Tại sao lại có hiện tượng bán phá giá

Bán phá giá được hiểu là một khái niệm hết sức cơ bản để ám chỉ việc những mặt hàng sản phẩm được bán trên thị trường với giá bán nằm dưới mức giá thành được sản xuất. Qua nhiều hình thức khác nhau mà bán phá giá được thể hiện để tăng khả năng cạnh tranh, để hạ giá, chiếm lĩnh thị trường, hạ gục đối thủ ngay cả khi phải đồng ý chấp nhận bán lỗ ở một mức giá nào đó. Hành vi bán giá được coi là bất hợp pháp dưới góc độ pháp luật cạnh tranh.

Bán phá giá đối với quan hệ thương mại quốc tế lại được coi là một hành vi đối với cơ quan doanh nghiệp nằm mục đích giành giật thị trường nhập khẩu thuộc quốc gia này sang quốc gia khác với giá quá thấp. Khi nhập khẩu rõ ràng sản phẩm có giá thấp thơn và giá bán cũng kém hơn giá cả thị trường và những nhà sản xuất trong nước là đối tượng bị thiệt đầu tiên. Đó cũng là nguyên nhân vì sao mà hành vi bán phá giá được coi là không công bằng, để bảo đảm tuyệt đối quyền lợi kinh doanh thì phải được ngăn chặn cũng như đối với khách hàng.

Bán phá giá là gì

Sản phẩm có xuất xứ từ phái bên nước ngoài bị xem là bán phá giá khi được biết nhập khẩu vào trong đất nước Việt Nam thì nếu như sản phẩm được bán ra thị trường với giá thấp hơn so với thông thường. Đối với tình huống không có sản phẩm tương tự sẽ được bán trên thị trường nội địa của vùng lãnh thổ hay nước xuất khẩu hoặc có những sản phẩm, hàng hóa tương tự được bán trên vùng lãnh thổ, thị trường nội địa xuất khẩu, tuy nhiên với số lượng, khối lượng hay giá trị sản phẩm không quá đáng kể thì hàng hóa có giá thông thường vào Việt Nam một trong hai cách sau được xác định:

Giá có thể so sánh đối với sản phẩm, hàng hóa tương tự của vùng lãnh thổ, của nước xuất khẩu đang được bán một nước thứ ba trên thị trường đối với điều kiện thương mại thông thường.

Hợp lý về giá thành sản phẩm kèm theo những chi phí lợi nhuận, hợp lý khác tại mức hợp lý xét theo mỗi công đoạn từ sản xuất cho tới việc lưu thông thuộc trong vùng lãnh thổ hay thị trường xuất khẩu hay nước thứ 3.

Bán phá giá gồm có 3 hình thức:

- Bán phá giá không thường xuyên: Đây là hình thức được tiến hành khi doanh nghiệp muốn xử lý vấn đề tài chính nhanh chóng khi còn tồn động để tránh những phát sinh rủi ro trên thị trường quốc tế.

- Bán phá giá chớp nhoáng: Trong một khoảng thời gian nhất định doanh nghiệp định giá sản phẩm thấp hơn thị trường trong nước để tăng mức độ cạnh tranh đối với những doanh nghiệp khác.

- Bán phá giá bền vững: Đây được coi là hình thức hạ giá mặt hàng sản phẩm xuống thấp hơn so với mặt bằng chung trong một thời gian dài của thị trường để lôi kéo khách hàng đem lại nguồn thu lớn, triệt hạ thêm những đối thủ khác.

Các loại hình bán phá giá

Chỉ có thể thực hiện một vụ kiện chống bán phá giá nếu như có được một sự bắt đầu vì những chủ thể có quyền khởi kiện là những ngành sản xuất mặt hàng tương ứng của những nước nhập khẩu hay còn gọi là đại diện của ngành, bộ phận cơ quan có thẩm quyền đối với những nước nhập khẩu. Đều được khởi xướng bắt nguồn từ đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu hầu như toàn bộ vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế.

Đơn kiện pháp đáp ứng đầy đủ những điều kiện sau mới được xem xét:

Những nhà sản xuất sẽ ủng hộ đơn kiện có sản lượng mặt hàng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất tổng lượng sản xuất 50% ra bởi toàn bộ những nhà sản xuất để bày tỏ thêm ý kiến phản đối hay ủng hộ đơn kiện.

Những nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện cần phải có thêm sản lượng mặt hàng sản phẩm tương tự chiếm tổng sản phẩm tương tự ít nhất khoảng 25% của tất cả ngành sản xuất trong nước.

Đối tượng có quyền kiện chống bán phá giá

Có rất nhiều hậu quả gây ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế của việc bán phá giá chẳng hạn như:

- Đối với thị trường sản xuất trong nước gây tổn thất vật chất.

- Đến những ngành công nghiệp tương tự gây tổn thất vật chất hay tạo ra các khó khăn.

- Mặc dù vậy rất khó để có thể xác định rõ ràng tạo nên những nước nhập khẩu thường dùng chọn áp thuế để có thể chống bán phá giá và lường trước đến nguy cơ sản xuất bị xâm hại trong nước. 

Hậu quả bán phá giá

Biện pháp để chống bán phá giá được coi là những biện pháp mà bên trong nước nhập khẩu có thể dùng chống lại những hiện tượng bán giá giá đối với hàng nhập khẩu sau khi đã đi tới kết luận việc bán giá được khẳng định gây thiệt hại đáng kể. Những biện pháp chống bán phá giá thông thường bao gồm:

2.3.1. Áp dụng thuế

Áp dụng thuế để chống bán phá giá được coi là một trong các biện pháp dùng phổ biến rộng rãi một cách hết sức hiệu quả. Giải pháp này được áp dụng với toàn bộ những mặt hàng sản phẩm bị điều tra và kết luận để đưa vào việc bán phá giá những nước nhập khẩu làm thiệt hại đối với những ngành sản xuất tại nước đó. Mức thuế chống bán phá giá theo nguyên tắc sẽ được tính riêng cho mỗi nhà xuất khẩu, sản xuất nước ngoài và thấp hơn biên phá giá của họ.

Đối với những trường hợp nhà xuất khẩu, sản xuất nước ngoài sẽ không được chọn lựa để tham gia những cuộc điều tra thì mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sẽ thấp hơn trung bình biên phá giá toàn bộ các nhà xuất khẩu, sản xuất nước ngoài được chọn lựa điều tra.

Theo Quy định WTO thời gian áp thuế thì việc áp thuế chống bán phá giá sẽ không thể kéo dài hơn quá 5 năm kể từ ngày thực hiện kiểm tra lại hoặc có quyết định áp thuế. Quyết định áp thuế sẽ chỉ có hiệu lực đối với toàn bộ sản phẩm liên quan tới nhập khẩu sau thời điểm ban hành quyết định từ nước bị kiện.

Với những nhà xuất khẩu mới quyết định áp thuế có hiệu lực, người chưa hề xuất khẩu sản phẩm trong thời gian trước đó sang nước áp thuế, nhà xuất khẩu mới có thể tiến hành yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng đối với bản thân mình, tuy nhiên hàng hóa nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn tiến hành trong thời gian chưa có quyết định về mức thuế riêng.

Áp dụng thuế

Biện pháp được coi là việc tạm thời để hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số sản phẩm hàng hóa khi vấn đề nhập khẩu chúng tăng cao gây nên hay đe dọa làm thiệt hại nặng nề đối với ngành sản xuất nằm trong nước.

Chỉ được áp dụng đối với sản phẩm hàng hóa khi dùng biện pháp này, không được áp dụng đối với dịch vụ, sở hữu trí tuệ hay đầu tư. Đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO tuy nhiên khi áp dụng thì họ cần bảo đảm tuân thủ theo những quy định WTO về thủ tục, điều kiện đồng thời là thách thức áp dụng biện pháp tự vệ.

Biện pháp tự vệ

Chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ của một nước nhập khẩu khi đã thực hiện điều tra rà soát minh chứng được sự tồn tài kèm theo là những điều kiện:

- Tăng đột biến về số lượng sản phẩm hàng hóa liên quan được nhập khẩu.

- Ngành sản xuất mặt hàng sản phẩm tương tự hay trực tiếp cạnh tranh đối với sản phẩm hàng hóa bị đe dọa bị thiệt hại nghiêm trọng.

- Xuất hiện mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại hay đe dọa thiệt hại đề cập phía trên và hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến.

- Sự gia tăng này là gia tăng tương đối hoặc tuyệt đối so với sản xuất trong nước chẳng hạn như lượng sản phẩm hàng hóa nhập khẩu hầu như là không tăng tuy nhiên cùng thời điểm đấy số lượng hàng hóa sản xuất lại giảm mạnh trong nước.

- Sự gia tăng này cần đem lại tính đột biến nhanh tức thời, diễn ra đột ngột.

- Sự gia tăng nhập khẩu theo điều kiện chung phải thuộc diện không dự đoán trước tại thời điểm nhập khẩu trao đổi đàm phán tham gia hiệp định SG.

Vừa rồi là thông tin chia sẻ đến bạn đọc về khái niệm bán phá giá là gì và những thông tin liên quan. Hy vọng rằng qua bài viết của chúng tôi bạn đọc đã có một cái nhìn tổng quát về thuật ngữ này từ đó khi trường hợp này xảy ra sẽ có biện pháp đối phó kịp thời. Cuối cùng xin kính chúc bạn đọc có nhiều sức khỏe và thành công trong công việc, thường xuyên ghé thăm timviec365.com để đón đọc thêm nhiều nội dung mới nhé.

Khám phá những ưu nhược điểm của kênh bán hàng trực tiếp hiện nay

Kênh bán hàng trực tiếp có ưu nhược điểm nào? Hãy cùng chúng tôi tham khảo trong bài viết sau đây để nắm rõ nhé!

Ưu nhược điểm của kênh bán hàng trực tiếp

Video liên quan

Chủ Đề