Theo quy định của pháp luật công dân thuộc các tôn giáo được Nhà nước công nhận đề

Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Như vậy, việc theo hay không theo tín ngưỡng hoặc tôn giáo nào là quyền tự do của mỗi cá nhân, mỗi công dân Việt Nam được Hiến pháp 2013 thừa nhận. Đồng thời, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng đã được cụ thể hóa bằng những quy định rõ ràng trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 18-11-2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2018.

Theo Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như sau:

- Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.

- Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.

- Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

- Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.

Điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, bên cạnh đó, Luật đưa ra các điều kiện cụ thể cho việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo như sau:

- Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo;

- Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo;

- Có chương trình, nội dung đào tạo;

- Có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo.

Về hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo Luật quy định:

Chậm nhất là 20 ngày trước khi cơ sở đào tạo tôn giáo bắt đầu hoạt động, người đại diện cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo kèm theo văn bản thành lập, quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh, danh sách thành viên ban lãnh đạo, báo cáo về nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất để bảo đảm hoạt động.

 Việc tổ chức đào tạo, tuyển sinh của cơ sở đào tạo tôn giáo thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh đã thông báo.

 Cơ sở đào tạo tôn giáo khi sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản đăng ký nêu rõ lý do, nội dung thay đổi kèm theo quy chế sửa đổi. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. Cơ sở đào tạo tôn giáo được hoạt động theo quy chế sửa đổi sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.

Cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về kết quả đào tạo của từng khóa học với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc khóa học. Văn bản thông báo nêu rõ tên cơ sở đào tạo tôn giáo, khóa đào tạo, số học viên tốt nghiệp.

Về nguyên tắc hoạt động tín ngưỡng

- Về nguyên tắc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, Luật quy định hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.

Về người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng, nhằm tạo điều kiện cho cơ sở tín ngưỡng hoạt động có hiệu quả, Luật quy định cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng như đăng ký hoạt động tín ngưỡng, thông báo việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ; thông báo về tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi; quản lý và sử dụng khoản thu đúng mục đích, công khai, minh bạch.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín trong cộng đồng dân cư; việc bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử. Căn cứ vào kết quả bầu, cử, Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhận người đại diện hoặc thành viên ban quản lý trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu cử.

Tô Huệ

Chùa Vĩnh Nghiêm - một công trình nổi tiếng tiêu biểu cho kiến trúc Phật giáo Việt Nam hiện đại.

[Thanhuytphcm.vn] - Nhân việc điểm nhóm truyền giáo Phục Hưng bị khởi tố, các thế lực thù địch đã ngay lập tức vin vào việc này để chống phá với luận điệu cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ ưu ái Phật giáo và kỳ thị các tôn giáo khác.

Không thể phủ nhận rằng từ khi du nhập vào Việt Nam và gắn bó với quá trình phát triển của dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã có công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc và luôn đồng hành cùng dân tộc. Thế nhưng, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là cả sự hy sinh của các thế hệ người Việt Nam, trong đó có đồng bào của tất cả các tôn giáo khác trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam trong chủ trương và chính sách luôn luôn nhất quán quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân và tôn trọng tất cả các tôn giáo cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động và phát triển.

Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiến định. Trong xã hội Việt Nam có rất nhiều dân tộc, tôn giáo. Vì vậy, vai trò của Đảng là lãnh đạo Nhà nước và các cơ quan trong hệ thống chính trị thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, các chính sách của Nhà nước, trong đó có vấn đề về tôn giáo. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm về tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”.

Nhà thờ Tân Định với màu hồng đặc trưng trong mùa lễ Giáng sinh 2019. [Ảnh: TTXVN]

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa đã khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”. Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, quan điểm này là nhất quán và làm rõ hơn khi khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Ngoài ra, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định luôn cảnh giác, đấu tranh với các âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước; chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố trước thế giới về quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật… cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Hành vi bị nghiêm cấm: cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi; các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn công cộng, môi trường, xâm hại đạo đức xã hội, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân… Về quy định điều kiện thời gian để công nhận tổ chức tôn giáo: tổ chức tôn giáo hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 5 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ được công nhận. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân; Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng và các tổ chức tôn giáo.

Lễ khánh thành Thánh Thất Phước Thạnh [xã Phước Thạnh, Củ Chi] - một Thánh Thất Cao Đài - vào năm 2016.

Thực tế, ở Việt Nam hiện nay tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm. Nhiều ngày lễ trọng của nhiều tôn giáo đã trở thành ngày lễ chung của cộng đồng. Mọi người dân Việt Nam đều có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và đảm bảo. Ở Việt Nam ngày càng có thêm nhiều tổ chức tôn giáo được công nhận và hoạt động. Số lượng các tín đồ tôn giáo tăng nhanh. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký chính thức. Tuy nhiên, đây chỉ là con số mà người dân tự khai, con số trong thực tế lớn hơn rất nhiều. Năm tôn giáo lớn nhất là Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Tin Lành và Cao Đài. Ngoài ra còn rất nhiều người Việt Nam có tín ngưỡng khác. Tất cả các tôn giáo được Nhà nước cấp phép và hoạt động đúng pháp luật đều được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo, truyền đạo, in ấn, phát hành kinh sách, đào tạo - giáo dục...

Sử dụng chiêu bài lợi dụng tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội Việt Nam là chiêu bài không mới. Tuy nhiên, khác với trước đây, các thế lực chống đối cho rằng cộng sản không dung hợp với tôn giáo [sic], thì hiện nay họ lại sử dụng một chiêu bài khác, cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam ưu ái Phật giáo nhưng kỳ thị các tôn giáo khác[!?].

Cho rằng Việt Nam ưu ái Phật giáo và kỳ thị tôn giáo khác là chiêu bài thâm độc nhằm gây hận thù, chia rẽ giữa các tôn giáo và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng ở Việt Nam không có cái gọi là ưu ái tôn giáo này mà kỳ thị và gây khó khăn cho tôn giáo kia và ngược lại. Vfa, có thể khẳng định rằng chưa bao giờ đời sống tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm, tôn trọng và sôi động như hiện nay.

Viễn Trung

Tin liên quan

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề