Thành tựu công nghệ sinh học trong bảo vệ thực vật

Phát triển khoa học, công nghệ bảo vệ thực vật

Hội nghị Khoa học - Công nghệ Bảo vệ thực vật lần thứ ba vừa được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh. Tham dự hội nghị có gần 300 đại biểu là các nhà khoa học nông nghiệp, sinh học, bảo vệ thực vật trong cả nước, hoạt động trên nhiều lĩnh vực thuộc các viện nghiên cứu, các trường đại học, các cơ quan quản lý ngành nông nghiệp và bảo vệ thực vật từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Ba mươi báo cáo khoa học xuất sắc trình bày trong hội nghị đã được các đại biểu thảo luận sôi nổi. Và đã tổng kết được thành tựu về nghiên cứu khoa học, những thành công trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất đó là: Ngày càng nắm rõ bản chất, nguyên nhân quy luật phát sinh, phát triển của sâu bệnh hại trên cây lúa và một số cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Ðẩy mạnh mở rộng ứng dụng quy trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM, ICM, ba giảm, ba tăng trên cây lúa. Hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của chúng gây ra như: bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá. Bảo đảm và tăng năng suất sản lượng lúa trong những năm qua; Nghiên cứu chọn tạo nhiều giống lúa có năng suất chất lượng cao đưa vào sản xuất đại trà khá tốt. Bước đầu nghiên cứu Biến đổi gien và bảo vệ thực vật [BVTV] có kết quả mở ra hướng đi mới và đẩy mạnh nghiên cứu lĩnh vực khó khăn phức tạp này. Cùng với sự biến đổi khí hậu, một số đối tượng sâu bệnh mới nổi lên như: Rày nâu, rày lưng trắng truyền bệnh vi-rút nguy hiểm là vàng lùn, lùn xoắn lá ở đồng bằng sông Cửu Long [ÐBSCL] và lùn sọc đen ở Bắc Trung Bộ... Bước đầu được nghiên cứu sâu hơn để tìm giải pháp phòng chống. Một số đối tượng sâu bệnh xuất hiện trên cây cà-phê, hồ tiêu gây chết hàng loạt, cần thiết phải tập trung nghiên cứu, tìm ra giải pháp phòng trừ hữu hiệu mới có thể phát triển trong thời gian tới. So với hai kỳ hội thảo khoa học lần trước: Vấn đề biện pháp sinh học đã được đề cập mạnh mẽ hơn. Số lượng báo cáo về biện pháp sinh học khá nhiều. Các đối tượng Thừa địch ký sinh được nghiên cứu sâu hơn về bản chất và quy luật phát triển, ý nghĩa trong phòng trừ đối tượng sâu bệnh hại. Nhiều báo cáo về tổ chức sản xuất, về sử dụng có tính xã hội hóa trong phòng trừ sâu hại rất tốt như nhân nuôi sử dụng nấm Matazum trừ rày nâu ở Sóc Trăng, nhân nuôi sử dụng Trichoderua trừ bệnh hại trên cây hồ tiêu... Ðây là biện pháp cần đề nghị Nhà nước đầu tư phát triển mạnh để sử dụng một cách rộng rãi có tính xã hội hóa cao, nhằm hạn chế thuốc trừ sâu cải thiện môi trường.

Bảo vệ môi trường trong nông nghiệp, nông thôn đang là vấn đề rất bức xúc. Là rào cản của quá trình phát triển. Quá trình đô thị hóa, quá trình công nghiệp hóa tạo ra nhiều khu công nghiệp mà khi xây dựng người ta rất ít chú ý đến xử lý nước thải, rác thải ra môi trường. Các làng nghề trong nông thôn như chăn nuôi, gia trại, trang trại bò sữa, những lò mổ, những làng thuộc da... gây quá nhiều ô nhiễm cho môi trường. Việc sử dụng phân hóa học, thuốc độc hóa học BVTV trên đồng ruộng, trong kho tàng, trong chế biến làm cho rau quả, thực phẩm không an toàn cho con người và khu hệ sinh vật, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ðây là những vấn đề nóng bỏng và bức xúc cần được giải quyết. Những mô hình, những thực tiễn xử lý vệ sinh môi trường bằng công nghệ EM [Emro Nhật Bản] cần được tổng kết và mở rộng.

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được, những tồn tại trong công tác BVTV thời gian qua. Các nhà khoa học kiến nghị với các bộ, ngành liên quan cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước sáu kiến nghị như sau:

Kế thừa thành quả của chương trình nghiên cứu tổng hợp nhiều năm trên cây lúa. Mở rộng việc ứng dụng IPM, ICM, giống biến đổi gien, ba giảm, ba tăng, sản xuất lúa cải tiến IRS... không để đứt quãng [dưới sự quản lý theo chương trình tập trung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn], tiếp tục đầu tư nghiên cứu về giống kháng, chống chịu sâu bệnh, đẩy mạnh nghiên cứu biện pháp sinh học, bảo vệ quần thể Thiên địch ký sinh, sử dụng phân bón và nông dược sinh học. Coi trọng nghiên cứu sự biến động sinh thái và dịch tễ học các bệnh vi-rút. Ký sinh vi-rút và môi giới truyền bệnh và ký chủ cùng môi trường trên cây lúa để không bị dịch hại xuất hiện.

Trước mắt đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét giảm số lượng và chủng loại thuốc BVTV độc hại dùng trong nông nghiệp [theo số liệu thống kê được hằng năm chúng ta đã dùng khoảng hơn 100 nghìn tấn thuốc trừ sâu thuốc độc bảng B]. Ðây là vấn đề rất bức xúc và cần quan tâm. Chỉ nên sử dụng thuốc hóa học BVTV khi cần thiết theo nguyên tắc bốn đúng, tiến tới loại bỏ nhập khẩu và sử dụng các loại thuốc thuộc diện hạn chế sử dụng độ độc cao. Ðầu tư kinh phí để nghiên cứu hậu quả tác động của thuốc trừ sâu bệnh đến cây trồng, hệ sinh vật đất, đến sức khỏe con người, vật nuôi và giải pháp khắc phục.

Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có chủ trương, chính sách chỉ đạo cụ thể sử dụng biện pháp sinh học trong quản lý dịch hại tổng hợp. Cần ưu tiên và đơn giản hóa thủ tục đăng ký sử dụng chế phẩm sinh học, đẩy nhanh tốc độ xã hội hóa biện pháp sinh học, sử dụng các Thiên địch ký sinh, như vậy mới hạn chế được việc sử dụng chất độc trong BVTV. Trong tình hình môi trường nông nghiệp, nông thôn hiện nay, Nhà nước cần xã hội hóa việc sản xuất, ứng dụng các chế phẩm sinh học BVTV vào xử lý môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tổ chức tổng kết, hội thảo đánh giá trên diện rộng Công nghệ vi sinh hữu hiệu EM để công nhận và chính thức phát triển mạnh mẽ công nghệ này trong vệ sinh môi trường ở Việt Nam.

Những năm qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Cục Bảo vệ thực vật gần như mới tập trung chỉ đạo vào cây lúa, ít chú ý chỉ đạo cây trồng cạn ở các vùng miền Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên, trung du, miền núi phía bắc. Trong lúc đó, các cây trồng có giá trị kinh tế rất cao như cà-phê, hồ tiêu đang bị bệnh vi-rút rất nặng, người sản xuất gặp nhiều rủi ro. Việc nghiên cứu nguyên nhân và phòng trị bệnh chưa được quan tâm đúng mức.

Nhà nước và các bộ, ngành liên quan cần quan tâm đến công tác bảo vệ thực vật sau thu hoạch. Sâu bệnh hại trong kho tăng gần như đang bỏ trống, ít ai nghiên cứu, chỉ đạo. Trong lúc đó thực tế thất thoát do sâu bệnh gây ra sau thu hoạch là rất lớn. Vấn đề xử lý hóa chất độc cho ngũ cốc, rau quả và thuốc đông dược cũng gây hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng và môi trường, nên cũng cần đặc biệt quan tâm.

Ðề nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần kiểm điểm lại việc tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình GAP [VIETGAP, GTOBAL GAP] vì sao chưa hiệu quả và chậm được mở rộng trong sản xuất. Nhất là rau quả ở các vùng đô thị đang rất độc hại cho người tiêu dùng, môi trường đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Rau quả nhập từ nước ngoài vào rất độc hại. Vấn đề quản lý thị trường rau quả thực phẩm không có hiệu quả như mong muốn.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển nông nghiệp

24/12/2020 - 09:53 AM

Cỡ chữ

Việt Nam là quốc gia đang phát triển hướng đến mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuy nhiên, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhằm đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu. Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng chất lượng cao và bền vững, ứng dụng công nghệ sinh học được coi là công cụ quan trọng giúp nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc từ động vật và thực vật.

Từ đầu những năm 90, công nghệ sinh học được xem là 1 trong 4 hướng công nghệ cần ưu tiên phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó, các đề án, chương trình về công nghệ sinh học cấp quốc gia và ở nhiều bộ, ngành, địa phương trong lĩnh vực nông nghiệp đã, đang được xây dựng và triển khai thực hiện tập trung vào mục tiêu: Tạo ra các giống mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; tạo ra các công nghệ sản xuất các chế phẩm chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi; các công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Công nghệ sinh học đã đem lại hiệu quả cao, giúp giải quyết vấn đề hạn chế trong nông nghiệp như năng suất, kháng bệnh… đồng thời chứng minh được khả năng cải thiện và bảo vệ môi trường. Giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với các vấn đề về biến đổi khí hậu, tăng trưởng dân số nhanh và đất nông nghiệp bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa dẫn đến sự sụt giảm sản lượng nông nghiệp. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 và năm 2019 của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong vòng 10 năm, dân số Việt Nam đã tăng thêm khoảng 10,7 triệu người, từ 85,5 triệu người [năm 2009] lên 96,2 triệu người năm [2019]. Tính đến tháng 11/2020, Việt Nam là quốc gia có số dân đông thứ 15 trên thế giới và có diện tích khoảng 331,2 nghìn km2 [đứng thứ 65 trên thế giới]. Dự kiến dân số sẽ sớm đạt mốc 100 triệu người, điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam cần phải đảm bảo đủ lương thực cho số dân ngày một tăng này. Chưa kể Việt Nam còn là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất bởi các vấn đề do biến đổi khí hậu gây ra và ngành nông nghiệp là một trong những ngành bị tác động mạnh nhất do phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, thổ nhưỡng, thủy lợi… Do đó, nông nghiệp Việt Nam đã tìm đến các giải pháp từ công nghệ sinh học nhằm phát triển một nền nông nghiệp xanh bền vững, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và góp phần vào an ninh lương thực thế giới.

Một trong những mục tiêu phát triển công nghệ sinh học của Việt Nam những năm trở lại đây là tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, có sức chống chịu điều kiện tốt, phục vụ hiệu quả cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp thường được thực hiện thông qua các kỹ thuật tiên tiến điển hình như: Kỹ thuật cấy mô, kỹ thuật sinh học phân tử và kỹ thuật di truyền.

Ảnh minh họa, nguồn Internet

Trước đây, phương pháp cấy mô đã được các cơ sở, hộ gia đình và các nhà chọn giống ở Việt Nam áp dụng từ lâu. Đến nay, với kỹ thuật trong nuôi cấy mô, các nhà nghiên cứu có thể sản xuất giống trong phòng thí nghiệm để đưa ra sản xuất nhanh chóng hơn nhiều lần phương pháp truyền thống. Thành tựu điển hình chứng minh hiệu quả tăng năng suất khi ứng dụng công nghệ sinh học cho thấy, trong 1 năm, nhờ ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến có thể sản xuất 130 nghìn cây hồng, trong khi với phương pháp dâm cành truyền thống, người nông dân chỉ có thể được tối đa 50 cây.

Bên cạnh đó, các kỹ thuật sinh học phân tử giúp phát hiện những độc hại trong quá trình sản xuất, trong thức ăn hay trong hệ sinh thái [đất, các nôi vi sinh…]. Kỹ thuật này giúp cho việc chọn lọc ở giai đoạn rất sớm từ phôi hay mầm non của những cá thể mang những đặc tính có lợi như giới tính, sức chống chịu bệnh, sức kháng bệnh trong những điều kiện đặc biệt, đem lại hiệu quả cao trong lĩnh vực chuẩn đoán bệnh dịch cây trồng, vật nuôi và tạo con giống.

Đặc biệt, những thành công của kỹ thuật di truyền [kỹ thuật tái tổ hợp gen] được nghiên cứu và phát triển trong những năm gần đây được coi là cuộc cách mạng lớn của công nghệ sinh học. Ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhờ chuyển thành công nhiều gen lạ vào cây trồng, tạo ra các cây trồng mới chưa từng có, có khả năng kháng sâu hại, kháng thuốc diệt cỏ, kháng bệnh hại, ức chế sự chín nhanh của quả và nhiều loại gen khác. Bằng công nghệ RNAi, Viện Công nghệ sinh học đã phát triển được các dòng bông chuyển gen kháng virix xanh lùn; quy trình sản xuất chế phẩm BCF từ các chủng vi sinh vật phân lập từ đất…

Trên các cánh đồng Việt Nam, hàng loạt giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao được tạo ra nhờ công nghệ sinh học đã được đưa vào sản xuất. Kỹ thuật cấy mô của các chuyên gia sinh học Việt Nam cũng đạt được kết quả tốt trong việc nhân giống khoai tây, giống hoa và một số cây trồng khác. Một số giống lúa của Việt Nam được tạo ra bằng công nghệ sinh học như DR1, DR2 có những đặc tính tốt như: Khả năngchịu rét, đẻ nhánh khỏe và tập trung, cây thấp, ngắn ngày, năng suất cao [8-9 tấn/ha]. Các loại cây trồng biến đổi gen nhờ công nghệ sinh học đã, đang trở thành loại cây trồng được đưa vào ứng dụng nhanh nhất trong lịch sử.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, từ việc thực hiện lai kinh tế, đến nay với phương pháp truyền giống nhân tạo, các nhà nghiên cứu đã cải tạo giống, thực hiện nạc hóa đàn lợn và sinh hóa đàn bò. Ứng dụng Công nghệ sinh học để sản xuất tinh, phôi tươi và đông lạnh ở quy mô xí nghiệp nhỏ tự động hóa đã góp phần tăng nhanh số lượng đàn bò sữa trên cả nước, đồng thời tăng năng suất sữa. Việt Nam đã có hàng loạt gia súc thích hợp với khí hậu và điều kiện chăn nuôi trong nước. Tại một số địa phương, việc sử dụng tinh nhân tại cho thấy khả năng giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên từ 250-300 kg/con với tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần.

Ngoài ra, công nghệ vi sinh đã giúp phát triển nhiều loại vacxin như: Vacxin tụ huyết trùng trâu bò, vacxin dịch tả vịt và Parovirus lợn; các loại phân bón vi sinh và phân hữu cơ sinh học cũng được phát triển; bộ sinh phẩm để đồng thời chẩn đoán và định type virus lở mồm long móng lưu hành tại Việt Nam được Viện Công nghệ sinh học Việt Nam phát triển ước tính có giá thành chỉ bằng 1/3 kit nhập ngoại và có thao tác đơn giản, dễ sử dụng và bảo quản…

Bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy chế tại nhiều địa phương đã đạt được nhiều thành công. Việc sử dụng các sản phẩm sinh học để điều hòa và kiểm soát hệ vi sinh vật trong ao, cạnh tranh và chiễm chỗ các vi sinh vật gây bệnh, gia tăng sự phân hủy các hợp chất hữu cơ, giúp cải thiện môi trường sinh thái, củng cố hệ miễn dịch của thủy sản nuôi. Ngoài ra, biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp [IPM] đang được triển khai khắp cả nước những năm qua, thể hiện hiệu quả lớn trong “cuộc chiến” giảm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, giảm ô nhiễm môi trường và là biện pháp tích cực hướng đến nền nông nghiệp sạch và bền vững.

Có thể nói, những thành tựu ban đầu đạt được trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, thủy sản, y tế, môi trường nói chung và nông nghiệp nói riêng đã khẳng định vai trò quan trọng của nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học. Nông nghiệp Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể khi áp dụng những thành tựu công nghệ sinh học vào các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Qua đó giúp nâng cao năng suất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, tiết kiệm chi phí cho người nông dân, góp phần đem lại sự ổn định và bền vững của ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, công nghệ sinh học hiện đại của Việt Nam vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về năng lực nghiên cứu và phát triển, về đầu tư, hợp tác và hội nhập quốc tế, tiếp cận và trao đổi thông tin cùng các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Vì vậy, hiện nay và sau này, Việt Nam cần tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và triển khai công nghệ sinh học với đầu tư về cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực. Cần xây dựng các chính sách, định hướng chú trọng tăng cường ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các nghiên cứu về công nghệ sinh học vào thực tiễn sản xuất và các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là ứng dụng trong ngành Nông nghiệp./.

Công nghệ sinh học là một lĩnh vực công nghệ cao dựa trên nền tảng khoa học về sự sống, kết hợp với quy trình và thiết bị kỹ thuật nhằm tạo ra các công nghệ khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào thực vật và động vật để sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm sinh học có chất lượng cao.


Minh Hà

Về trang trước Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề