Sử quán cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước được đặt ra từ triều đại nào

Người đọc sử nước nhà không xa lại gì với cái tên “Quốc sử quán” cả. Đó là nơi đã cho ra đời các bộ sử tuyệt vời. Đây có thể nói là lần đầu tiên nơi biên chép lại sử nước nhà được mang cái tên này và cũng là lần đầu tiên có công sở riêng biệt.

I. Quốc sử quán - Quốc sử viện

Người đọc sử nước nhà không xa lại gì với cái tên “Quốc sử quán” cả. Đó là nơi đã cho ra đời các bộ sử tuyệt vời như Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam hội điển,...

Những tưởng Quốc sử quán là cơ quan chuyên biệt được lập ra từ các triều đại trước. Nhưng thực tế là mới ở triều Nguyễn, cụ thể là đời vua Minh Mạng mới sử dụng cái tên này. Thực lục - Đệ nhị kỷ chép: “Canh Thìn, Minh Mạng năm thứ 1 [1820]... Bắt đầu dựng Quốc sử quán... Bèn sai chọn đất ở bên tả trong Kinh thành, họp thợ xây đắp, hơn một tháng thì xong.”

Nguồn: Internet

Đây có thể nói là lần đầu tiên nơi biên chép lại sử nước nhà được mang cái tên này và cũng là lần đầu tiên có công sở riêng biệt. Sang năm Minh Mạng thứ 2 thì đặt chức Tổng tài, Phó tổng tài và các thuộc quan để soạn sử sách. Khi ấy Thự Chưởng Hữu quân Nguyễn Văn Nhân được bổ làm Tổng tài, các quan Thượng thư là Trịnh Hoài Đức và Phạm Đăng Hưng được bổ làm Phó tổng tài.

Cái tên Quốc sử quán này có lẽ là học theo nhà Thanh bên Trung Quốc. Tháng Tư năm Khang Hy thứ 29, triều đình lập Quốc sử quán để biên chép về “Tam triều quốc sử” [tức ba đời Thái tổ, Thái tông, Thế tổ nhà Thanh]. Đứng đầu Quốc sử quán nhà Thanh cũng là chức Tổng tài, ban đầu do Đại học sĩ Vương Hy đảm nhiệm.

[chú thích: Trong Lịch triều có nhắc tới Nguyễn Nghiễm được bổ chức Tổng tài Quốc sử quán, có lẽ là nhầm với Tổng tài Quốc sử [viện].]

Trước đó, cả ở ta là Trung Quốc đều lập Quốc sử viện làm cơ quan biên chép sách vở của triều đình. Cũng phải nói thêm rằng chính quyền Dân quốc của Tổng thống Tôn Trung Sơn không thiết lập Quốc sử quán mà quay lại dùng cái tên Quốc sử viện

II. Quốc sử viện của Trung Quốc

Cơ quan chuyên biệt đầu tiên được lập ra để soạn chép quốc sử có tên là Sử quan, được nhà Bắc Tề thành lập. Trải mấy triều Tùy, Đường, Ngũ đại thập quốc, Bắc Tống đều mang tên ấy. Mãi sang thời Nam Tống mới đổi dùng Quốc sử viện.

Nguồn: Internet

Sử quán ở thời nhà Bắc Tống, là cơ quan được lập ra lâm thời để biên chép quốc sử, xong việc thì giải tán, trực thuộc Môn hạ sảnh. Tới năm Nguyên Hữu thứ 5 [1090] thì chuyển sang trực thuộc Bí thư sảnh. Sang đời Nam Tống thì mỗi khi thiết lập Quốc sử viện thì do Tể tướng đề cử các thuộc quan sung vào. Tới triều nhà Nguyên thì lập ra cơ quan thường trực riêng gọi là Hàn lâm kiêm Quốc sử viện. Sang tới triều Minh thì chỉ còn Hàn Lâm viện, chịu trách nhiệm soạn chép sử sách. Phụ trách việc chép sử là chức Giám tu quốc sử, thường do đại quan nhất phẩm trong triều như Tể tướng kiêm nhiệm, bên dưới là các chức như Tu soạn, Tu sử, Đồng tu sử...

III. Quốc sử viện nước ta

Thời nhà Lý không sao khảo được, phải tới nhà Trần mới có ghi chép về cơ quan chuyên việc chép sử. Lịch triều hiến chương loại chí cho rằng Quốc sử viện đã có mặt ở thời Trần với việc phân chia quán, các, sảnh, cục, đài, viện. Toàn thư cũng ghi chép về chức quan thuộc Quốc sử viện ở thời nhà Trần, đó là Lê Văn Hưu với việc “Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên.”

Qua những ghi chép của Toàn thư thì ta có thể thấy thuộc quan trong Quốc sử viện có thể là quan viên các cơ quan khác kiêm nhiệm, như Nguyễn Trung Ngạn thời Trần làm An phủ sứ Nghệ An kiêm Quốc sử viện Giám tu quốc sử, hay Ngô Sĩ Liên thời Lê là Đô ngự sử đài kiêm Sử quan Tu soạn, Vũ Quỳnh thời Lê Trung hưng là Binh bộ thượng thư, Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan đô tổng tài. Điều này có nghĩa là ông Trung Ngạn trị nhậm ở Nghệ An và làm quốc sử ở đó luôn, ông Ngô Sĩ Liên ngồi ở Ngự sử đài và làm quốc sử ở đó luôn, còn ông Vũ Quỳnh cũng ngồi ở bộ Binh mà biên quốc sử.
Cũng qua các mẩu chuyện giữa vua và sử quan được chép trong sử thư, mà ta có thể lượm lặt được đôi điều về nơi lưu trữ sử thư ở thời Trần và Lê.

Nhâm Ngọ [1342] Thượng hoàng [Minh tông] ngự đến Ngự sử đài. Giám sát ngự sử Doãn Định và Nguyễn Như Vi bị bãi chức. Bấy giờ đã trùng tu xong Ngự sử đài. Sáng sớm, Thượng hoàng ngự tới, Ngự sử Trung tán là Lê Duy theo hầu Thượng hoàng trở về cung rồi, Doãn Định và Nguyễn Như Vi mới đến, bèn làm sớ kháng nghị, nói là Thượng hoàng không được vào Ngự sử đài và hặc tội Lê Duy không biết can ngăn, lời lẽ rất gay gắt.
Thượng hoàng gọi đến dụ họ rằng: “Ngự sử đài cũng là một trong các cung điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử không được vào. Vả lại, trong Ngự sử đài xưa kia còn có chổ để Thiên tử giảng học. Các bạ thư chi hậu dâng hầu bút nghiên đều ở đó cả. Đó việc cũ Thiên tử vào Ngự sử đài. Ngày xưa Đường Thái tông còn xem Thực lục, huống chi là vào đài!”

Cứ như vậy mà suy thì Ngự sử đài ngoài việc là nơi Thiên tử giảng học thì cũng là nơi lưu trữ sử thư, cho nên Thượng hoàng Trần Minh tông mới vin vào việc Đường Thái tông bên Trung Quốc ngày xưa đòi xem Thực lục để trách các quan viên Ngự sử đài. Điển tích Đường Thái tông đòi xem Thực lục còn được Lê Thánh tông áp dụng về sau:“Vua muốn xem quốc sử, sai nội quan tới Hàn lâm viện dụ riêng sử quan Lê Nghĩa rằng: “Trước kia, Phòng Huyền Linh làm sử quan, Đường Thái tông muốn xem Thực lục, Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh thì ai hơn?”

Thoạt tiên Lê Nghĩa không chịu, nhưng rồi nội quan nhiều lần dụ rằng vua muốn xem để biết có lỗi gì còn sửa. Cuối cùng Nghĩa phải “dâng những ghi chép hằng ngày lên. Vua xem xong trả lại cho Sử viện.” Không rõ sử viện có nằm trong Hàn lâm viện hay Ngự sử đài không, nhưng chí ít thì ta biết Lê Nghĩa thường làm việc tại Hàn Lâm viện, giống như Lê Văn Hưu ở thời nhà Trần.

Từ thế kỷ XIII triều Trần đã thành lập Viện Quốc sử. Kế thừa truyền thống đó, ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, Gia Long đã cho lập Sử cục là cơ quan sơ khai, tiền thân của Quốc sử quán. Năm 1820, Vua Minh Mệnh cho lập Quốc sử quán là cơ quan có nhiệm vụ lưu trữ và biên soạn lịch sử dân tộc. Đến năm Tự Đức thứ 31 [1878], để khẳng định tính pháp lí của bộ máy công quyền trong công việc chuyên trách biên soạn quốc sử, triều Nguyễn bắt đầu chế ấn kiềm bằng đồng cấp cho Quốc sử quán. Trong vòng 125 năm [1820-1945] tồn tại, cơ quan này đã biên soạn những bộ sách sử có gia trị như: Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam liệt truyện, Minh Mệnh chính yếu, Khâm Định Việt Sử thông giảm cương mục …

Paneau 1 - Phần 1

Mộc bản và bản dập ghi chép về việc Vua Gia Long cho thành lập Sử cục [tiền thân của Quốc sử quán triều Nguyễn] vào năm Gia Long thứ 10 [1811].

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ nhất kỉ, quyển 42, mặt khắc 19.

Vua Gia Long [1802 - 1819] - Vị Vua cho thành lập Sử cục [tiền thân của Quốc sử quán triều Nguyễn].

Bản dập Mộc bản ghi chép về việc Vua Minh Mệnh cho thiết lập Quốc sử quán vào năm Minh Mệnh thứ nhất [1820]. Vua dụ bầy tôi rằng: "Nhà nước ta từ khi mở mang đến nay, các thánh nối nhau, hàng 200 năm. Kịp đến Thế tổ Cao hoàng đế ta trung hưng thốc nhất đất nước, trong khoảng ấy sự tích công nghiệp nếu không có sử sách thì lấy gì để dạy bảo lâu dài về sau. Trẫm muốn lập Sử quán, sai các nho thần biên soạn quốc sử thực lục, để nêu công đức về kiến, đốc, cơ, cần làm phép cho đời sau, cũng chẳng là phải sao".

Nguồn: TTLTGQIV, MBTN; Mộc bản sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ nhị kỉ, quyển 3, mặt khắc 12.

Mộc bản và bản dập ghi chép về việc Vua Gia Long cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài đầu tiền của Sử cục vào năm 1811.

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ nhất kỉ, quyển 43, mặt khắc 19.

Nguyễn Văn Thành - Vị Tổng tài đầu tiên của Sử cục.

Mộc bản và bản dập bìa sách "Hoàng Việt luật lệ - Bộ luật Gia Long" do Sử cục biên soạn, san khắc và ban hành vào năm Gia Long thứ 12 [1813].

Nguồn: TTLTGQIV, MBTN.

Paneau 2 - Phần 1

Vua Minh Mệnh [1820 - 1840]. Vị Vua cho thành lập Quốc sử quán.

Bản dập Mộc bản về việc năm Kiến Phúc thứ nhất [1884], triều Nguyễn tiếp tục cho dựng thêm một dãy nhà ngói 7 gian 2 chái làm Sở Khâm tu ở phía đông trước Sử quán.

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ ngũ kỉ, quyển 3, mặt khắc 6.

Mộc bản và bản dập về việc Vua Minh Mệnh cho xây dựng Quốc sử quán ở bên tả trong Kinh thành, công trình được thi công trong vòng hơn một tháng thì hoàn thành, năm Minh Mệnh thứ nhất [1820].

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, quyển 49, mặt khắc 1.

Bản dập Mộc bản về việc triều Nguyễn tổ chức khai trương Quốc sử quán vào ngày 6 tháng 5 năm 1821 tại điện Cần Chánh.

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 119, mặt khắc 4.

Quốc sử quán triều Nguyễn - Cơ quan chuyên trách sưu tầm và biên soạn chính sử.

Paneau 3 - Phần 1

Bản tấu của Nội các ngày 17 tháng 9 năm Tự Đức thứ 31 [1878] về việc triều Nguyễn bắt đầu chế ấn kiềm cấp cho Quốc sử quán, khẳng định giá trị pháp lý chính thống của cơ quan chuyên trách triển lãm và biên soạn chính sử: "Trước kia tờ tâu, tờ tư hoặc dùng ấn tổng tài quan phòng hoặc dùng triện riêng của toán tu, chưa có tín lệnh nhà nước cấp cho, đến nay chế cấp ấn đồng, khắc bốn chữ Quốc sử quán ấn. Kiềm bằng ngà khắc hai chữ Sử quán".

Nguồn: TTLTQGI, CBTN - Tự Đức tập 297, tờ 375.

Mộc bản và bản dập ghi chép về việc năm Tự Đức thứ 31 [1878], triều Nguyễn bắt đầu chế ấn kiềm cấp cho Quốc sử quán. Nội dung này đã được các Sử quan thời Vua Tự Đức biên soạn dựa vào nội dung trên tờ 375, Tự Đức tập 297, thuộc Khối Châu bản triều Nguyễn, hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.

Nguồn: TTLTQGIV, MBTN; Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, quyển 49, mặt khắc 5.

Ấn, kiềm, núm, đế ấn của Quốc sử quán.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề