Thế nào được gọi là dung dịch

Thí nghiệm 1: Hòa tan muối ăn trong nước [hình 1].

Hình 1

Hiện tượng: Muối ăn tan hết trong nước tạo thành nước muối, không còn phân biệt được đâu là nước, đâu là muối ăn.

Ta nói: Muối ăn là chất tan, nước là dung môi của muối ăn, nước muối là dung dịch.

Thí nghiệm 2: Cho một thìa dầu ăn vào cốc đựng xăng và vào cốc đựng nước, khuấy đều.

Hiện tượng: Với cốc đựng xăng, dầu ăn bị hòa tan tạo thành dung dịch. Còn nước thì không hòa tan được dầu ăn.

Ta nói: Xăng là dung môi của dầu ăn còn nước không phải là dung môi của dầu ăn.

Kết luận

  • Dung môi là chất có thể hòa tan chất khác để tạo thành dung dịch.
  • Chất tan là chất bị hòa tan trong dung môi.
  • Dung dịch là hỗn hợp đồng nhất của dung môi và chất tan.

@92198@@92199@

Thí nghiệm: Cho dần dần và liên tục đường vào cốc nước, khuấy nhẹ [hình 3].

Hình 3

Hiện tượng

  • Khi mới thêm đường vào cốc, lượng đường thêm vào bao nhiêu thì bị hòa tan hết bấy nhiêu. Ta nói lúc này dung dịch chưa bão hòa.
  • Sau một thời gian, đường thêm vào cốc nhưng dung dịch đường không thể hòa tan thêm nữa. Ta nói dung dịch lúc này đã bão hòa.

Kết luận

Ở một nhiệt độ nhất định:

  • Dung dịch chưa bão hòa là dung dịch có thể hòa tan thêm chất tan.
  • Dung dịch bão hòa là dung dịch không thể hòa tan thêm chất tan.

@92304@

Muốn quá trình hòa tan xảy ra nhanh hơn ta phải làm tăng sự tiếp xúc của chất rắn với các phân tử nước bằng các cách sau:

Sự khuấy làm cho chất rắn bị hòa tan nhanh hơn, vì nó luôn tạo ra sự tiếp xúc mới giữa các chất rắn và phân tử nước.

Đun nóng dung dịch làm cho chất rắn bị hòa tan nhanh hơn. Vì ở nhiệt độ càng cao các phân tử nước càng di chuyển nhanh, tăng số lần va chạm của phân tử nước và chất rắn.

Hình 4: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến độ tan trong nước của một số muối.

Tuy nhiên có một số ít chất rắn thì ngược lại, độ tan trong nước lại giảm đi khi nhiệt độ của nước tăng lên. 
Ví dụ: Natri sunfat [Na2SO4], liti cacbonat [Li2CO3].

Đối với những chất lỏng có nhiệt độ sôi thấp hơn nước [dưới 100oC], thì sự đun nóng sẽ làm giảm sự hòa tan.
Ví dụ: Rượu etylic tan vô hạn trong nước ở nhiệt độ phòng, còn khi nhiệt độ của dung dịch vượt quá 78cC thì rượu etylic lại không tan trong nước nữa.

Đối với chất khí, nhiệt độ của dung dịch càng cao thì quá trình hòa tan trong nước của chất khí càng giảm.

Khi nghiền nhỏ chất rắn, diện tích tiếp xúc của chất rắn với các phân tử nước tăng lên dẫn đến chất rắn bị hòa tan nhanh hơn.

@92315@

1. Dung dịch là hỗn hợp đồng nhất của dung môi vào chất tan.

2. Ở nhiệt độ xác định:

  • Dung dịch chưa bão hòa là dung dịch có thể hòa tan thêm chất tan.
  • Dung dịch bão hòa là dung dịch không thể hòa tan thêm chất tan.

3. Muốn chất rắn tan nhanh trong nước, ta thực hiện 1,2 hoặc cả 3 biện pháp sau:

  • Khuấy dung dịch.
  • Đun nóng dung dịch.
  • Nghiền nhỏ chất rắn.

Trong quá trình học tập, nếu có bất kỳ thắc mắc nào, các em hãy để lại câu hỏi ở mục hỏi đáp để cùng thảo luận và trả lời nhé. Chúc các em học tốt!

Trong hóa học một dung dịch là một hỗn hợp đồng nhất và chỉ có một pha. Trong một hỗn hợp như vậy, một chất tan là một chất hòa tan được trong một chất khác, được biết là dung môi.

Dung môi thực hiện quá trình phân rã. Dung dịch ít nhiều đều mang các đặc tính của dung môi bao gồm cả pha của nó, và các dung môi thường chiếm phần lớn trong dung dịch. Nồng độ của một chất tan trong dung dịch là cách xác định có bao nhiêu chất tan đó hòa tan được trong dung môi [ở đây là nước].

Dung dịch là hỗn hợp đồng nhất

2. Các đặc tính

- Dung dịch là một hỗn hợp đồng nhất.

- Các cấu tử tan trong dung dịch không thể nhìn thấy được bằng mắt thường.

- Dung dịch không để cho chùm ánh sáng phân tán.

- Dung dịch có tính ổn định.

- Chất tan từ dung dịch không thể tách ra được bằng cách lọc

3. Phân loại

Dung dịch khí: Nếu dung môi ở dạng khí, chỉ có các khí khác hòa tan được dưới những điều kiện cho phép

Dung dịch lỏng: Nếu dung môi là chất lỏng thì các chất dạng khí, lỏng hoặc rắn khác có thể hòa tan vào được.

Dung dịch rắn: Nếu dung môi là chất rắn thì các chất khí chất lỏng hoặc chất rắn khác có thể hòa tan vào được.

Có 3 loại dung dịch

4. Tính chất

Tính chất vật lý của các hợp chất như điểm chảy và điểm sôi sẽ thay đổi khi các hợp chất khác được thêm vào. Chúng được gọi là những tính chất tập hợp. Có vài cách để định lượng được lượng chất hòa tan trong các hợp chất khác và được gọi chung là nồng độ. Ví dụ như phân tử gam, phần thể tích, và phần mol.

Các tính chất của các dung dịch lý tưởng có thể được tính bằng tổ hợp tuyến tính của những tính chất từ những thành phần của nó. Nếu cả chất tan và dung môi tồn tại với lượng bằng nhau, thì các khái niệm về chất tan và dung môi trở nên ít liên quan, nhưng chất mà thường được sử dụng như một dung môi thì vẫn thường được xem như là dung môi.

Thế nào là dung dịch? Cho ví dụ? [ xác định dung môi và chất tan]



Dung dịch ít nhiều đều mang các đặc tính của dung môi bao gồm cả pha của nó, và các dung môi thường chiếm phần lớn trong dung dịch. Nồng độ của một chất tan trong dung dịch là cách xác định có bao nhiêu chất tan đó hòa tan được trong dung môi.

Các đặc tính dung dịch là gì?


Dung dịch là một hỗn hợp đồng nhất. Các cấu tử tan trong dung dịch không thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Dung dịch không để cho chùm ánh sáng phân tán. Dung dịch có tính ổn định. Chất tan từ dung dịch không thể tách ra được bằng cách lọc [hoặc bằng phương pháp cơ học].

Tính tan của dung dịch

Khả năng để một hợp chất hòa tan được trong một hợp chất khác được gọi là tính tan. Khi một chất lỏng có thể hòa tan hoàn toàn vào một chất lỏng khác thì hai chất lỏng đó có thể trộn lẫn vào nhau được.

Hai chất mà không thể trộn với nhau để tạo thành dung dịch thì được gọi là không trộn lẫn vào nhau được. Tất cả các dung dịch đều có entropy rõ ràng khi trộn lẫn. Sự tương tác giữa các phân tử hoặc ion khác nhau có thể thuận lợi về mặt năng lượng hoặc không.

Nếu sự tương tác không thuận lợi, thì năng lượng tự do sẽ giảm đi khi nồng độ chất tan ngày càng tăng. Vào một thời điểm nào đó phần năng lượng mất đi sẽ cao hơn là entropy có được, và không có các cấu tử chất tan nào có thể được hòa tan nữa; khi đó dung dịch được cho là bão hòa.

Tuy nhiên, thời điểm mà một dung dịch có thể trở thành bão hòa có thể thay đổi đáng kể với các nhân tố môi trường khác nhau, chẳng hạn như nhiệt độ, áp suất và sự ô nhiễm.

Với vài sự kết hợp giữa dung môi và chất tan thì một dung dịch siêu bão hòa có thể được tạo ra bằng cách tăng khả năng hòa tan [ví dụ bằng cách tăng nhiệt độ] để hòa tan chất tan nhiều hơn, và sau đó giảm nó xuống [ví dụ bằng cách làm lạnh]. Thường thì khi nhiệt độ dung môi càng cao, các chất tan dạng rắn càng tan nhiều hơn.

Tuy nhiên, hầu hết các loại khí và một vài hợp chất lại có tính tan giảm khi nhiệt độ tăng. Đây là do kết quả của entanpi tỏa nhiệt của dung dịch. Vài hoạt chất bề mặt có tính chất này. Tính tan của chất lỏng trong chất lỏng thì ít thay đổi với nhiệt hơn là chất rắn hay chất khí.

Tính chất của dung dịch

Tính chất vật lý của các hợp chất như điểm chảy và điểm sôi sẽ thay đổi khi các hợp chất khác được thêm vào. Chúng được gọi là những tính chất tập hợp. Có vài cách để định lượng được lượng chất hòa tan trong các hợp chất khác và được gọi chung là nồng độ.

Ví dụ như phân tử gam, phần thể tích, và phần mol. Các tính chất của các dung dịch lý tưởng có thể được tính bằng tổ hợp tuyến tính của những tính chất từ những thành phần của nó.

Nếu cả chất tan và dung môi tồn tại với lượng bằng nhau [chẳng hạn như trong một dung dịch gồm 50% êtanol, 50% nước], thì các khái niệm về "chất tan" và "dung môi" trở nên ít liên quan, nhưng chất mà thường được sử dụng như một dung môi thì vẫn thường được xem như là dung môi [trong ví dụ này là nước].

Chất lỏng dung dịch

Về nguyên tắc, tất cả các loại chất lỏng có thể hoạt động như dung môi: khí hiếm dạng lỏng, kim loại nóng chảy, muối nóng chảy, các mạng lưới liên kết cộng hóa trị nóng chảy, và các chất lỏng phân tử. Trong thực hành hóa học và hóa sinh, hầu hết các dung môi là chất lỏng phân tử. Chúng có thể được phân loại thành phân cực và không phân cực, tùy thuộc vào moment lưỡng cực điện của chúng. Một cách phân biệt khác là các phân tử của chúng có thể hình thành liên kết hiđrô hay không.

Nước là dung môi thường được sử dụng nhất, là dung môi lưỡng cực và duy trì liên kết hydro. Các muối hòa tan trong dung môi phân cực, tạo thành các ion dương và âm được thu hút đến gốc âm và dương của các phân tử dung môi tương ứng.

Nếu dung môi là nước, sự hydrat hóa xảy ra khi các ion chất tan bị bao quanh bởi các phân tử nước. Một ví dụ tiêu chuẩn là nước muối. Những dung dịch như vậy được gọi là dung dịch điện giải. Đối với các chất tan dạng không ion, thì có một quy luật chung: Giống nhau mới hòa tan vào nhau. Các chất tan phân cực hòa tan trong dung môi phân cực, tạo thành liên kết phân cực hoặc là liên kết hydro. Ví dụ, các thức uống có cồn đều là dung dịch dạng nước của ethanol. Trái lại, các chất tan không phân cực hòa tan tốt hơn trong dung môi không phân cực.

Ví dụ, các hydrocacbon như dầu và mỡ dễ dàng trộn lẫn với nhau, nhưng không trộn với nước được. Một ví dụ về sự không trộn lẫn với nhau của dầu và nước là những vết dầu loang trên mặt nước.

Kết luận


 Dung dịch là một hỗn hợp đồng nhất. Các cấu tử tan trong dung dịch không thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Dung dịch không để cho chùm ánh sáng phân tán. Dung dịch có tính ổn định. Chất tan từ dung dịch không thể tách ra được bằng cách lọc [hoặc bằng phương pháp cơ học].


Trân trọng! Cảm ơn bạn đã luôn theo dõi các bài viết trên Website VietAdsGroup.Vn của công ty chúng tôi!


Quay lại danh mục "Hỏi đáp là gì" Quay lại trang chủ

Dung môi là gì? Các biện pháp phòng tránh dung môi là gì?

Bài viết tạo bởi: VietAds | Ngày cập nhật: 2022-02-10 19:44:32 | FAQPage[223] - No Audio

Bài viết tạo bởi: VietAds | Ngày cập nhật: 2022-02-10 19:45:07 | FAQPage[162] - No Audio

Video liên quan

Chủ Đề