gian có nghề thuốc thì cư ngụ trong các đền thờ. Chắc chắn họ chỉ có một số nhỏ bệnh nhân để chữa trị trong Ngôi Nhà của Cuộc Sống. Những y sĩ khác không phải thầy tu phải hành nghề tự do và chữa bệnh trong làng, có lẽ chỉ trên tiêu chuẩn bán thời gian. Người giàu cũng có thể thuê thầy thuốc làm y sĩ gia đình.

Các thầy thuốc cũng cần một số y cụ để hành nghề. Trong nhà mồ triều đại 6 ở Saqqara của Qar, y sĩ cao cấp của hoàng gia, một bộ y cụ hoàn chỉnh của ông được phát hiện, bao gồm 30 dao mổ và kẹp gắp, hình như là công cụ chủ yếu cho hầu hết căn bệnh.

Đền Kom Ombo mô tả hình ảnh của một bộ y cụ hoàn chỉnh, tương ứng với các y cụ trong nhà mồ của Qar. Một danh sách trên văn bản Edwin Smith (văn bản y học bằng giấy cói) chứa những dụng cụ sau:

  • Cành cây bấc có đầu nhọn, dùng với dao để mổ xẻ.
  • Một khoan lửa (hai que gỗ dùng để chà sát cho ra lửa)
  • Một dao/đục
  • Một ống giác hơi
  • Một kim gai (dùng để đâm các vết thương có mủ)
  • Thủy tinh vỡ hơ nóng (để chữa mắt ?!)
  • Bông, và vải lanh để băng bó
  • Dao, thìa, và vữa

Hầu hết y cụ này hình như hợp lý và còn sử dụng đến ngày nay. Chẳng hạn, chích những vết sưng tấy mủ bằng dụng cụ nhọn (như kim gai) là chuyện thường tình, và đốt những mụn cóc là cách hiệu quả để loại trừ chúng. Thật ra, dụng cụ duy nhất trên danh sách làm ta thắc mắc là thủy tinh vỡ hơ nóng được dùng để điều trị các bệnh mắt.

Đọc thêm: Hai thầy thuốc đỉnh

Hơn 100 y sĩ cổ Ai Cập đã được biết đến tên tuổi, tất cả đều từ thành phần thượng lưu trong xã hội. Trong số đó có hai người nổi bật nhất.

Hesy-re là người y sĩ đầu tiên được biết đến trong lịch sử, trong niên đại thứ ba. Hesy-re giữ chức Trưởng Nha sĩ và Thầy thuốc và rõ ràng là một người có vị thế cao trong triều đình. Nhà mồ của ông tọa lạc ở phía bắc Kim Tự Tháp Bậc Thang ở Djoser.

Peseshet là thầy thuốc nữ duy nhất được biết đến trong lịch sử Ai Cập, sống ở triều đại thứ tư. Bà nhận tước vị Nữ Giám Sát các Y Sĩ Nữ. Mặc dù không có thầy thuốc nữ nào khác được biết đến cho đến thời Ptolemy, sự kiện Peseshet giám sát các y sĩ nữ cho thấy có nhiều y sĩ nữ tồn tại.

Tính tiền hay không tính tiền

Mặc dù tồn tại nhiều thông tin về nghề thuốc và thầy thuốc cổ Ai Cập, không có thông tin nào cho biết chi phí của những dịch vụ y tế và cách thức trả tiền. Không chứng cứ cho thấy Nhà Nước thuê các y sĩ công để chữa bệnh cho dân chúng. Ngoại lệ duy nhất xảy ra ở làng công nhân Deir el Medina. Nhà nước cung cấp những thầy thuốc cho cơ sở này để bảo đảm sức khỏe cho các công nhân xây dựng lăng mộ. Nhà nước trả cho các y sĩ ở Deir el Medina một mức lương thấp hơn những công nhân khác tại đó. Có lẽ họ bổ sung phần lương thấp của mình qua việc tính chi phí khám bệnh cho bệnh nhân.

Ai Cập không có hệ thống tiền tệ cho đến khi Alexander đến Ai Cập vào năm 332 BC, do đó bệnh nhân được chữa trị chắc chắn trả công cho thầy thuốc bằng ngủ cốc, gia súc, vải lanh, hay đồ thủ công, tùy theo nghề nghiệp, tài sản, và mức độ hài lòng của họ đối với việc chữa trị. Ngày nay nếu bạn chỉ có thể mua theo toa thuốc với giá một con dê và một bao bột mì, nhà thuốc ắt hẳn sẽ là nơi đầy màu sắc!

Thăm khám bệnh

Sau khi được đào tạo và trang bị đủ y cụ, các y sĩ mới có thể bắt đầu hành nghề. Hơn 1,200 ghi chép y tế của cổ Ai Cập còn sót lại, cho ta cái nhìn chi tiết về việc thăm khám bệnh. Những văn bản y tế bằng giấy cói này gồm có

  • Lời thề của nghề thầy thuốc, tương tự như lời thề Hippocrate của bác sĩ y khoa bây giờ
  • Một bản mô tả các tiến trình thăm hỏi bệnh nhân liên quan đến triệu chứng và việc thăm khám của thầy thuốc
  • Thông tin về thai sản và phụ khoa
  • Bản mô tả các vết thương và bệnh về mắt, da, và hậu môn
  • Bản mô tả các vết cắn từ người, heo, và hà mã
  • Chi tiết các cách chữa bệnh và ra toa thuốc

Khám bệnh

Có nhiều y sĩ nam hơn nữ, vì thế cả bệnh nhân nam và nữ đều có dịp thăm khám y sĩ nam, mặc dù không có ghi chép nào về việc này. Một văn bản y tế chỉ ra rằng y sĩ nam cũng giải quyết những bệnh phụ khoa.

Văn bản Ebers Papyrus mô tả chi tiết thủ tục khám bệnh. Phương pháp chẩn đoán này tương tự như phương pháp hiện giờ. Trước tiên y sĩ thăm hỏi bệnh nhân, và tìm hiểu các triệu chứng mà bệnh nhân đang chịu đựng.

Sau đó y sĩ xem mạch bệnh nhân và tiến hành xem xét những chất thải của cơ thể, như nước tiểu, phân, đờm, và máu, ghi nhận bất cứ điều gì bất thường. Rồi y sĩ xem xét các phản xạ.

Sau khi tất cả thủ tục xem xét đều hoàn tất, việc chẩn đoán được công bố. Vì không phải mọi bệnh đều có tên, việc chẩn đoán bình thường chỉ là một phát biểu cách thức y sĩ sẽ chữa trị cho bệnh nhân. Việc chẩn đoán đến dưới ba hình thức:

  • Một căn bệnh mà tôi sẽ chữa khỏi
  • Một căn bệnh mà tôi sẽ cố gắng chữa khỏi
  • Một căn bệnh không chữa được

Chỉ 14 trong số 48 ca bệnh trong văn bản Ebers Papyrus được xem là vô vọng và do đó không chữa được. Về 34 bệnh nhân khác, các thầy thuốc nghĩ rằng họ sẽ tiến hành chữa trị và xem kết quả ra sao. Sau đó họ ra toa theo cách họ cho là thích hợp nhất. Toa thuốc đưa ra liều lượng và thời gian sử dụng, và tất cả được điều chỉnh theo tuổi tác, như toa thuốc ngày nay.

Chữa bệnh

Các thầy thuôc Ai Cập quan tâm đến việc chữa bệnh hơn phòng bệnh. Trong số ít các ghi chép còn sót lại về các phương pháp phòng bệnh, hầu hết hình như hơi thẳng thừng, chẳng hạn hãy tắm rửa đều đặn. Các thầy thuốc dặn dò nên trang điểm cho mắt để nó phản chiếu ánh sáng khỏi vùng nhạy cảm của mắt và để ngăn ngừa sâu bọ khỏi bay vào mắt. Họ cũng khuyên nên đốt hương để xông nhà và đền thờ, giúp đuổi muỗi truyền bệnh sốt rét ra khỏi nơi cư trú.

Nếu căn bệnh là rõ ràng, như một vết thương hoặc xương gãy, sự chữa trị được chẩn đoán thuần túy thuộc y học. Chẳng hạn, những vết thương không nhiễm trùng được khâu lại bằng kim và chỉ, và thịt sống được đắp lên vết thương vào ngày đầu tiên giúp vết thương mau lành hơn. (Phương pháp này ngày nay được cho là có hiệu quả giúp vết thương bớt chảy máu.)

Mặc dù các thầy thuốc thường quay sang thần linh để nhờ cứu giúp trong các ca khó khăn, họ cũng am tường về giải phẫu học, do thực hành việc ướp xác. Văn bản Edwin Smith đề cập đến những kỹ thuật mổ xẻ như cắt các chi, khâu vết thương, và loại các vật lạ ra khỏi cơ thể (như tên).

Nếu một căn bệnh thuộc nội tạng và không có nguyên do hiển nhiên, người ta tin rằng nó có nguồn gốc siêu nhiên, và các thần linh được mời đến chữa trị.

Các căn bệnh thông thường và cách chữa trị

Cũng như ngày nay, các thầy thuốc cổ hình như sẵn sàng để chữa mọi thứ bệnh. Vấn đề các toa thuốc có thực sự hiệu quả không là một câu hỏi còn để ngỏ, nhưng một số chất thuốc được sử dụng, nhất là cho những căn bệnh ít nghiêm trọng, đã trở thành nền tảng của y học hiện đại. Chẳng hạn, người cổ Ai Cập dùng:

  • Quả sung để chữa táo bón: Có nhiều chất xơ, quả sung ngày nay còn được tiêu thụ để giúp việc tiêu hóa được ổn định.
  • Mật ong chữa ho và bệnh đục nhân mắt: Trong y khoa hiện đại, mật ong được dùng chữa thương, phỏng, và vết loét và chống lại hiệu quả một số vi trùng, có tác dụng như thuốc kháng sinh.
  • Đồng để rửa sạch vết thương: Các nhà khoa học ngày nay biết rằng đồng ngăn cản sự tích lũy của vi trùng.
  • Cây anh túc dỗ bé nín khóc: Cây anh túc là thành phần cơ bản của ma túy như thuốc phiện và móc phin khiến em bé buồn ngủ và nín khóc.
  • Men giúp chữa rối loạn tiêu hóa: người Ai Cập cũng đắp men lên vết bỏng và vết loét. Ngày nay men được biết là một nguồn dồi dào vitamin B phức hợp và hiệu quả như một chất kháng sinh.

Chứng rối loạn tiêu hóa

Giun sán là một trong những căn bệnh người cổ Ai Cập hay mắc phải. Những ký sinh trùng này hầu như không thể chữa khỏi, và nhiều xác ướp còn giữ lại bằng chứng các loại giun xán sống chung trong nhà và xâm nhập vào nội tạng. Các ký sinh trùng gồm có:

  • Bilharzia, có trong các con ốc ở ao hồ tù đọng. Chúng gây bệnh thiếu máu, kém ăn, nhiễm trùng đường tiểu, và mất sức đề kháng.
  • Giun heo do uống nước nhiễm trùng.
  • Trichnella và taenia, do ăn thịt chưa chín.
  • Lãi lây do tiếp xúc với các thú bị bệnh. Chúng gây chứng u xơ là ổ trứng của chúng.

Chứng bơm thụt cũng phổ biến, ít nhất trong thành phần ưu tú, và cách này có thể loại trừ một số giun sán, nhưng không nhiều. Người Ai Cập, buồn thay, phải chung sống với chúng và chỉ xử lý những triệu chứng.

Các bệnh và rối loạn khác

Đối với những trường hợp nghiêm trọng, cách chữa trị phần lớn là phước chủ may thầy. Vì nhiều căn bệnh có nguồn gốc thuộc nội tạng, các thầy thuốc Ai Cập không thể nhận diện được nguyên do và chỉ chữa trị theo triệu chứng, như đau đớn, ho hen, và các thay đổi về thể trạng. Các bệnh thông thường và cách chữa gồm

  • Lao phổi: Không có cách chữa trị nào tồn tại, nhưng các thầy thuốc làm thuyên giảm cơn ho bằng cách cho bệnh nhân hít hổn hợp dầu chế từ hạt carob, hạt chà là, và mật ong.
  • Ho dị ứng vì bụi cát: Không có cách chữa trị nào còn tồn tại, là bệnh gây ra do thở trong môi trường nhiều bụi cát. Các thầy thuốc cũng chữa trị ho như trong bệnh lao phổi.
  • Đau khớp: Các thầy thuốc xoa bóp cho bệnh nhân bằng dầu hương để làm giảm cơn đau nhức.
  • Gãy xương: Những thanh nẹp bằng gỗ dùng để bó những khúc xương gãy dài. Những mảnh vải lanh được đặt vào hốc mũi để vá mũi gãy. Những khuôn đúc bằng vữa __ làm từ sữa bò trộn với lúa mạch hoặc lá cây keo trộn với gôm và nước __ được sử dụng để bó những chỗ gãy nứt.
  • Bệnh đục nhân mắt: Các thầy thuốc đắp một hổn hợp óc rùa và mật ong lên mắt và đọc một bài thần chú.

Đọc thêm: Há miệng ra

Một bệnh rối loạn xương mà người cổ Ai Cập có thể chữa được là trẹo quai hàm. Cách chữa trị này được mô tả trong văn bản giấy cói Edwin Smith.

Khi bạn khám một bệnh nhận có hàm dưới bị lệch, bạn sẽ thấy là miệng y cứ há ra mà bạn không thể mở đóng miệng y lại được; thế thì bạn hãy đặt ngón tay mình vào đầu mút của cả hai xương hàm nhô ra phía trong miệng y , và ấn ngón cái dưới cằm y; rồi đẩy cho chúng [khớp xương bị trẹo] sụp vào chỗ cũ . . . băng bó chúng bằng imr.w [chỉ có trời nới biết đây là thứ bí ẩn gì!] và mật ong mỗi ngày cho đến khi lành hẳn.

Không có ghi chép cho biết tại sao chứng trẹo quai hàm quá phổ biến như vậy, nhưng có thể vì xương răng hàm thường bị bào mòn nhiều, khiến nhiều người Ai Cập cuối cùng phải nhai theo một cách kỳ cục để bớt đau nhức. Đây chỉ là một giả thuyết!

Những phương pháp khác

Người Ai Cập thỉnh thoảng cũng dùng những phương pháp chữa trị khác, mà gần đây đã trở nên phổ biến.

  • Liệu pháp xông hơi. Chất xông rất phổ biến ở Ai Cập. Nó được đốt để làm sạch không khí và xông hơi nhà. Nó cũng sử dụng quen thuộc trong các lễ nghi tôn giáo, các ghi chép từ 1200 BC cho thấy ở đền Karnak, 2,189 bình và 304,093 hộc chất xông được đốt trong chỉ một năm!

Chất xông hơi được sử dụng trong các bệnh xá nơi bệnh nhân ngủ qua đêm để gởi những thông điệp đến các thần linh qua những giấc mơ. Giấc ngủ sẽ đến dễ dàng bằng các loại hương xông gây ảo giác. Các thầy tu sau đó sẽ giải mộng và hướng dẫn các bệnh nhân những bổn phận phải thi hành để được chữa trị. Đừng cho tôi là người hoài nghi khi tôi dám chắc là trong số những bổn phận mà các thầy tu đề nghị cho bệnh nhân thế nào cũng có bổn phận cúng dường cho đền thờ bằng cách này hay cách khác.

  • Thụt hậu môn. Một lãnh vực thuộc y khoa phòng ngừa mà người Ai Cập sử dụng và nay đã trở lại là sử dụng cách thụt hậu môn đều đặn và thông ruột kết. Người Chăn Chiên của Thần Anus là một chuyên gia về phương pháp này, được tiến hành như một phương cách để giữ gìn sức khỏe tổng quát.

Liệu pháp này được tin là do Thoth, thần kiến thức đầu cò quắm, giới thiệu. Cò quắm thường được quan sát thấy dùng mỏ dài chọc vào trực tràng của mình để làm sạch ruột. người Ai Cập cũng bắt chước thủ thuật ấy __ hy vọng bằng một công cụ mềm mại hơn.

  • Giật điện. Một cách chữa trị khác kỳ quái hơn là cho bệnh nhân sốc điện, dùng cá đuối mang điện tích, sống nhiều ở sông Nile, từ ít nhất vào triều đại thứ năm.

Scribonius Largus (45 AD), ngự y của Hoàng đế Claudius, ghi chép cách thức cá đuối điện được sử dụng trong khoa trị liệu Ai Cập đối với chứng đau tổng quát:

Khi họ đến, người ta đặt một con cá đuối điện còn sống dưới bàn chân của bệnh nhân. Bệnh nhân đứng trên bờ biển ướt, nước ngập đến cổ, cho đến khi bàn chân bị tê dại đến đầu gối.

Bằng cách nào kỹ thuật này làm dứt cơn đau nhức __ chứ không phải làm bạn quên phức nó __ là điều tôi không thể hiểu. Tôi không thể biết được cái nào tệ hơn, cơn đau hay cách chữa trị!

  • Liệu pháp xoa bóp. Một hình ảnh trong lăng mộ vào triều đại thứ năm của Ankhmahor ở Saqqara cho thấy các tứ chi của bệnh nhân được các thầy thuốc xoa bóp để cắt giảm cơn đau nhức. Đây được xem như là hình ảnh cổ nhất về liệu pháp xoa bóp trên thế giới.

Trong văn bản giấy cói Westcar, từ thời Vương quốc Giữa, pháp sư 110 tuổi Djedi đã chỉ dẫn ‘một người hầu thoa dầu và một người khác chà xát chân’, cho thấy một hình thức vật lý trị liệu có lẽ giúp làm thuyên giảm cơn đau nhức ở các khớp.

Thân chủ thỏa mãn hay không?

Mặc dù những ghi chép không đề cập đến giá cả các cuộc thăm khám và cho toa, các bệnh nhân chắc chắn hầu hết đều phải trả công cho thầy thuốc chữa trị mình. Vì tiền tệ chưa được sử dụng trong suốt thời kỳ các pha-ra-ông, các bệnh nhân phải chi trả bằng phẩm vật. Bệnh nhân trả trước hay sau khi được chữa trị hoặc chỉ khi chữa lành bệnh là điều ta không biết được. Tuy nhiên, nhiều hình khắc được dâng lên các thần linh để tỏ lòng tri ân vì đã chữa lành các bệnh tật.

Há miệng ra và nói ‘A’: Chữa răng

Người cổ Ai Cập gặp nhiều bệnh về răng miệng, và rõ ràng ngưỡng chịu đau của họ phải rất cao xét về các chứng bệnh sưng tấy khủng khiếp trong răng miệng.

Không có nhiều thầy chữa răng được biết đến ở cổ Ai Cập, mặc dù tám nha sĩ đã được nhận diện từ thời Vương quốc Cổ. Ba trong số này được phát hiện trong các nhà mồ vào tháng tám 2006 (mặc dù các xác ướp đã bị các tay cướp mộ hủy hoại). Ba người này cũng giữ những tước vị y sĩ. Nếu các thầy chữa răng không có được những tươc vị riêng biệt, phân biệt họ với các thầy thuốc là điều khó khăn.

Mòn răng

Vấn đề thông thường nhất cho hầu hết người Ai Cập, bất chấp vai vế và thứ bậc xã hội, là việc mặt răng hàm bị bào mòn. Tình trạng này chủ yếu do thạch anh, sỏi nhỏ, cát, và mica có mặt trong ngủ cốc, và được nghiền thành bột. Những chất này đều được tìm thấy trong bánh mì thời cổ và gây ra sự bào mòn mặt răng hàm khi nhai. Hoặc chất này do gió đem lại hoặc do nông dân trộn vào có chủ ý vẫn còn đang được tranh luận __ cách nào thì răng bị bào mòn là điều có thật.

Răng bị bào mòn đến mức độ men răng hoàn toàn biến mất, để lộ ra phần xương tủy nhạy cảm bên trong. Phần xương tủy này sau đó nhiễm trùng, gây ra áp xe, xưng tấy, và vô cùng đau đớn. Trong nhiều trường hợp, các áp xe ăn sâu đến tận xương hàm, và làm rụng răng.

Khó có thể làm được gì nhiều đối với các ap xe này khác hơn là chích mủ ra khỏi vết thương. Các thầy thuốc dùng dao cắt phần áp xe nhiễm trùng, rối dùng ống sậy hút mủ ra khỏi vết thương. Thế nào rồi mủ cũng sẽ trở lại, và công việc trên sẽ tái diễn.

Người cổ Ai Cập hình như cho rằng đau răng là việc bình thường, vì những ghi chép về việc xin nghĩ làm ở Deir el Medina, không nêu ra lý do nào dính líu đến việc xin nghĩ làm vì đau răng.

Trên một bình diện tích cực hơn, người cổ Ai Cập không bị sâu răng nhiều vì khấu phần của họ chứa ít đường. Người ưu tú làm ngọt thức ăn của mình bằng mật ong, nhưng đây là một việc xa xỉ đối với hầu hết dân chúng. Chỉ một nhóm nhỏ các xác ướp cho thấy bị chớm đau răng, nhưng hầu hết những người lớn đều có mặt răng hàm bị bào mòn.

Giải pháp làm hơi thở thơm tho

Với đầy áp xe trong miệng, hơi thở của người cổ Ai Cập chắc phần nào bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, người Ai Cập tìm đủ mọi cách để làm sạch răng miệng dùng phần đầu đập nát của một thanh que. Kỹ thuật này giúp hàm răng của nhiều người Ai Cập cổ sạch bóng.

Các ghi chép y khoa chứa nhiều toa thuốc làm hơi thở thơm tho, trong đó nhai cây quế, cây trầm, nhựa thơm, và cỏ thơm trộn với mật ong.

Xem Xét Sức Khỏe Phụ Nữ

Một số văn bản giấy cói về y thuật tập trung chủ yếu vào sức khỏe phụ nữ __ đặc biệt vào tính mắn đẻ, đau đẻ, và sức khỏe sinh sản.

Nhiều cách chữa trị dựa vào quan niệm cho rằng ở phụ nữ âm đạo được nối với đầu qua một chuỗi các ống. Nếu những ống này sạch sẽ, họ có thể sinh sản, nếu chúng bị cản trở, họ sẽ bị hiếm muộn. Phần lớn cách chữa trị liên quan đến thuốc uống hoặc đặt thuốc âm đạo hoặc xông hơi.

Một số đề mục về sức khỏe phụ nữ bao gồm:

  • Ngừa thai: Phân cá sấu rắc vào sữa chua hoặc mật ong và muối khoáng được sử dụng để tránh thai. Cả hai chất trên được sử dụng như khăn kinh đặt vào âm đạo. Và tôi dám chắc cái mùi của nó sẽ cổ vũ cho sự kiêng khem.
  • Sự mắn đẻ: Người phụ nữ được cho là đi tiểu vào lúa mạch và lúa mì. Nếu hạt lên mầm, bà ta sẽ sinh nở. Nếu lúa mạch lên mầm trước, bà sẽ sinh trai, nếu lúa mì lên mầm trước, bà sẽ sinh gái. Nếu không có hạt nào, bà ta không thụ thai. (Khi phương pháp này gần đây được kiểm nghiệm, nó không xác định đúng phái tính, nhưng, nếu một phụ nữ có thai, hạt sẽ nẩy mầm trong một thời gian ngắn. Khi sử dụng nước tiểu đàn ông, không có việc gỉ xảy ra.
  • Sự mãn kinh: Đây là sự mãn kinh sớm và được ‘chữa trị’ bằng cách cho người nữ uống trong bốn ngày một chất làm nôn mữa. Nếu người phụ nữ nôn ra máu, chu kỳ kinh nguyệt của bà sẽ bắt đầu lại.

Chương 9

Thờ Phượng như người Ai Cập: Tôn Giáo

Trong Chương Này

  • Tìm hiểu các thần linh
  • Thờ phượng các thần ở đền thờ và tại nhà
  • Bảo hộ khỏi ma quỷ và kẻ thù nguyền rũa
  • Thăng hoa người chết

Khi nhìn vào tôn giáo Ai Cập, chỉ cần biết bắt đầu từ đâu cũng là rất khó. Với hơn 700 vị thần có tên, dân chúng cổ Ai Cập có vẽ rất kính tín.

Tuy nhiên, mỗi vị thần biểu thị một quan niệm khác nhau, vai trò khác nhau, hoặc khu vực khác nhau tại đó vị thần ấy được phụng thờ. Và không phải mọi người cổ Ai Cập đều thờ phụng tất cả các vị thần suốt thời gian. Họ chọn vị thần nào phù hợp với nhu cầu cá biệt của mình.

Chương này khảo sát nhiều vị thần mà nhà vua và các thầy tu __ cũng như dân chúng Ai Cập __ thờ phụng. Tôi khảo sát một số nghi lễ và hành lễ quan trọng nhất, kể cả sự hành lễ phổ biến về việc thờ phượng người quá cố.

Khảo Sát điện Parthenon của các vị Thần Ai Cập

Người Ai Cập là một dân tộc có tổ chức, trong tôn giáo cũng như trong hầu hết mọi sinh hoạt khác. Các sử gia có thể phân chia sự hành lễ tôn giáo Ai Cập ra hai hình thức:

  • Quốc giáo liên hệ mật thiết với nhà vua và thần thánh của ông ta. Đây là lối hành lễ xa lạ với hầu hết người thường. Các vị thần nhà nước được thờ phụng trong các đền thờ lớn ở Karnak, Luxor, Abu Simbel, và Abydos. Những đền thờ này chỉ dành cho vua và các thầy tu bước vào hành lễ.
  • Dân giáo phát triển như một đáp ứng với quốc giáo. Dân giáo liên quan đến nhiều nhóm thần linh khác nhau. Dân chúng (không có thầy tu) thờ phượng những vị thần này ngay trong nhà mình (hơn là trong các đền thờ).

Giải thích tất cả những hình dạng bất thường này

Cả quốc giáo và dân giáo đều liên quan đến những vị thần có hình dạng phần nào kỳ quái biểu thị bằng thân người nhưng có đầu thú, bằng con thú, hoặc con người có đầu là những vật thể vô tri.

Tuy vậy người Ai Cập không tin rằng những dáng vẻ kỳ cục này chính là hình dáng thực sự của các thần. Họ tin rằng các thần linh là không có hình thể. Những mô tả chỉ biểu thị những đặc tính của vị thần và vai trò của thần. Bản chất của con thú và vật thể vô tri thay thế cho đầu thần cho ta thông tin nào đó về vị thần. Chẳng hạn:

  • Hathor là một phụ nữ có đầu bò, biểu thị bản chất mẫu tử, nuôi dưỡng của loài bò.
  • Sekhmet là một phụ nữ có đầu sư tử, biểu thị bản chất hung hăng của một sư tử cái.
  • Selket là một phụ nữ có thân bò cạp và đầu người, biểu thị bà là người bảo vệ chống lại bò cạp và vết nhện cắn.

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Hoán chuyển các vai trò và hình thể

Như con người, các vị thần Ai Cập đóng những vai trò khác nhau và đảm nhận những đặc tính khác nhau trong suốt cuộc đời họ, có nghĩa là cùng một vị thần có thể biểu hiện theo nhiều cách khác nhau.

Thần mặt trời Ra, chẳng hạn, được biểu thị theo bốn cách khác nhau, tùy theo thời khắc trong ngày:

  • Khepri là bọ hung (hoặc thân người đầu bọ hung) biểu thị mặt trời lúc bình minh.
  • Aten là đĩa mặt trời biểu thị ánh sáng chiếu từ mặt trời lúc trưa.
  • Re-Horakhti là thân người đầu chim ưng với hình mặt trời đội trên đầu.
  • Flesh là thân người đầu cừu đực biểu thị mặt trời lúc hoàng hôn.

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Đọc thêm: Phơi mình dưới ánh nắng mặt trời

Trong một xứ sở nóng như Ai Cập, mặt trời có một quyền lực đặc biệt trong cuộc sống người Ai Cập. Bởi thế, giáo phái mặt trời đặc biệt nổi bật từ thời Vương quốc Cổ đến thời La Mã.

Tuy vậy, thay vì đơn giản hóa vấn đề, người Ai Cập đặt tên và thờ phụng nhiều hình thái khác nhau của thần mặt trời, tùy theo giờ giấc trong ngày và khu vực nơi thần mặt trời được thờ phụng.

Thêm nữa, các thần mặt trời liên hệ sát với sự sáng thế __ mặt trời là vật đầu tiên xuất hiện trên đỉnh sáng thế lúc khởi thủy của thời gian. Điều này có nghĩa những thần mặt trời cũng là những vị thần sáng tạo. Và như những vị thần sáng tạo, họ liên hệ sát với nghi lễ an táng và sự tái sinh của người quá cố.

Nhiều vị thần khác cũng muốn đi vào vùng hoạt động của thái dương để gia tăng của cải và quyền lực (mặc dù thực tế quyền lực chắc chắn chỉ có vua và các thầy tu thèm muốn chứ không phải chính các thần!) Nhiều thần muốn thái dương hóa tên mình bằng cách thêm từ Ra vào tên (chẳng hạn Amun-Ra). Ngay cả các vị vua cũng muốn kết hợp với thần mặt trời và gọi vương hiệu của mình là ‘con trai của Ra’ để khoa trương dòng dõi thần linh của mình.

Dành chỗ cho các vị thần khác

Để tăng thêm kích cỡ cho nhóm các thần này, người Ai Cập khéo léo pha trộn và cặp đôi các vị thần của họ để tạo ra các vị thần mới. Việc này phần nào giải thích tại sao người cổ Ai Cập có quá nhiều thần.

Chẳng hạn, nhiều thần sở hữu nhiều hơn một đặc tính và do đó được biểu thị tốt nhất bởi hai vị thần khác nhau:

  • Amun-Min là phối hợp của thần sáng tạo (Amun) và thần sinh sản (Min).
  • Amun-Ra là phối hợp của thần sáng tạo (Amun) và thần mặt trời (Ra).

Một số thần nước ngoài được đưa vào và phối hợp với thần Ai Cập để dân chúng Ai Cập dễ chấp nhận họ hơn:

  • Seth (thần Ai Cập của sự hổn độn) phối hợp với Baal (thần sấm sét của vùng Canaan).
  • Hathor (nữ thần mẹ Ai Cập) phối hợp với Anat (nữ thần chiến tranh của người Syria).
  • Osiris (thần Ai Cập của người chết) phối hợp với Dionysus (thần sinh sản của người Hy Lạp).
  • Isis (nữ thần mẹ của Ai Cập) phối hợp với Aphrodite (nữ thần tình yêu của người Hy Lạp).
  • Imhotep (thần y khoa của Ai Cập) phối hợp với Asklepios (thần y khoa của người Hy Lạp).

Đọc thêm: Lừa gạt, sát nhân __ và nghề rừng

Một thần thoại tôn giáo Ai Cập quan trọng là về thần Osiris và Seth. Nó là cơ bản cho nhiều tín ngưỡng an táng của người cổ, cũng như giải thích tính thần quyền của nhà vua.

Cách đây rất lâu, Osiris cai trị Ai Cập. Ông được coi là nhà trị vì anh minh, dạy dỗ dân chúng cách trồng trọt, thờ phụng các thần linh, và tuân thủ luật lệ. Seth, em trai của ông, ganh tỵ và muốn chiếm đoạt ngai vàng về cho mình. Seth nghĩ ra một âm mưu loại bỏ Osiris và chiếm lấy ngai vàng. Trước tiên, y thu nhặt tất cả thông tin về số đo thân thể của Osiris __ chiều cao, chiều ngang, kích cỡ tứ chi, ngay cả chiều dài sợi tóc, chiều dài ngón chân và móng chân. Sau đó Seth đóng một chiếc tủ rất đẹp vừa vặn với các số đo này.

Tại một buổi chiêu đãi Seth trưng ra chiếc tủ này và tuyên bố ai đứng vừa vặn trong chiếc tủ này có quyền sở hữu nó. Giống như trong truyện Lọ Lem, mọi người khách đều lần lượt bước vào chiếc tủ đứng hy vọng mình sẽ khớp với nó. Một số người quá mập, số người khác quá cao; số khác có tóc quá dài hoặc quá dày. Orisis, dĩ nhiên, vừa khít hoàn toàn. Nhưng trước khi ông kịp vui mừng vì món quà thì Seth đã đóng sầm cánh cửa tủ, khóa tủ lại và ném tủ xuống dòng sông Nile, nhận chìm nhà vua.

Khi vợ Osiris là Isis nghe tin, bà đi tìm chiếc tủ để chôn cất thi thể chồng tử tế. Cuộc săn tìm đưa bà đến tận Byblos (tọa lạc đâu đó ở Lesbanon ngày nay), tại đó bà hay tin rằng chiếc tủ đã mọc thành một thân cây và đã bị đốn ngã và chạm thành một thân cột dựng trong lâu đài của nhà vua. Sau một thời gian tìm kiếm bà tìm được cách thuyết phục hoàng hậu cho bà mang cột trở về Ai Cập. Khi Isis về tới Ai Cập, bà nằm ngủ một giấc ngắn. Trong khi bà ngủ, Seth đi ngang, nhận ra chiếc tủ, lấy thi thể của Orisis ra chặt làm 14 mảnh, ném rải rác khắp Ai Cập. (Isis quả là một người say ngủ.)

Khi Isis tỉnh dậy, cùng với em mình là Nephthys, bà bắt đầu một cuộc tìm kiếm tất cả mảnh thi thể của Osiris. Mảnh cuối cùng __ dương vật của Orisis __ không bao giờ được tìm thấy. Seth đã ném phần này xuống sông Nile và một chú cá đã nhanh nhẹn đớp lấy nó.

Isis, tuy nhiên, chứng tỏ mình là một phụ nữ tháo vác. Sau khi gom góp những phần thi thể đã thu nhặt được, bà dùng đất sét tạo ra phần thứ 14 còn thiếu và hoạt động được. Sau đó bà tự biến hình thành một con diều bay qua thân thể của Orisis. Làn gió từ cánh diều phấp phới tạo ra hơi thở cuộc sống cho chồng, làm ông sống lại __ vừa đủ thời gian cho Isis thụ thai Horus. Rồi Osiris chết và bị đày đi vào thế giới bên kia. Isis còn lại một mình nuôi nấng Horus trong các đầm lầy Ai Cập để che chở cậu khỏi tay Seth cho đến khi cậu đủ trưởng thành và chiếm lại ngai vàng của cha mình.

Gặp Gỡ các Vị Thần Quốc Giáo Ai Cập

Trong khi Ai Cập tôn thờ hơn 700 thần trong dòng lịch sử cổ đại, một số vị thần xuất hiện nổi bật nhất. Phần này đề cập đến những gương mặt quan trọng trong quốc giáo __ chủ yếu của nhà vua. Dân thường thờ phụng một nhóm các vị thần hoàn toàn khác trong nhà họ.

Nhận diện các đặc tính chủ yếu

Các vị thần dưới đây được tôn thờ khắp đất nước, trong cung điện cũng như trong nhà thứ dân.

Ba vị thần quan trọng nhất là

  • Orisis, thần của địa ngục. Khi nhà vua băng hà, ông biến thành Osiris để ông có thể tiếp tục cai trị trong cõi địa ngục. Về nghệ thuật, Osiris được thể hiện dưới dạng xác ướp (quấn chặt như xác ướp), tay cầm móc và néo để biểu lộ vai trò tiếp tục của mình như một vì vua.
  • Horus (con trai của Osiris và Isis), thần của sự trật tự. Nhà vua được tin là hiện thân của thần Horus trên mặt đất. Horus được thể hiện như thân người đầu diều hâu.
  • Seth (em trai của Osiris), thần của sự hổn độn. Seth được hầu hết người Ai Cập kính sợ vì bản chất hổn độn của ông, mặc dù một số vua công nhận ông là vị thần của riêng mình (như Sety I và II, Ramses II và III). Seth được thể hiện như mình người đầu quái dị với mũi cong, tai vuông, dài, dựng đứng.

Ba nữ thần quan trọng nhất là

  • Isis (em gái và vợ của Osiris, mẹ của Horus), nữ thần mẹ phổ quát. Isis được biểu thị như một phụ nữ xinh đẹp, đôi khi có cánh thay vì tay. Bà cũng được mô tả theo hình dáng của con diều để biểu thị chức năng của bà là cung cấp hơi thở cho cuộc sống đến người quá cố. Bà được mô tả mang trên đầu một biểu tượng ngai vàng.
  • Nephthys (em gái của Isis và Osiris), nữ thần liên kết với sự tái sinh. Nephthys giúp Isis làm Osiris sống lại. Bà được mô tả là một phụ nữ với đôi cánh thay vì tay hoặc là một con diều cho thấy đặc tính tương tự với Isis. Nephthys được dễ dàng nhận diện qua một hình bán nguyệt bên trên một hình chữ nhật ở trên đầu, là chữ tượng hình của tên bà.
  • Hathor (con gái của thần mặt trời Ra), nữ thần mẹ, và thần của tình dục, tình yêu, sắc đẹp, sinh sản, và cái chết. Hathor liên hệ mật thiết với cuộc sống bên kia và sự cúng thực phẩm để nuôi dưỡng người quá cố. Bà được thể hiện là một phụ nữ với đầu bò, một người có tai bò và sừng bò, hoặc đơn giản là một con bò.

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Các thần Osiris, Horus và Seth các nữ thần Isis và Nephthys

Tất cả các vị thần này liên hệ nhau trong những thần thoại, đặc biệt thần thoại của Isis và Osiris và sự tranh chấp giữa Horus và Seth. Những thần thoại này giải thích không chỉ vai trò của nhà vua mà còn các luật cha truyền con nối của hoàng gia.

Giữ gìn sự thật, công lý, và truyền thống Ai Cập: Matt

Thay vì xuất hiện trong thần thoại của riêng mình, nữ thần Matt được tin là hiện diện tuyệt đối trong mọi sinh hoạt của người cổ Ai Cập. Bà là biểu tượng cho quan niệm về cân bằng vũ trụ, công lý, và sự thật. Mặc dù không được thờ phụng như thế, bà là một phần chủ yếu trong cuộc sống của người giàu cũng như nghèo.

Maat thường được mô tả dưới dạng người có lông chim đà điểu ở trên đầu hoặc chỉ là một chiếc lông đà điểu, chữ tượng hình cho sự thật. Đối với người Ai Cập cổ, quan niệm về Maat hiện diện trong mọi việc __ đặc biệt trong tòa án, được giám sát bởi các quan tòa được gọi là thầy tu của Maat. Người ta thường đọc kinh cầu thần Maat trước khi tòa họp xử và một biểu tượng của Maatt chắc chắn có mặt trong phòng xử. Các quan tòa chắc chắn phải tham vấn thần Maat khi gặp những vụ án khó khăn.

Vai trò nổi bật nhất và quan trọng nhất của Maat là trong Phòng Phán Xét, tại đó các linh hồn người quá cố (những người dân thường) được phán xét dựa vào sự lương thiện và công đức của họ. Trái tim người chết được cân với thần Maat (biểu thị là một chiếc lông đà điểu) trên một bàn cân vũ trụ khổng lồ. Nếu trái tim nặng hơn chiếc lông, Ammit (một ác thú khát máu) sẽ ăn tươi trái tim và người chết không được tái sinh và không được cuộc sống vĩnh hằng (hình dưới).

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Nghi lễ cân trái tim được thi hành trước mặt Osiris, và là người phán quyết cuối cùng ai được tái sinh ai không. Thoth, thần đầu cò quắm, thần của giới thư lại, ghi chép kết quả của việc cân tim. May thay, trong nhiều hình vẽ nghi lễ này, không ai là không thành công.

Thờ cúng ở nhà

Nghi lễ cân trái tim được sử dụng chủ yếu bởi những cá nhân không thuộc hoàng gia. Thật ra, những người Ai Cập bình thường thờ cúng một số thần thuộc quốc giáo tại nhà theo đúng những nghi thức như trong đền thờ __ cúng cơm mỗi ngày, tắm rửa, và xức dầu các tượng trên bàn thờ.

Những phần sau nói về một số các thần phổ biến hơn và những nghi thức liên hệ đối với người Ai Cập bình thường.

Bò thiêng: Hathor

Hathor được thờ cúng tại nhà như một nữ thần tình yêu, hôn nhân, và thai sản. Bà giữ những tước hiệu kỳ lạ như ‘âm hộ phu nhân’ và ‘túy phu nhân’.

Bà đảm nhận trông coi việc sinh sản, ngừa thai, và tình dục. Tại những bàn thờ gần các đền thờ nhà nước, dân chúng cúng Hathor nhiều lễ vật như vòng cổ, chuỗi hạt, và những tượng dương vật bằng gỗ, đất sét hay đá, để cầu có mang hoặc cảm tạ đã gíup sinh sản an lành.

Hathor cũng được tôn thờ như

  • Nữ thần núi tây. Trong vai trò nầy, được biểu thị trong nhà mồ là một con bò nhô ra từ đầm lầy, Hathor che chở cho những nghĩa trang trên bờ tây sông Nile.
  • Phu nhân của loài sung dâu. Trong vai trò an táng này, Hathor cung cấp thức ăn cho người quá cố ở thế giới bên kia dưới hình thức cây sung dâu. Bà được biểu thị là một phụ nữ nhô ra từ một thân cây hoặc như một người phụ nữ có cây trên đầu.

Thợ thủ công: Ptah

Tại làng Deir el Medina, nơi ở của các thợ thủ công xây dựng Thung lũng các Nhà Vua, thần sáng tạo Ptah được thờ phụng như một vị thần bảo hộ của thợ thủ công (hình dưới).

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Các công nhân cúng tế thần khi bị thương tích lúc làm việc __ thông thường nhất là bị mù mắt do điều kiện làm việc lâu ngày dưới hầm tối chen chúc, đầy bụi bặm. Nhiều hình khắc cầu thần Ptah chữa khỏi tai nạn này, mà các công nhân tin rằng bị thần linh quở phạt, hơn là do môi trường đem lại.

Ptah được mô tả dưới dạng gói chặt như xác ướp, đầu đội mũ ôm sát như mũ các vận động viên bơi lội. Trong tay cầm ba cây trượng, tượng trưng cho sự ổn định, quyền lực, và cuộc sống vĩnh hằng, tất cả điều này ông đều ban bố cho người tôn thờ mình.

Đi kèm với những bức tường ngoài của một số đền thờ nhà nước, trong đó có đền Karnak, là một nhà nguyện tai nghe có một số bia dâng cúng thần Ptah, trang trí bằng một số tai nghe. Dân chúng thì thầm những lời cầu khẩn vào các tai này và lời khẩn cầu sẽ đi thẳng đến Ptah. Trong một số đền thờ, một lỗ được bí mật khoét đằng sau các bia cho phép một thầy tu ngồi đấy và trả lời các lời cầu khẩn. Các tín hữu Ochắc phải tin là tiếng nói vang vọng đến là tiếng nói của thần Ptah.

Người lùn hạnh phúc: Bes

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Một số thần chỉ là thần của gia chủ, hầu hết không hấp dẫn lắm, nhưng lại thân thiết với cuộc sống đám bình dân. Một trong những vị thần nhà được thờ phụng nhiều nhất là Bes, thần của tình yêu, hôn nhân, sinh sản, và hội hè. Ông là thần bảo hộ trẻ em và phụ nữ bằng múa men, ca hát uyên náo khiến lũ rắn rết, bò cạp, và tà ma hoảng sợ bỏ chạy.

Bes là một trong những vị thần duy nhất được mô tả chính diện hơn là nhìn nghiêng, khiến ông nổi bật trong đám đông. Ông có đầu và đuôi sư tử, kết hợp với thân thể của một người lùn chân vòng kiềng và bàn chân xòe ra ngoài. Tay thường uốn cong ở ngang khuỷu, chống nạnh, hoặc cầm một nhạc cụ hay một con dao. Một nhân cách khá kỳ cục.

Bes thường được van vái lúc sinh sản để cầu mẹ tròn con vuông. Hình tượng của Bes được đặt trên mặt bàn (đặc biệt trên đầu giường), vẽ trên gối tựa đầu, bình sứ, hộp trang điểm, và gương soi __ mọi đồ đạc lỉnh kỉnh liên hệ với tình dục và sự mắn đẻ.

Hà mã cục cằn: Taweret

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

Một vị thần khác liên quan đến sự mắn đẻ và thai sản là nữ thần hà mã mang bầu Taweret, được mô tả đứng thẳng trên chân sau với bộ ngực người xệ xuống, và cái bụng bầu và tóc bờm làm bằng đuôi cá sấu. Thật là ngoạn mục!

Taweret là thần bảo hộ hung hăng của phụ nữ lúc sinh con và được vẽ lên các đồ đạc như thần Bes. Bà cũng có vai trò ở thế giới bên kia và được mô tả trong Quyển Sách của Thần Chết (Tử Thư).

Vị thần trầm lặng: Meretseger

Một số các thần được thờ phụng trong những vùng đặc biệt, trong số đó có thần Meretsege, được thờ cúng chủ yếu ở Deir el Medina. Bà được biểu thị là một rắn hổ mang hoặc là một phụ nữ có rắn hổ mang trên đầu, đang phùng mang chực mổ. Bà bảo hộ cho dân làng khỏi bị rắn độc, bò cạp, và nhện cắn.

Thung lũng các Vì Vua, nơi dân cư Deir el Medina làm việc, nằm trong một vùng tối của một ngọn đồi hình kim tự tháp thiên nhiên có tên là Meretseger, có nghĩa là ‘nàng yêu thích sự trầm lặng’. Nữ thần được tin thờ sẽ bảo hộ cho dân làng theo cách mà ngọn núi chế ngự và bảo hộ phong cảnh.

Thờ Cúng các Thần Linh

Việc thờ cúng của một trong số hàng trăm vị thần cổ Ai Cập __ không tùy thuộc vùng miền hoặc chứa năng __ đều như nhau trong khắp các đền thờ Ai Cập. Sự thờ cúng ở nhà cũng tương tự, có điều việc hành lễ là do gia chủ chứ không do các thầy tu. Các tượng thần được đặt trên bệ thờ ở cuối đền, và thầy tu bước vào đây mỗi ngày hai lần (lúc sáng sớm và khi chiều đến) để thi hành các nghi thức:

  • Lễ sáng, các thầy tu mang tượng từ bệ thờ xuống và tắm tượng, rồi xức dầu thơm và thuốc mỡ, sau đó mặc tượng trong một khăn choàng vải lanh mới. cuối cùng thần được dâng cúng các thức ăn và uống đặt bên dưới chân thần. Sau khi thần đã ngự dùng phần lễ cúng tâm linh biểu hiện qua lễ vật, thức ăn sau đó được chia cho các thầy tu trong đền.
  • Lễ chiều, các nghi thức sáng được lặp lại và tượng được đặt lên giường ngủ.

Trong khi hành lễ, các thầy tu đọc kinh và niệm chú, các bài kinh và chú thay đổi theo các vị thần và vai trò của họ.

Trân trọng địa lý thiêng liêng

Mặc dù các lễ nghi mà các thầy tu tiến hành đều giống nhau, mỗi trung tâm giáo phái có những lối hành lễ riêng biệt, bao gồm thực phẩm bị cấm kỵ, các thú thiêng, các biểu tượng thiêng, và những kinh cầu nguyện.

Hầu hết các thần quốc giáo có những địa điểm đặc biệt được coi là trung tâm của giáo phái. Những địa điểm này được đặc biệt tôn kính:

  • Trung tâm giáo phái chính của Ra ở tại Heliopolis. Những khai quật cho thấy đển thờ này lớn hơn đển ở Karnak, nhưng buồn thay đền này hiện thời không được mở cửa cho công chúng.
  • Trung tâm giáo phái chính của Amun là ở Karnak, mặc dù thần được thờ trên khắp Ai Cập. Đây là phức hợp nhà thờ lớn nhất trên thế giới và bạn phải đến thăm khi tới Luxor.
  • Trung tâm giáo phái chính của Osiris là ở Abydos, bạn còn có thể đến viếng.
  • Trung tâm giáo phái chính của Isis ở Philae, một điểm dừng chân quen thuộc của du khách.
  • Horus có ba trung tâm giáo phái chính; cái đầu tiên còn đứng vững và nên đến thăm:
    • Edfu, nơi ông được thờ cúng dưới hình tượng của một đĩa tròn có cánh.
    • Kom Ombo, nơi ông được thờ cúng như con trai của Re.
    • Heliopolis, nơi ông được thờ cúng như Re-Harakhti.
  • Trung tâm giáo phái chính của Hathor là ở Denderah, và bạn còn có thể đến thăm.
  • Các trung tâm giáo phái của Setn được đặt ở vùng Châu thổ tại Avaris và Qantir. Những địa điểm này không mở cửa cho công chúng.

Tham dự lễ hội

Lễ hội là phần quan trọng trong việc thờ phụng quốc giáo cũng như dân giáo. Các ghi chép lịch sử cho thấy nhiều lễ hội được tổ chức hàng tháng, trong đó lễ hội quan trọng nhất là

  • Lễ hội Thung Lũng ở Thebes. Các gia đình thăm viếng các họ hàng đã qua đời của họ trong các nhà mồ để ăn lễ với họ. Bức tượng thần Amun được mang theo đám rước dài từ Karnak đến mọi đền thờ an táng trên bờ tây sông Nile.
  • Lễ hội Sokar-Osiris. Lễ hội này được tổ chức ban đêm như một lễ hội tang. Người ta choàng củ hành quanh cổ và mang lễ vật cúng thần và người quá cố.
  • Lễ hội Opet ở Thebes. Một bức tượng thần Amun được mang theo đám rước dọc đại lộ nhân sư từ đền thờ Karnak đến đền Luxor. Bức tượng an vị trong đền Luxor một số ngày trước khi trở về lại đền Karnak.
  • Lễ hội Uống Rượu ở Deir el Medina. Lễ hội này vinh danh Hathor và, như đúng tên gọi, kéo dài năm ngày uống rượu.

Những lễ hội này và nhiều lễ hội khác là dịp để mọi người được nghỉ làm việc để tham dự hay ngắm nhìn các đám rước diễu qua các đường phố __ cũng như thưởng thức thức ăn và từng suối bia tuôn chảy.

Bảo hộ người sống

Mọi người Ai Cập , hoàng gia hay dân dã, đều tin vào quyền lực của bùa chú để bảo hộ và làm tăng sức mạnh cho người đeo chúng, còn sống hay đã chết.

Lá bùa là một hình tạo bằng bất kỳ vật liệu gì được đính vào vòng cổ, vòng tay hoặc nhẩn. Hàng trăm loại bùa khác nhau đã từng tồn tại. Nhiều hình ảnh liên quan đến thần linh; mỗi lá bùa được một vị thần hay nữ thần đặc biệt nào đó bảo hộ. Bùa được mang trên vòng cổ và vòng tay, một mình hay đi kèm với các bùa khác, giống như các đồ trang sức ngày nay.

Những bùa khác biểu thị những khía cạnh của thần thoại cũng như những dấu hiệu tượng hình, bao gồm:

  • Chìa khóa chữ thập: Dấu hiệu của đời sống bất tử.
  • Bọ hung: Con vật này liên kết với thần mặt trời cho ta niềm hy vọng về cuộc sống mới và sự tái sinh.
  • Mắt của Horus: Mắt phải liên hệ với mặt trời, mắt trái liên hệ với mặt trăng. Đối với người sống, Mắt của Horus bảo hộ chống lại mọi lực lượng ma quỹ xấu xa. Cả hai mắt thường được tìm thấy trên xác ướp vì chúng có quyền năng phục sinh.

Sekhmet - Nữ thần chiến tranh, bệnh dịch, và hủy diệt

  • Nhím: Được mang để cầu mắn đẻ và tái sinh __ do con vật này tỉnh dậy sau giấc ngủ đông.
  • Một chân: Cái chân là một phần trong chữ viết tượng hình có nghĩa là ‘sức khỏe’ và sẽ đem lại sức khỏe cho người mang nó.
  • Hai ngón tay: Điển hình là ngón trỏ và ngón giữa. Chỉ tìm thấy trên xác ướp. Biểu thị các ngón tay của người ướp xác, bảo đảm tiến trình ướp xác đã hoàn tât cũng như đem đến sự bảo hộ hoàn toàn cho những bộ phận dễ tổn thương của thi thể.
  • Ruồi: Mang lại sự mắn đẻ và bảo hộ khỏi côn trùng cắn phá. Con ruồi vàng là một huy hiệu vinh dự do vua ban.
  • Cóc: Phần nhiều phụ nữ mang để hấp thu sự mắn đẻ của cóc.
  • Thước thợ và dây dọi. Những biểu tượng này đem đến cho người đeo chúng sự chính trực và kiên định lâu bền.

Bùa do người sống đeo cũng là một phương tiện để khoe mẽ __vật liệu làm bùa càng quý, người đeo nó càng giàu. Hầu hết làm bằng thủy tinh, một số làm bằng đá quý.

Sử dụng tà thuật

Người Ai Cập có vẻ như một dân tộc ưa chuộng hòa bình, nhưng thật ra một số tôn giáo sử dụng tà thuật để trả thù.

Đặc biệt, họ tin vào mãnh lực của đất sét hay sáp ong sẽ mang chết chóc cho kẻ thù của họ __ hơi giống tà thuật yếm.

Những hình mà người cổ Ai Cập sử dụng có hai loại:

  • Hình nhân căm ghét được sử dụng để hủy diệt kẻ thù chính trị của Ai Cập và do đó chỉ được nhà vua sử dụng. Mỗi hình người biểu thị một tù nhân bị trói. Trên ngực của tù nhân là danh sách những kẻ thù truyền kiếp của Ai Cập (Nubian, Á châu, Lybia, Syria). Những hình nhân này bị đập nát rồi chôn xuống đất, biểu hiện sự hủy diệt của kẻ thù.
  • Hình nhân bị nguyền rủa được sử dụng để làm liệt một người mình không ưa. Một số hành động gớm ghiếc điển hình được tiến hành đối với hình nhân __ đốt hoặc đâm đinh. Để việc yếm có hiệu quả hơn, một lọn tóc hoặc một móng tay của kẻ bị nguyền rủa được đính vào hình nhân. Hình yếm được làm bằng các vật liệu đơn giản như đất sét hoặc sáp.

Mặc dù những hình nhân này chủ yếu được sử dụng để xâm hại và hủy diệt kẻ thù, một số người còn sáng tạo và sử dụng chúng vì những lý do đáng ngờ. Một hình nhân ở Bảo tàng Louvre ở Paris (có niên đại 200-300 AD) mô tả một phụ nữ bị trói chặt hai tay sau lưng và những gậy sắt chọc vào mắt và vùng kín. Hình nhân được chôn cùng với một bản chì có khắc một bùa yêu chỉ ra rằng hình nhân này được tạo ra từ tình yêu. Tuy nhiên, theo bản khắc chì, nếu người phụ nữ bằng xương bằng thịt không bị bùa yêu của người đàn ông tạo ra hình nhân làm cho mê hoặc, cô ta sẽ bị hủy diệt. Hy vọng là cô nàng rồi sẽ phải lòng anh chàng đáng gờm này.

Cầu khẩn lời sấm truyền

Ngoài việc khẩn cầu nữ thần Maat, người Ai Cập còn tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề pháp lý và tranh chấp dưới hình thức sấm truyền. Nghèo cũng như giàu đều sử dụng sấm truyền để giải quyết những bất đồng, kể cả những bất đồng cá nhân.

Người ta hoặc cầu khẩn sấm truyền trong đền thờ hoặc khi tượng thần được rước ngang qua đường phố. Người ta có hai cách cầu khấn sự giúp đỡ của thần linh. Họ có thể:

  • Đặt một thông điệp viết tay tại điện thờ trước bức tượng thần. Tờ sớ này sẽ được trao đến tay thầy tu để ông ta đặt nó trước mặt thần linh. Thần sẽ hồi đáp lời yêu cầu bằng cách sử dụng những bảng có/không (một số bảng đã được tìm thấy). Câu trả lời này sau đó sẽ được các thầy tu giải thích.
  • Khẩn cầu tượng thần thông qua các thầy tu đang vác con thuyền thiêng (con thuyền có chứa tượng thần) trong đám rước. Dân chúng hô vang câu hỏi của mình, và tương thần sẽ trả lời bằng cách thay đổi áp lực trên vai của các thầy tu đang vác thuyền thiêng. Cách thức mà các thầy tu quỳ gối hoặc cúi thấp xuống có ý nghĩa khác nhau đối với dân chúng.

Tinh thần của nghi thức sấm truyền là nếu bạn không thích câu trả lời của một vị thần nào đó, bạn có thể đi hỏi một vị thần khác. Không có giới hạn về số lần phán quyết của chư thần.

Mơ thấy thần linh

Mặc dù người Ai Cập cầu khẩn trực tiếp với thần linh qua sấm truyền, các vị thần cũng xuất hiện trước dân chúng trong giấc mộng, và sau đó các thầy tu sẽ giải mộng ấy. Các thầy tu này sẽ chỉ bảo các cá nhân điều gì họ cần làm để lời cầu khẩn của họ được hồi đáp. Việc đoán mộng thường kèm theo những lễ vật phải dâng cúng cho đền thờ và đây là một dịch vụ hái ra tiền của các thầy tu.

Thờ Cúng Tổ Tiên

Một trong những hình thức nổi bật nhất của tín ngưỡng trong làng quê là thờ cúng tổ tiên, trong đó dân làng tôn kính người quá cố của gia đình, cách hai hay ba thế hệ. Những người Ai Cập còn sống khấn nguyện tổ tiên phù hộ trong những sinh hoạt thường ngày.

Người Ai Cập tin rằng sau khi cá nhân tái sinh vào thế giới bên kia, y sẽ trở thành một akh ikr en re có nghĩa là ‘một linh hồn ưu tú của Re’ (xem Chương 10). Những cá nhân này được cho rằng có quyền năng trên cuộc sống của người còn sống cũng như có ảnh hưởng đến các thần của thế giới bên kia. Bằng cách giữ cho tổ tiên sung sướng __ qua việc dâng cúng thức ăn đồ uống mỗi ngày __ người Ai Cập tin rằng họ sẽ được các tổ tiên quá cố phù hộ.

Người Ai Cập trân trọng tổ tiên mình và luôn nhớ đến họ trong cuộc sống thường nhật, thậm chí làm những cửa giả trong phòng sinh hoạt để hương linh tổ tiên của mình có thể bước vào nhà và ăn uống hay vui chơi với gia quyến. Điều không hề xảy ra với gia chủ ngày nay.

Tổ tiên bỏ túi

Các tổ tiên được tôn quý cũng tham dự các lễ hội tôn giáo và đám rước qua cách sử dụng các tượng bán thân của tổ tiên. Những tượng này nhỏ (tối đa 30 cm) bằng đá hay gỗ dễ mang đi biểu thị hình ảnh của tổ tiên. Tượng bán thân gồm đầu và vai và đôi khi đội tóc giả. Tượng hiếm khi có khắc chữ, nhưng các sử gia tin rằng chúng biểu thị cho những thành viên nam của gia đình.

Người Ai Cập đặt những tượng bán thân này trên bàn thờ tại nhà để mong được tổ tiên phù hộ. Những tấm bia nhỏ (tối đa 25 cm) được đặt bên những tượng bán thân trên bàn thờ. Những bia này được khắc hình ảnh của tổ tiên cũng như hình ảnh người hiến tặng bia. Nhiều bia có chạm lời khấn nguyện ngắn van vái tổ tiên phù trợ.

Trong dịp Lễ hội Thung lũng hàng năm, tượng Amun được mang từ Karnak trong đám rước đến nghĩa trang trên bờ tây sông Nile. Nhiều cư dân Deir el Medina tham gia đám rước với các tượng bán thân của tổ tiên họ. Đám rước này kết thúc tại nhà mồ của người quá cố, tại đó một bữa tiệc tưởng nhớ được tổ chức trong đó người quá cố được tin là có tham dự.

Phong thần các người phàm

Các thần linh tại gia, liên quan đến sự mắn đẻ, sinh sản, và các vết cắn độc địa của loài bò sát, sâu bọ, và nhện độc, vẫn không đủ đối với thường dân. Họ còn thờ cúng những người phàm, đã được nâng lên làm thần linh. Việc này không giống như thờ cúng tổ tiên, vì những người được phong thần thường là những người được tôn kính và nổi tiếng trong nước. Họ được tôn thờ phổ biến hơn tổ tiên, vốn chỉ thờ cúng tại gia.

Một số người được phong thần được dân thường thờ cúng, một số khác do vua chúa. Các thần được phong này cũng được khẩn cầu vì nhiều lý do, bao gồm sự cầu mong mùa màng bội thu và răn dạy đạo lý.

Một số thần được phong nổi bật nhất được số đông thờ cúng ở những vùng khác nhau bao gồm

  • Imhotep, kiến trúc sư xây dựng kim tự tháp bậc thang ở Saqqara (xem Chương 13), được phong là thần y khoa, cho dù trong đời ông chưa hề làm thầy thuốc.
  • Senworset III được thờ cúng tại thị trấn Kahun (xem Chương 2 để biết thêm chi tiết), vì ông đã có công xây dựng thành phố cho những công nhân xây kim tự tháp ở el-Lahun.
  • Amenhotep I được người dân ở Deir el Medina tôn thờ như người thành lập làng thủ công.
  • Amenhotep, con của Hapu, là tể tướng trong thời vua Amenhotep III trị vì và được tôn thờ như một nhà hiền triết. Ông là thần bảo hộ của thầy thuốc và được tin là hổ trợ việc thụ thai.
  • Horemheb được vua Ramses II tôn thờ. Ông cho dựng một điện thờ trong nhà mồ của Horemheb ở Saqqara. Việc tôn thờ này là để tri ân Horemheb đã chọn ông nội mình lên làm vua kế vi.

Dân chúng dâng lễ vật cho các tượng thần được phong, cũng như đọc kinh và chú cho họ.

Đọc thêm: Thư gửi người đã khuất

Các bát cổ trong nhiều nhà mồ ở Ai Cập có viết những bức thư ở mặt trong bát. Những thư này gởi đến người chết do các thành viên còn sống viết và cầu xin được phù hộ.

Gia đình viết các bức thư trên một cái bát, sau đó chất đầy bánh ngọt vào bát, vì thế khi người quá cố ăn bánh và đọc thư, họ phải thực hiện những gì được khẩn cầu vì họ đã ăn bánh hối lộ rồi. Quá ranh, phải không?

Một lá thư thuộc loại này, viết trên giấy cói, đặc biệt thú vị:

Gởi hương hồn Ankhiry. Anh đã làm gì sai quấy với em mà bây giờ phải chịu tình trạng khốn khổ này? Anh đã làm gì với em? Những gì em làm chỉ là gây đau khổ cho anh, mặc dù anh không làm gì sai quấy. Anh đã làm gì với em từ khi anh sống với em như một người chồng, cho đến ngày đó [ngày em mất] mà anh phải dấu? Giờ thì còn lại gì? Giờ thì em phải chịu khi anh phải kiện cáo em. Anh đã làm gì với em? Anh sẽ kiện cáo em với tòa Ennead Tây [tòa phán xét ở thế giới bên kia], và thần linh sẽ xét xử việc giữa anh và em dựa vào bức thư này. . .

Anh đã làm gì với em? Anh đã lấy em làm vợ khi còn là thanh niên. Anh đem em theo đến mọi nơi anh đến làm việc. Anh ở bên em, không đuổi em đi . . . Lúc nào anh cũng nghĩ sẽ sống bên em . . . Còn em thì chưa hề biết đến an ủi anh. Anh sẽ được cứu xét với em, và người ta sẽ phân biệt sự thật với lời dối trá.

Em có nhớ, khi anh huấn luyện các sĩ quan trong quân đội Pha-ra-ông về kỹ thuật lái chiến mã xa, anh bắt chúng nằm xấp trước mặt em. Anh không bao giờ giấu giếm với em việc gì. Anh không hề để em đau khổ, luôn đối xử với em như một người lịch sự. Em không hề thấy anh thô lỗ, như đối xử với một người nhà quê bước xồng xộc vào nhà. Anh không hề xử sự để có ai khiển trách được . . .

Anh gởi em lá thư này cho em biết những việc em làm. Khi em bắt đầu bị bệnh tật hành hạ, anh cho mời thầy thuốc bậc thầy đến khám và chu toàn mọi việc em yêu cầu ông ta làm. Khi anh theo Pha-ra-ông thân chinh, hành quân về phương nam giữa lúc em lâm trọng bệnh, anh quên cả việc ăn uống bình thường hơn tám tháng trời. Và ngay khi đến Memphis, anh xin với Pha-ra-ông nghỉ phép để chạy đến bên em, và anh đã khóc tức tưởi cùng với người thân, trước mắt các người hàng xóm. Anh sắm vải lanh loại tốt để quấn xác em, anh may nhiều bộ quần áo cho em mang theo, và không bỏ sót điều gì cần làm. Và em biết đấy, anh trải qua ba năm cho đến giờ vẫn sống một mình, không bước vào nhà ai khác mặc dù biết thế là không lịch sự. Anh làm việc này vì em dù em không phân biệt được tốt và xấu. Người ta sẽ xét xử chuyện anh và em. Và còn nữa: các em gái trong nhà, anh chưa hề gian díu với ai cả.

Câu cuối cùng hình như hơi lạc lõng giữa mạch văn, có vẽ như một ý đột xuất __ nhưng đúng ra đây là cốt lõi của lá thư. Tác giả vừa phiền não vừa thấy có tội, mà ông tin là do bà vợ gây ra, trong khi chắc chắn là do những hành động của y đối với các phụ nữ khác trong nhà! Y hiển nhiên cảm thấy là người vợ đầu tiên của mình không tán thành y và đang trừng phạt y.

Chương 10

Khảo Sát Tín Ngưỡng Chôn Cất và Ướp Xác

Trong Chương Này

  • Tìm hiểu cuộc sống và cuộc sống bên kia, phong cách Ai Cập
  • Lột trần tiến trình ướp xác
  • Hổ trợ người quá cố đến kiếp sau
  • Phục sinh người chết

Hầu hết thông tin về cổ Ai Cập đến từ các văn bản an táng, cho ta cảm tưởng là người Ai Cập bị cái chết ám ảnh và bỏ hầu hết thời gian và tài sản để chuẩn bị cho việc kết thúc cuộc sống trần thế.

Thật ra người cổ Ai Cập bị cuộc sống ám ảnh và muốn tiếp tục được sống vĩnh hằng. Mặc dù mỗi cá nhân chắc chắn có niềm tin riêng của mình, chứng cứ nói chung cho thấy người cổ Ai Cập tin rằng nếu được chuẩn bị chu đáo cuộc sống của họ ở kiếp sau sẽ hạnh phúc hơn cuộc sống hiện giờ. Đúng ra, họ tin tưởng rằng kiếp sau là một bản sao hoàn hảo của Ai Cập , được biết với tên Cánh Đồng Lau Sậy.

Cánh Đồng Lau Sậy dựa vào chu kỳ mặt trời, và một số người tin rằng người chết nằm trong bóng tối nguyên thủy cho đến khi vầng thái dương bắt đầu hành trình ban đêm của nó trong thế giới bên kia. Mặc dù phong cảnh ở đây thừa thải nước nôi và rau củ, đồ đạc và thực phẩm dâng cúng trong tang lễ cùng nhà mồ đường bệ sẽ bảo đảm cho người quá cố được sung sướng sau khi chết.

Chương này sẽ đào sâu vào một trong những lãnh vực gây tranh cãi nhiều nhất (và thường bị hiểu lầm) của cuộc sống cổ Ai Cập _ sự chuẩn bị và chôn cất người chết qua tiến trình tâm linh và vật chất của việc ướp xác.

Tìm Hiểu Tính Tinh Túy Nhân Bản Ai Cập

Người Ai Cập tin rằng con người tạo bởi sáu yếu tố hoặc thành phần. Sau khi chết, những yếu tố này lập tức tách rời. Để được tái sinh thành công, tất cả sáu yếu tố đó phải được hợp nhất qua lễ nghi tống táng, qua cầu nguyện và phẩm vật cúng tế thường được các thầy tu và các thành viên gia đình còn sống tiến hành. Sáu yếu tố đó là

  • Ka, hay sức sống, sẽ làm kích hoạt người chết __ cũng hơi giống như pin sẽ kích hoạt một món đồ chơi.
  • Ba, được mô tả như một con chim đầu người. Ba biểu thị cá tính của người quá cố.
  • Akh, là tên của linh hồn tạo bởi sự phối hợp giữa ba và ka.
  • Tên người quá cố, được xem như là được người sống lặp lại để có thể vào cõi vĩnh hằng.
  • Bóng đen, là một lãnh vực ít được biết đến của cá nhân. Nó buộc chặc với giáo phái mặt trời, vì không có mặt trời, không có bóng đen nào tồn tại.
  • Thể xác, được xem như phối hợp của tất cả các yếu tố tâm linh này. Thể xác được giữ gìn bằng quá trình ướp xác.

Đọc thêm: Nghi thức Mở Miệng

Ba và Ka được hợp nhất ở kiếp sau qua nghi thức Mở Miệng. Nghi lễ sau khi ướp xác này bảo đảm cho cái ka có thể nhìn, nghe, ngửi, thở, và ăn __ tất cả hoạt động thiết yếu của con người. Vì lý do chưa biết, cái ba hình như không cần những chức năng trần tục này; khi ba được hợp nhất với ka trong một thời gian dài, nó sẽ được nuôi dưỡng.

Thầy tu sem (chuyên thực hiện việc ăn táng) cầm một cây gậy phép đặt lên miệng xác ướp để mở đường thở. Sau đó thầy sem sẽ đọc kinh và xức dầu cho xác ướp. người cổ Ai Cập xem nghi thức này quan trọng đến nổi họ thỉnh thoảng vẽ những bình và lọ được sử dụng trong nghi thức trên áo quan trong trường hợp nghi thức đã không được hoàn tất một cách đúng đắn và như một phương tiện nhằm bảo đảm rằng những công cụ dùng cho nghi thức quan trọng này nằm sát bên thi thể, nhờ đó làm tăng hiệu quả của nghi lễ.

Sự hợp nhất thành công của ka và ba tạo ra một yếu tố khác của thân thể là akh hay linh hồn. người quá cố được biến thành một con người vĩnh hằng của ánh sáng. Mặc dù cái akh không thần thánh, nó có những đặc tính chung với thần linh __ cái akh có thể can thiệp vào cuộc sống và trò chuyện với các vị thần.

Nguyền rủa các nhà Ai Cập học

Các xác ướp đã khơi dậy óc tưởng tượng trong hàng thế kỷ, gây ra nổi khiếp hải cũng như kính sợ. Qua nhiều thế hệ, các nhà làm phim Hollywood đã tung ra nhiều bộ phim đầy tưởng tượng về những xác ướp sống lại và rượt đuổi các nhà khảo cổ táo tợn quanh các lăng mộ. Các xác ướp trong những bộ phim rùng rợn này đều xấu ác, do một lời nguyền đặt trên áo quan hay do bản chất các xác ướp là thế.

Câu chuyện về lời nguyền nổi tiếng nhất bắt đầu trong cuộc khai quật lăng mộ vua Tutankhamun vào năm 1922 của Howard Carter và nhóm của ông. Dân bản xứ làm việc với nhóm khảo cổ rất mê tín và tin là nếu đột nhập lăng mộ sẽ kích hoạt một lời nguyền cổ xưa. Để ngăn cản dân bản xứ đi vào lăng mộ lúc ban đêm và làm hư hỏng hiện trường khai quật, nhóm khảo cổ bèn rao tin công nhận là có lời nguyền, và câu chuyện đến tai một nhà báo Anh.

Từ đó trở đi, bất cứ một thành viên khai quật nào chết đều bị đổ lỗi cho lời nguyền, cho dù chết sau đó 20 năm vì những nguyên nhân tự nhiên __ đúng là một lời nguyền quá yếu ớt.

Một biến cố duy nhất hơi kỳ lạ là việc cúp điện ngay lúc Ngài Carnarvon chết vì bị nhiễm trùng sau một vết cắn của sâu bọ. (Xem Chương 15 để biết thêm về đóng góp của Ngài Carnarvon trong cuộc khai quật Tutankamun.) Dĩ nhiên việc cúp điện ở Cairo xảy ra như cơm bữa mà không có lời giải thích hợp lý nào. Nếu bạn chịu khó quan sát, bạn có thể tìm thấy ý nghĩa trong bất cứ chuyện gì.

Trong số hàng ngàn ngôi mộ được khai quật ở Ai Cập, chỉ có hai lời nguyền như thế được viết ra để đe doạ bọn đào trộm mộ (đầu tiên là ở lăng mộ Ursa, thời đầu Tân Vương quốc, thứ hai ở lăng mộ của Harkkhuf vào triều đại thứ sáu ở Aswan):

Kẻ nào xâm phạm tài sản của ta, làm hư hỏng phần mộ của ta hoặc lấy xác ướp của ta, thần mặt trời sẽ trừng phạt y. Y sẽ không để lại tài sản của mình cho con cái; trái tim của y sẽ không có được niềm vui trong cuộc sống; y sẽ không nhận được nước (vì phần ka của y cần uống) khi nằm trong mộ; và linh hồn của y sẽ bị hủy hoại mãi mãi.

Đối với bất cứ ai bước vào phần mộ mà thân thể không sạch sẽ, ta sẽ tóm lấy cổ y như tóm cổ một con chim, và y sẽ bị thần linh phán xét vì chuyện đó.

Đừng lo lắng, các nhà Ai Cập học không gặp tai họa vì những lời nguyền này. Họ không bước vào lăng mộ để đập phá, mà để tái thiết, bảo quản, và tìm hiểu gia chủ, tiểu sử cũng như văn hóa của họ.

Đối với người cổ Ai Cập, sự lặp lại cái tên sẽ bảo đảm một cuộc sống lâu dài trong thế giới bên kia. Qua khảo sát các phần mộ và xuất bản các kết quả tìm kiếm, các nhà Ai Cập học làm sống lại người chủ của lăng mộ __ đó là điều mà họ ao ước suốt hàng ngàn năm nay. Dĩ nhiên, cuộc tranh luận liệu việc đặt xác ướp trong các bảo tàng (bảo quản hay trưng bày) có thích đáng không vẫn còn tiếp tục.

Tôi tin chắc người cổ Ai Cập sẽ không mấy thiết tha với khung cảnh trưng bày hào nhoáng ngày nay. Tuy nhiên, nếu các nhà Ai Cập học hiện đại không khai quật lăng mộ, thì lịch sử, tên tuổi và cuộc đời của người cổ Ai Cập sẽ bị vùi lấp mãi mãi __ người Ai Cập cổ rất sợ bị lãng quên. Một bảo tàng có thể không phải là thứ phục sinh họ ao ước, nhưng cũng là một thứ phục sinh và một cuộc sống vĩnh hằng dù xoàng xĩnh.

Quấn Chặt Tất Cả Lại

Tiến trình ướp xác có thể thực hiện theo hai hình thức:

  • Tự nhiên: Thi thể được bảo quản trong cát, băng, hoặc than bùn.
  • Nhân tạo: Thi thể được con người bảo quản dùng những thủ thuật đa dạng.

Người cổ Ai Cập thường sử dụng cả hai hình thức trên.

Vào thời tiền triều (3500 BC), người Ai Cập chôn xác người chết trong những huyệt than bùn cạn được đào trong cát ngoài rìa sa mạc. Than bùn không được lót và thi thể không được quấn vải được đặt ở tư thế bào thai, trực tiếp vào cát. Những vật dụng cúng tế chủ yếu gồm những bình chứa đồ ăn và thức uống cần thiết cho kiếp sau, cho thấy ngay trong thời kỳ này người Ai Cập đã tin vào cuộc sống sau khi chết.

Khi các thú hoang và bão cát làm lộ ra thi thể, người Ai Cập nhận thấy rằng da và tóc đã được cát gìn giữ một cách tự nhiên. Người Ai Cập bắt đầu thử nghiệm việc bảo quản thi thể người chết, thay vì phó mặc cho may rủi. Qua năm tháng, tiến trình bảo quản thi thể một cách nhân tạo tiến hóa dần.

Thử nghiệm trên người chết

Những phương pháp ướp xác thử nghiệm khác nhau đã được tiến hành giữa 3500 BC và 2600 BC, bao gồm

  • Chôn cất trong bình. Những người trưởng thành đầy đủ được uốn cong và đặt vào trong các bình lớn bằng đất sét. Bình được đậy nắp và nêm phong, chôn sâu vào đất và cuối cùng lấp cát lại.
  • Các khay lau sậy. Thi thể được đặt trên một chiếc khay bằng lau sậy trong một tư thế co quắp và nằm nghiêng. Một tấm vải liệm hoặc da thú được phủ lên thi thể. Chiếc khay này sau đó được đặt vào một huyệt than bùn và lấp cát lại.
  • Da thú. Trước 3000 BC, người chết được quấn trong lớp da thú và được đặt vào huyệt than bùn và lấp cát lại.

Tất cả những phương pháp trên đều làm phân hủy các mô mềm, vì thi thể không tiếp xúc với những chất bảo quản chúng một cách tự nhiên __ cát. Chỉ còn sót lại phần xương trong những lần thử nghiệm này.

Cải tiến kỹ thuật ướp xác

Sau thất bại của những lần thử nghiệm ban đầu, người Ai Cập quyết định bảo quản các thi thể trước khi chôn cất.

Minh họa có sớm nhất về kỹ thuật ướp xác là đám tang hoàng gia của triều đại thứ nhất, thuộc về vua Djer. Nó được Petrie phát hiện vào cuối thế kỷ 19. Tất cả những gì còn sót lại là cánh tay được bọc gói kiểu ướp xác, đeo nhiều vòng nữ trang bằng đá quý. Rủi thay, các nhà khảo cổ quan tâm đến món nữ trang nhiều hơn là cánh tay, và viên quản lý nhà bảo tàng Cairo, Emile Brugsch, đã ném cánh tay đi. May thay, họ có chụp hình cánh tay được ướp lâu đời nhất này __ hay đúng ra, họ chụp vì món nữ trang quá đẹp.

Việc ướp xác chỉ dành cho thành phần ưu tú của xã hội, còn số đông người nghèo Ai Cập chỉ được chôn cất trong những huyệt than bùn, giống như vào thời tiền triều. Điều khác biệt duy nhất là các thi thể được ướp xác sau thời tiền triều đều nằm thẳng không bị bẻ cong.

Nhìn qua chuyên viên tống táng: Thầy ướp xác

Cho dù đến nay đã phát hiện nhiều xác ướp và lăng mộ, không văn bản nào ghi chép về kỹ thuật ướp xác của người cổ Ai Cập tồn tại. Văn bản hoàn toàn nhất sử dụng được là từ Herodotus, một sử gia Hy Lạp từ thế kỷ thứ năm BC.

Sau khi một người cổ Ai Cập chết, thi thể được mang đến nhà ướp xác, chắc chắn tọa lạc trong nghĩa trang địa phương. Vì không có chứng cứ những cơ sở này tồn tại, các sử gia không chắc có bao nhiêu cơ sở như thế hoạt động. Các nhà ướp xác chắc chắn chứa những áo quan làm sẵn và bùa chú, để các họ hàng thân thích có thể chọn lựa kiểu dáng phù hợp với ngân sách của họ.

Các người ướp xác thâm niên là những thầy tu và được trọng vọng. người ướp xác lớn tuổi nhất có nhiệm vụ bọc chặt thi thể mang một mặt nạ chó rừng, biểu thị cho thần Anubis, thần đầu chó rừng trông coi việc ướp xác.

Mặc dù các thợ ướp xác được trọng vọng, Herodotus ghi chép là các thi thể của các mệnh phụ giàu có thường được giữ lại một ít ngày trước khi chuyển đến nhà ướp xác, để tránh bị làm ô uế. Chẳng hạn, khi xác ướp của Nữ hoàng Ahmose-Nefertari triều đại 18 được mở ra, thi thể của bà cho thấy những dầu hiệu phân hủy những mô mềm trước khi xác được ướp. Mặc dù bà ở tuổi thất tuần khi qua đời, tư cách nữ hoàng của bà có thể làm bà được thèm muốn một cách bệnh hoạn. (Lẽ dĩ nhiên, nguồn tin và sự trung thực của thông tin do Herodotus cung cấp ta không được biết.)

Bước qua tiến trình ướp xác

Phương pháp ướp xác toàn diện và đắt giá nhất làm cho người quá cố trông giống như Osiris, vị thần của địa ngục. Người Ai Cập tin rằng vị vua quá cố __ và khoảng thời Trung Vương quốc , các nhà quý tộc quá cố __ sẽ trở nên giống Osiris khi chết.

Kỹ thuật ướp xác ít đắt đỏ hơn cũng xài được, nhưng những phác họa dưới đây mô tả tiến trình toàn diện của việc ướp xác.

Lấy đi bộ não

Trong thời Tân Vương quốc, thợ ướp xác thường lấy não ra trước tiên. Người cổ Ai Cập tin rằng tư tưởng và tình cảm đều xuất phát từ tim, cho nên bộ não không có gì quan trọng.

Thợ ướp xác đập gãy xương sàng ở chóp mũi và moi bộ não từng miếng một ra bằng cái móc chọc qua lỗ mũi. Tuy nhiên, thực nghiệm đã chứng tỏ rằng phương pháp này chỉ moi ra được từng miếng nhỏ của bộ não một cách không hiệu quả.

Để cải thiện bước này trong tiến trình, dầu cây bách xù và nhựa thông được đổ vào mũi lên óc và để vài phút cho các chất này làm tan phần còn sót lại của bộ não, sau đó được rút hết ra ngoài qua đường mũi. Những di chứng của chất não đông đặc và hòa tan được tìm thấy ở phía sau đầu lâu.

Hút mỡ kiểu Ai Cập

Sau khi lấy đi bộ não, thợ ướp xác cắt phần bên trái của bụng dưới rồi móc hết phần nội tạng ra, trừ trái tim. Thợ ướp xác, người đã cắt vết dao đầu tiên liền, theo nghi thức, bị đuổi ra khỏi nhà ướp xác, bị dân chúng ném gậy đá, và la ó vì đã làm ô uế thi thể.

Sau khi các cơ quan được lấy đi, ổ bụng được tẩy rửa hoàn toàn __ trước tiên bằng rượu cọ và sau đó với rất nhiều cây thuốc có tính kháng sinh được xay nhuyển để ngăn ngừa ổ bụng bốc mùi.

Sau khi làm khô ổ bụng, thợ ướp xác nhồi vào bụng một hổn hợp hương liệu; vải lanh hoặc mạt cưa được thêm vào cho bụng có dáng trở lại. Sau đó thi thể được vá lại và vết cắt được dấu đi bằng miếng che bằng da hay đồng có hình chiếc lá.

Bảo quản nột tạng

Nột tạng lấy ra từ ổ bụng được xử lý cẩn thận như chính thi thể. Chúng được phơi khô trong muối tự nhiên lấy từ Thung lũng Natron. Các cơ quan đã khô được quấn trong vải lanh và đặt vào trong bình. Bình này được đặt vào một tủ hình chữ nhật cũng làm bằng chất liệu như áo quan và quách.

Bình đựng nội tạng phơi khô có nắp in hình bốn đầu thú, tượng trưng cho Bốn Con Trai của Horus (thần đầu chim ưng). Bốn người con này mỗi người có vai trò riêng biệt trong thế giới bên kia, vì họ bảo vệ một phần của thân thể và sau đó cung cấp cho thân thể những cơ quan nội tạng thiết yếu khi người quá cố tái sinh. Bốn Con Trai của Horus là:

  • Imsety, đầu người, bảo vệ lá gan.
  • Hapy, đầu khỉ, bảo vệ lá phổi
  • Duamutef, đầu chó rừng, bảo vệ dạ dày.
  • Qebehsenuef, đầu chim cắt, bảo vệ bộ ruột.

Làm khô thân thể

Thân thể được nhồi ‘bông’ sau đó được đặt lên bàn ướp xác trong vòng 35-40 ngày với muối xếp chặt quanh thân thể, che phủ nó hoàn toàn. Các mẫu bàn ướp xác dài và thấp này đã được tìm thấy trong các hầm ướp xác.

Sau 35-40 ngày, thân thể được mang đi rửa sạch, và chuẩn bị được quấn bọc, mất thêm 30 ngày nữa, bảo đảm toàn bộ tiến trình toongt cộng không quá 70 ngày.

Thú vị thay, ngôi sao Sirius, đặt tên theo Osiris, biến mất trong 70 ngày mỗi lần. Osiris cũng biến mất trong 70 ngày trước khi sống lại. Một cách tượng trưng, người quá cố cũng hóa thành Osiris, biến mất trong 70 ngày trong khi xác được ướp và sau đó được tái sinh về thế giới bên kia.

Quấn bọc thân thể

Quấn bọc thân thể cũng quan trọng như việc bảo quản nó, và một thầy tu mang mặt nạ Anubis sẽ đảm trách công việc này.

Thầy tu cần một số lượng lớn vải len để bọc thân thể __ hơn 400 mét vuông vải len đã được phát hiện trên một số xác ướp, với hơn 40 lớp quấn.

Hoàng gia có vải liệm được đền thờ làm riêng. Một số vải quấn Ramses II được dêt từ chỉ vàng.

Xét về số lượng lớn vải lanh cần thiết cho việc quấn bọc, và những phí tổn khác, những thi thể không thuộc hoàng tộc không chắc được bọc trong những vật liệu được chế tạo đặc biệt cho việc chôn cất, hoặc ngay cả bằng vải lanh một gia đình khó chu cấp đủ. Vì họ đã tìm thấy nhiều tên khác nhau được viết trên vải liệm trong cùng một xác ướp, các nhà nghiên cứu nghĩ rằng bạn bè và gia quyến có thể đã hùn nhau cung cấp vải lanh cần thiết. Có lẽ nếu một người chết, toàn dân làng phải biếu tặng vải lanh cho tang gia.

Sự tiến hóa của việc quấn bọc

Các kiểu quấn bọc thi thể biến đổi qua năm tháng. Các niên đại của xác ướp có thể nhận ra dựa vào một vài đặc tính:

  • Vương quốc Cổ: Mỗi chi được quấn bọc riêng rẻ, kể cả ngón tay và ngón chân. Thân thể được bọc sau đó được quét một lớp nhựa thông. Thạch cao được phủ lên lớp vải quấn trên mặt và được sơn vẽ theo màu của người sống.
  • Trung Vương quốc: Các xác ướp được quấn bọc theo hình dạng truyền thống với tứ chi đều bó lại với nhau. Các cánh tay được xếp lên đùi hoặc vắt qua bộ phận sinh dục. Mặt nạ xác ướp thay thế lớp thạch cao sơn vẽ, và nhiều mặt nạ có đầy đủ râu ria, đôi khi được sơn xanh.
  • Tân Vương quốc: Trước khi quấn bọc xác ướp, còn làm thêm một số việc, như mắt được khảm mã nảo và thủy tinh để không bị sụp. (Tuy nhiên, mắt Ramses IV được đắp hai củ hành. Cánh tay của các xác ướp hoàng tộc bắt chéo lên ngực và bàn tay thường nắm chặt.
  • Thời Ptolemy: Các thợ ướp xác sử dụng những dải vải rất mỏng, sắp xếp theo những kiểu dạng hình học tinh tế và trang trí bằng núm tròn và ngôi sao.
  • Thời La Mã: Những chân dung được vẽ kỹ lưỡng của người quá cố khi sống được quấn giữa các lớp vải bọc.

Vật mang theo lớp vải quấn bọc

Từ thời Tân Vương quốc trở về sau, các văn bản từ Sách của người Chết (Tử Thư) thỉnh thoảng được viết lên lớp vải quấn để giúp người quá cố ở kiếp sau. Những đoạn văn này được đặt một cách thích đáng lên các phần thân thể tương ứng để bảo đảm việc bảo hộ.

Trong khi mỗi chi của xác ướp được quấn vải, các thầy tu niệm chú theo các kinh tống táng của thời ký ấy để làm các chi sống lại, bảo đảm người quá cố được tái sinh vào cõi vĩnh hằng. Chẳng hạn thời La Mã việc quấn bọc mất đến 30 ngày! Giữa các lớp vải quấn, thầy ướp xác đặt nhiều bùa chú giúp người quá cố ở kiếp sau.

Xét chi phí chôn cất

Tiến trình ướp xác rẽ tiền được sử dụng từ thời Trung Vương quốc trở đi, dựa vào chứng cứ trên các xác ướp còn sót lại ở thời kỳ này. Tuy nhiên, như được đề cập ở phần trước, ‘Nhìn Qua Chuyên Viên Tống Táng: Thầy Ướp Xác’, tiến trình chính xác chỉ được ghi chép trong các bài viết của Herodotus từ thế kỷ thứ năm.

Nói chung, những kỹ thuật rẽ tiền bỏ qua giai đoạn lấy nội tạng ra khỏi ổ bụng. Hổn hợp dầu bách xù và nhựa thông được bơm vào cơ thể qua hậu môn, rồi bịt kín lại không cho hổn hợp chảy ra. Sau một thời gian, nút chặn được rút ra cho hổn hợp thoát ra, kéo theo phần nội tạng đã tan rã với nó. Tuy nhiên, các cơ quan của một số xác ướp không tan rã đều, và đặc biệt những phần nội tạng chỉ tan rã từng phần làm nghẹt hậu môn.

Thân thể sau đó được bao phủ muối trong 40 ngày, rồi mang ra rửa sạch và chuẩn bị cho giai đoạn quấn bọc. Một phương pháp còn rẽ hơn là làm tan rã các cơ quan, làm khô cơ thể, và mang xác ướp trở lại cho tang gia mà không quấn bọc vải.

Đọc thêm: Một việc che đậy cổ xưa

Xác ướp của một thầy tu triều đại 22 từ đền thờ Khonsu ở Karnak, Nesperenub, là chủ đề của cuộc trưng bày 3D của Bảo Tàng British năm 2004. Xác ướp được đặt trong một quan tài làm bằng các lớp sợi bông hoặc cây cói phủ thạch cao. Trong nhiều năm, các tia X làm nổi lên một vật thể lạ đính phía sau ót của Nesperenub. Sự bất thường này gây nhiều bối rối. Bằng cách sử dụng phép chụp cắt lớp, các nhà nghiên cứu có thể nhìn bên trong cơ thể của Nesperenub theo một cách chưa từng có được trước đây. Hình quét CT nhận diện được một vật thể hơi giống một cái chén đất sét, có in dấu tay của người nặn. Hình như trong lúc thợ ướp xác đang dán lớp băng quấn đầu tiên cho đầu bằng nhưa thông, họ đặt cái chén bên dưới đầu để hứng nhựa dư chảy xuống. Tuy nhiên, có lẽ lúc đó đã hết ca làm việc và họ đã quên lấy chén ra; khi trở lại làm việc vào sáng hôm sau, nhựa thông đã đông cứng, dán chặt cái chén vào ót xác ướp. Những dấu vết sau đầu cho thấy họ đã cố cạy chén ra nhưng không thành công. Thế là họ quyết định để nguyên cái chén tại vị trí không mong muốn và quấn vải lên, dấu nhẹm. Có ai mà biết được?

Trả lại cho người gởi

Sau khi cơ thể được quấn bọc, thợ ướp xác trả lại nó cho tang gia. Tuy nhiên, các xác ướp không phải lúc nào cũng được chôn cất ngay vì nhà mồ của gia đình chỉ mở cửa vài ba năm một lần để hạn chế sự cuớp bóc. Trong khi chờ đợi được chôn cất, xác ướp được cất giữ trong một gian phòng hoặc tại cơ sở ướp xác đối với nhà giàu hoặc tại nhà ở đối với gia đình nghèo hơn.

Ăn mặc chỉnh tề: Quần áo gởi theo người chết

Ngoài việc quấn bọc, các quần áo bằng vải len cũng được đặt trên hay quanh thi thể.

  • Một phụ nữ triều đại thứ năm có chín áo chôn cùng với bà bên trong áo quan bằng gỗ. Hai áo rõ ràng được thiết kế cho tang lễ vì chúng rất dài (142 cm) và rất chật, không thể mặc khi còn sống.
  • Một xác ướp có niên đại 2362 BC từ Tarkhan, hiện giờ ở Bảo tàng Petrie, được chôn với đầy đủ quần áo cho thấy nếp nhăn ở nách và trên khuỷu, chứng tỏ nó đã được mặc khi còn sống và chắn hẳn là một bộ y phục được người chết yêu thích.
  • Những mẫu y phục khác được khám phá trong các phần mộ bị lộn mặt trái ra ngoài và gấp lại, một thói quen mà các người giặt ủi Ai Cập thường sử dụng để chỉ rõ y phục đã được giặt ủi. Các y phục lộn mặt trái ra ngoài cho thấy quần áo đem theo xuống mồ cũng đã từng được mặc khi còn sống.

Dọn dẹp ngăn nắp

Sau khi thợ ướp xác hoàn tất thủ tục ướp xác và thi thể trả lại cho gia đình, thường tất cả vật liệu sử dụng trong tiến trình ướp xác được chôn giấu trong một chỗ riêng biệt. Tiến trình này gợi ý là mỗi chỗ chôn giấu dành riêng cho mỗi lần chôn cất; buồn thay điều này không phải là trường hợp trong các ghi chép khảo cổ.

Một số chỗ chôn giấu của thợ ướp xác đã được phát hiện ở Thebes và Saqqara, kể cả của Tutankhamun. Những chỗ chôn giấu này bao gồm tất cả vật liệu được sử dụng trong quá trình ướp xác.

  • Những hủ và lọ chứa bột màu để tô cho xác ướp.
  • Nhựa thông để trét, khử mùi, và vệ sinh xác ướp.
  • Vải lanh để độn và quấn bọc
  • Muối để sấy khô
  • Sáp để bao phủ cơ thể và một số lỗ trên cơ thể
  • Mạt cưa và trấu để độn các phần rỗng
  • Đèn và những phần sót lại của buỗi lễ cúng sau khi đám tang hoàn tất
  • Chổi để xóa bỏ các dấu chân của người cuối cùng bước ra khỏi nhà mồ

Một số chỗ chôn dấu cũng chứa bàn ướp xác, đó là chiếc bàn thấp vì phần lớn tiến trình ướp xác được thực hiện trong tư thế ngồi xổm. Những chiếc bàn này đều lấm muối, dầu, và chất thải lỏng của cơ thể.

Trong thời gian viết quyển sách này, lăng mộ được phát hiện mới nhất trong Thung lũng các Vì Vua (KV63) đang được khai quật. Tất cả bảy áo quan được mở ra đều chứa đầy những vật liệu của thợ ướp xác giống như những thứ được dùng khi chôn cất Tutankhamun, bao gồm các vòng cổ hoa đeo lúc chôn cất. Một số bình chứa lớn trong lăng mộ chứa đầy muối, vải quấn, và các bình khác nhau, cho thấy lăng mộ có thể đã là cơ sở ướp xác hơn là nơi chôn cất. Lăng mộ mới có thể là chỗ cất dấu đồ ướp xác cho một phần mộ chưa được phát hiện!

Đọc thêm: Nắm bắt trí tưởng tượng

Mặc dù nghi thức ướp xác giảm sút trong thời kỳ La Mã chiếm đóng, các tiến trình ướp xác vẫn tiếp tục làm thế giới tò mò kể từ đấy.

Từ AD 50 đến thế kỷ 19, các ý tưởng liên quan đến xác ướp càng lúc càng kỳ quái. Vì các xác ướp có tuổi thọ trong khoảng 2,000 đến 4,000 năm, nhiều người tin rằng chúng nắm giữ bí ẩn của cuộc sống vĩnh hằng. Các xác ướp thường được nghiền thành bột, có tên là mumia, và được ăn như một thần dược. Vua Ba Tư từng gởi cho Nữ hoàng Victoria một lọ nhỏ bột mumia (làm từ các xác ướp rất cổ) để bồi bổ sức khỏe. Không biết có phải nhờ uống nó với trà mà bà đã sống rất thọ!

Vào cuối thế kỷ 19, các nhà giàu thường săn lùng các xác ướp để trưng bày trong nhà họ. Việc lột công khai các băng vải quấn xác ướp là những biến cố dành cho giới thượng lưu, trong đó các mệnh phụ thì ngất xỉu khi nhìn cảnh tượng gớm ghiếc còn các ông thì chiêm nghiệm đến khía cạnh khoa học. Vì nhu cầu thưởng ngoạn việc bóc trần xác ướp chẳng bao lâu vượt quá số cung, người Ai Cập hám lợi tìm cách làm những xác ướp giả, phơi khô chúng ngoài nắng cho chúng trông như rất cổ, rồi bán với giá trên trời cho những du khách khờ khạo.

Dẫn Đường vào cõi Âm

Mặc dù những thợ ướp xác bảo quản thi thể, nhưng phải cần những biện pháp phòng ngừa xa hơn khi chôn cất để bảo đảm người quá cố không gặp trở ngại trên đường được tái sinh và đến thế giới bên kia.

Những biện pháp này được ghi trong các ‘sách hướng dẫn’ đến kiếp sau. Những lời chỉ dẫn được viết trên áo quan, tường, giấy cói, và lớp vải quấn, cung cấp cho người quá cố đầy đủ thông tin cần thiết để vuợt qua thế giới bên kia và vào cõi vĩnh hằng. Các phần sau sẽ đề cập đến những chỉ dẫn thông thường nhất cho người chết.

Văn bản Kim Tự Tháp

Văn bản này là những văn bản an táng có sớm nhất, và không có gì ngạc nhiên chúng được viết trong các kim tự tháp từ thời vua Unas của triều đại thứ năm đến thời vua Ibi, một vị vua ít được biết đến vào triều đại thứ tám.

Văn bản được khắc trong phòng an táng và phòng chờ của kim tự tháp (xem Chương 14 về cách xây dựng kim tự tháp) và không kèm theo hình vẽ nào. Các chữ tượng hình được sơn màu xanh để biểu thị sự sống lại.

Văn bản Kim Tự tháp lúc đầu được thiết kế cho các đám tang hoàng gia, nhưng vào cuối thời Vương quốc Cổ một số chương của văn bản cũng được sử dụng cho lăng mộ không thuộc hoàng tộc. Những bùa chú lúc đầu liên quan đến thế giới bên kia của nhà vua và trình bày những số phận khác nhau cho ông ta __ tất cả đều quan trọng như nhau. Những số phận này là:

  • Nhà vua có thể bay lên trời để trở thành một tinh tú giữa các tổ tiên mình.
  • Lúc lâm chung, nhà vua có thể trở thành Osiris, thần của cõi âm.
  • Nhà vua có thể đi cùng thần mặt trời trên con thuyền ánh sáng và đồng hành cùng ông trên chuyến du hành đêm.

Hiển nhiên cũng có những điều trái ngược trong hệ thống tín ngưỡng liên quan đến những gì thực sữ xảy ra sau khi nhà vua băng hà. Ngay cả từ thời đầu này, người Ai Cập đã có nhiều ý tưởng về thế giới bên kia đối trọng với thế giới hiện thực.

Các văn bản kim tự tháp được chia thành ba loại, gồm một số các bùa chú. Những phối hợp bùa chú khác nhau được chọn ra để trang trí cho kim tự tháp. Ba loại này là:

  • Bùa chú, có bản chất hộ trì. Bùa chú được sử dụng để đuổi rắn rết và những mối nguy khác mà vì vua quá cố có thể gặp phải trong thế giới bên kia, có thể ảnh hưởng đến việc tái sinh của ông.
  • Bùa tang, liên kết với người quá cố qua sự hiện hình của Osiris. Những bùa này mô tả chuyến đi của nhà vua vào thế giới bên kia và thường được khắc chạm trong phòng an táng. Những lời này được con vua đọc lên ở phòng an táng trong vai trò như Horus, con trai của Osiris. Những văn bản này mô tả các lễ vật và các nghi thức phục sinh, bao gồm những lời lẽ trong nghi thức Mở Miệng.
  • Bùa cá nhân, mà người quá cố dùng trên đường đi đến thế giới bên kia. Những bùa này được đặt ở phòng chờ và lối đi ra ngoài kim tự tháp, giúp cho Ka khi nó rời khỏi lăng mộ. Những bùa này đề cập đến cảnh tượng của thế giới bên kia, kể cả hình ảnh bước qua dòng nước và lên bậc thang bắc lên trời.

Văn bản Áo quan

Vào đầu Trung Vương quốc, các Văn bản Kim tự tháp tiến hóa thành các Văn bản Áo quan, bởi vì chúng được khắc chủ yếu trên nắp quan tài (mặc dù chúng cũng được khắc trên tường nhà mồ, mặt nạ xác ướp, và giấy cói).

Văn bản Áo quan giống như Văn bản Kim tự tháp, mặc dù những bùa chú mới được thêm vào. Chúng được sử dụng cho cả hoàng gia lẫn người thường.

Văn bản Áo quan phát triển xa hơn một số ý tưởng có trong Văn bản Kim tự tháp, bao gồm:

  • Các chuyến đi lên trời của ba được thực hiện bằng thuyền ánh sáng và đi cạnh thần mặt trời.
  • Ý tưởng cho rằng sự tồn tại ở thế giới bên kia tùy thuộc vào việc nuôi dưỡng cái ka. Việc bảo quản các bộ phận của cơ thể là quan yếu để cho ka và ba có thể hợp nhất để được tái sinh. Vì lẽ này, một hình vẽ tỉ mỉ tất cả vật dụng cúng cho người quá cố (thực phẩm, quần áo, vũ khí, và trang sức) là một trong những yếu tố quan trọng nhất của Văn bản Áo quan.
  • Bùa cá nhân vẫn còn hiện diện, mặc dù chúng được kết hợp vào Hướng dẫn đến Cõi sau, mà thông thường nhất là Quyển sách về Hai Con Đường. sách này là phần giới thiệu vào Âm ty, kèm theo một bản đồ chỉ rõ cách thức tìm được đường đến đó cùng những mốc chỉ đường quan trọng. Tất cả thứ mà người ra đi cần đến. Những bản đồ này, nổi bật là hai lộ trình gồm đất và nước, thường được nhìn thấy ở bên dưới áo quan.

Sách của Người Chết (Tử Thư)

Tân Vương quốc là thời kỳ phục hưng các văn bản an táng, với nhiều phiên bản được soạn thảo, bao gồm Tử Thư với hơn 200 bùa chú đã có trong Văn bản Kim Tự Tháp và Văn bản Áo quan, bổ sung thêm một số mới được cải tiến.

Văn bản Tử Thư được viết trên các áo quan, vải lanh liệm xác ướp, giấy cói, các bức tường trong nhà mồ, và vải quấn bọc thi thể, và thường được minh họa với những họa tiết liên hệ với văn bản. (Những văn bản an táng trước đây chỉ có chủ yếu là chữ viết.)

Một số bổ sung nổi bật là:

  • Chú 125, liên quan đến sự phán xét người quá cố và công đức của y để được nhận vào cõi vĩnh hằng.
  • Những chỉ dẫn đặc biệt mà một số chương cần được viết lên những vật thể đặc biệt để đạt được kết quả tốt nhất. Chẳng hạn:
  • Chương 6 nên được viết lên các tượng shabti, những tượng người hầu nhỏ được đặt trong nhà mồ để phục dịch cho người quá cố.
  • Các Chương 26, 27, 29b, và 30b, phải được viết lên những con bọ hung lớn đặt trên trái tim. Những con bọ hung này được khẩn cầu không khai ra bất kỳ bí ẩn xấu xa nào khi người quá cố đứng trước Osiris trong Phòng Phán Xét.
  • Chú 100 nên được viết trên một tờ giấy cói sạch, chưa dùng đến bằng một thứ bột phẩm màu xanh lá trộn với nhựa thơm và nước. Tờ giấy phải được đặt lên ngực của xác ướp nhưng không thực sự chạm đến thi thể. Nếu làm được như thế, người quá cố có thể bước lên chiếc thuyền ánh sáng của Re và dong ruổi cùng với vị thần quyền năng nhất! Một chú vô cùng quan trọng.
  • Những chỉ dẫn mà một số chú nào đó phải được đọc lớn lên bởi một những người khác nhau, như thầy tu, thợ ướp xác, và chính người quá cố. Chú nên được người quá cố đọc được đặt trong nhà mộ gần với thi thể như có thể trong phòng an táng, để cái ka có thể truy cập thông tin này ngay khi nó lìa khỏi xác.

Với quá nhiều chỉ dẫn rõ ràng, không phải tất cả 200 chương của Tử Thư được viết ra hết trong cùng một chỗ.

Hướng dẫn đến Cõi Sau

Không giống Tử Thư, sách Hướng dẫn đến Cõi Sau là tuyển tập các bùa chú không thay đổi thường xuyên, và là bộ sách tôn giáo đầu tiên mà nội dung được ấn định, phát triển theo một chủ đề, và phải xem theo một thứ tự đặc biệt. Sách này chỉ được nhà vua sử dụng và thường thì lăng mộ hoàng hậu cũng không được phép. Sách này giờ vẫn còn thấy được trong các hầm mộ ở Thung Lũng các Vì Vua (xem Chương 13).

Hướng dẫn đến Cõi Sau có nhiều hình minh họa hơn Tử Thư và theo sau chuyến đi ban đêm 12 giờ của thần mặt trời, có người quá cố đồng hành.

Trong truyện, chuyến đi ban đêm bắt đầu lúc hoàng hôn đối với mặt trời và lúc an táng đối với người quá cố. Mặt trời đem ánh sáng đến cõi âm và đi về phía đông để được tái sinh. Mỗi giờ trong chuyến đi 12 giờ được ngăn cách bởi những cánh cổng do các quỷ sứ và mãng xà canh giữ. Người quá cố phải xướng tên các quỷ sứ và cánh cổng mới vượt qua được. Nhiều cổng giờ được trấn giữ bởi các ác quỷ lăm le ám hại thần mặt trời và người quá cố đồng hành __ một kịch bản thiện chống ác có thể làm ra những bộ phim bom tấn! Ở cuối giờ thứ 12, mặt trời tái sinh lên tầng trời, và người quá cố tái sinh vào thế giới bên kia.

Không cần phải khắc chạm đủ 12 giờ trên bức tường nhà mồ, áo quan, hoặc giấy cói, thường chỉ cần sử dụng một hay hai giờ tiêu biểu tùy theo không gian có được.

Mua chuộc cán cân phán xét

Sau khi người quá cố thương lượng để qua trót lọt tất cả cánh cổng của cõi âm, còn một nhiệm vụ nhỏ nữa để hoàn thành trước khi người chết đi vào cõi vĩnh hằng. Đó là bước vào Phòng Phán Xét, để đúng trước mặt Osiris, vị thần của cõi âm, và làm chứng cho công đức của mình.

Trái tim người quá cố sẽ được cân với chiếc lông của sự thật (Maat). Nếu tim nặng hơn, lập tức quái vật (Amut) đang chực sẵn sẽ nuốt chững trái tim, và người quá cố mãi mãi không được tái sinh và bị đày ải vào bóng tối vĩnh cữu.

Thay vì phó thác trái tim mình trên bàn cân cho may rủi, người quá cố đọc lời xưng tội phủ nhận từ Tử Thư, kể cho 42 phán quan của cõi âm tất cả những việc mà người quá cố không từng làm. Thật ranh mảnh, vì nếu bạn phạm phải việc gì, đừng đề cập đến nó và không ai biết được! Lời xưng tội phủ nhận bao gồm những câu nói như:

Tôi chưa từng làm điều gì sai quấy.

Tôi chưa từng trộm cắp

Tôi chưa từng tham lam

Tôi chưa từng giết người

Lời xưng tội tiếp tục, kết hợp những lỗi nhỏ nhặt với những tội tày trời như thể chúng như nhau. Mặc dù việc cân tim nghe có vẻ khủng khiếp, những minh họa của các cảnh tượng này cho thấy không có ai bị trừng phạt. Như vậy việc đọc lời xưng tội phủ nhận quả có tác dụng.

Nuôi dưỡng cái ka

Sau khi người quá cố được tái sinh vào thế giới bên kia, điều quan trọng là giữ gìn việc thờ cúng ka để bảo đảm y được sống vĩnh hằng. Đối với hoàng tộc, việc thờ cúng này được tiến hành trong đền thờ an táng do nhiều thầy tu đảm trách. Đối với dân thường, nếu giàu xây được lăng mộ có nhà nguyện, các thành viên trong gia đình sẽ thờ cúng hương hồn người quá cố tại đây, hoặc thuê thầy tu thay thế mình. Đối với những cá nhân nghèo hơn, các thành viên trong gia đình sẽ thờ cúng tại nhà.

Vượt quá tầm hiểu biết của người Ai Cập

Mặc dù người Ai Cập nỗ lực bảo quản thân thể của họ vĩnh viễn, không ai chắc chắn thế giới bên kia có tồn tại hay không.

Trong một số lăng mộ ở thời Tân Vương quốc, có những hình vẽ cho thấy những nhạc công mù đánh đàn hạc đang tấu nhạc cho giới ưu tú thưởng thức tại các buổi chiêu đãi.

Phía trên một số nhạc công có ghi lời của bài hát sau:

Họ đã chịu những tai ương gì?

Họ hiện giờ ở đâu?

Tường nhà của họ đã sụp đỗ và nhà cửa không còn

Như thể họ chưa từng tồn tại

Không có ai trở về từ cõi chết

Để có thể kể lại tình cảnh của mình

Và những thứ họ cần;

Để làm trái tim ta yên ổn

Cho đến khi ta cũng đi đến nơi mà họ đã từng qua

Nào ta hãy vui chơi và đừng bao giờ nản chí

Vì có ai đem được tài sản của mình xuống đó đâu,

Có ai đi đến đó mà quay trở về được đâu.

Rõ ràng, người Ai Cập không chắc chắn về sự tồn tại của thế giới bên kia. Nhưng dĩ nhiên họ tiếp tục ướp xác và chuẩn bị chu đáo lễ tang, chỉ cho chắc ăn.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất của việc thờ cúng hương hồn ka là việc dâng cúng lễ vật, được bày ra trước tượng người quá cố mỗi ngày. Những lễ vật này gồm bánh mì, bia, thịt gà, thịt bò, và rau củ quả. Các thân nhân thường chọn những thức ăn mà người quá cố ưa thích khi còn sinh tiền. Không có điều gì tệ hơn phải sống trong cõi

vĩnh hằng bằng đầu cá hoặc cải bắp nếu bạn không ưa gì chúng!

Kèm theo các lễ vật này là những lời cầu nguyện hoặc bùa chú, chủ yếu bảo đảm tên người quá cố được giữ như còn sống bằng việc nhắc đi nhắc lại.

Đối với hoàng tộc, những lời cầu nguyện và lễ vật được dâng lên mỗi ngày hai lần cho bức tượng ka của nhà vua trong đền thờ an táng của ông. Đối với phần đông cộng đồng, mức độ báo hiếu như thế rất mất thì giờ và quá sức, vì thế nghi thức chắc hẳn được tiến hành hàng tuần, hàng tháng, hay hàng năm, tùy theo hoàn cảnh gia đình.