Top 100 nam nghệ sĩ mọi thời đại năm 2022

Top 100 nam nghệ sĩ mọi thời đại năm 2022

Ban nhạc The Beatles

Show

Trong danh sách Top 10 nữ nghệ sĩ mọi thời đại, danh ca Madonna có tới 57 lần lọt vào bảng xếp hạng Hot 100 và 12 lần đạt vị trí đầu bảng. Madonna còn giữ kỷ lục nghệ sĩ có số bài hát trong Top 10 Hot 100 nhiều nhất, với 38 bài.

Đứng thứ 2 là diva Mariah Carey với 18 lần chiếm vị trí quán quân bảng xếp hạng Hot 100. Danh sách ghi nhận 3 ngôi sao nữ trẻ gặt hái được nhiều thành tựu vang dội, gồm Rihanna ở vị trí thứ 5, Taylor Swift đứng thứ 8 và Katy Perry đứng thứ 9.

Ở Top 10 nam nghệ sĩ mọi thời đại, Drake là ca sĩ trẻ duy nhất bên cạnh các ngôi sao lừng danh. Elton John có 67 lần lọt vào Hot 100, trong số đó có 9 lần quán quân và 27 lần Top 10. Ca khúc Candle in the wind của ông có 14 tuần ở vị trí đầu bảng danh sách Hot 100.

Ban nhạc The Beatles có 20 lần giữ vị trí đầu bảng Hot 100. Nhóm cũng chiếm 5 vị trí đầu tiên Hot 100 cùng lúc vào ngày 4/4/1964, với các ca khúc Cant buy me love, Twist and Shout, She loves you, I want to hold your hand và Please please me. Ngoài ra, danh sách này còn có The Rolling Stones, Bee Gees, Chicago, The Supremes... Ngôi sao trẻ Justin Bieber đứng vị trí thứ 38, Maroon 5 đứng thứ 11.

Nhóm nhạc The Beatles cũng là thành viên trong nhóm 10-Timers (những ngôi sao có trên 10 lần đứng vị trí quán quân ở bảng xếp hạng Hot 100), với con số 20 lần chỉ trong vòng 6 năm (từ 1964 - 1970). Xếp sau là diva Mariah Carey với 18 lần quán quân Hot 100, từ 1990 - 2008. Ngôi sao trẻ Rihanna cũng 14 lần chiếm giữ vị trí đầu bảng, còn Michael Jackson chỉ có 13 lần.

 (Nguồn: Billboard)

  • Ed Sheeran - nghệ sĩ có đĩa bán chạy nhất toàn cầu 2017

  • Mạng trực tuyến cứu nền công nghiệp âm nhạc thế giới

  • Nghệ sĩ cảnh quan Andy Cao lang thang cùng “đám mây pha lê”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Top 100 nam nghệ sĩ mọi thời đại năm 2022

Dưới đây là danh sách những kỷ lục và thành tựu liên quan tới bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của tạp chí Billboard.

Thành tựu Hot 100 mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của Hot 100, tạp chí Billboard đã cho xuất bản danh sách 100 bài hát và nghệ sĩ thành công nhất trên bảng xếp hạng trong vòng 50 năm qua.[1][2] Năm 2013, Billboard sửa đổi nó một lần nữa cho ấn bản kỷ niệm lần thứ 55 của bảng xếp hạng.[3] Năm 2015, Billboard sửa đổi bảng xếp hạng một lần nữa.[4] Năm 2018, bảng xếp hạng được sửa đổi một lần nữa cho kỷ niệm 60 năm của bảng xếp hạng.[5] Dưới đây là 10 bài hát và nghệ sĩ thành công nhất trong khoảng thời gian 60 năm của Hot 100, tính đến tháng 7 năm 2018.

Top 10 bài hát của mọi thời đại (1958–2018)[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng Đĩa đơn Năm phát hành Nghệ sĩ Vị trí cao nhất
1. "The Twist" 1960, 1961* Chubby Checker #1 trong 3 tuần
2. "Smooth" 1999 Santana hợp tác với Rob Thomas #1 trong 12 tuần
3. "Mack the Knife" 1959 Bobby Darin #1 trong 9 tuần
4. "Uptown Funk" 2015 Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars #1 trong 14 tuần
5. "How Do I Live" 1997 LeAnn Rimes #2 trong 4 tuần
6. "Party Rock Anthem" 2011 LMFAO hợp tác với Lauren Bennett & GoonRock #1 trong 6 tuần
7. "I Gotta Feeling" 2009 The Black Eyed Peas #1 trong 14 tuần
8. "Macarena (Bayside Boys mix)" 1996 Los Del Rio #1 trong 14 tuần
9. "Shape of You" 2017 Ed Sheeran #1 trong 12 tuần
10. "Physical" 1981 Olivia Newton-John #1 trong 10 tuần

* — phát hành lại
Nguồn:[6]

Top 10 nghệ sĩ của mọi thời đại (1958–2020)[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng Nghệ sĩ
1. The Beatles
2. Madonna
3. Elton John
4. Elvis Presley
5. Mariah Carey
6. Stevie Wonder
7. Janet Jackson
8. Michael Jackson
9. Whitney Houston
10. Rihanna

Nguồn:[7]

Thành tựu của bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Đứng đầu bảng nhiều tuần nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần Nghệ sĩ Bài hát Năm
19 Lil Nas X (hát đơn hoặc hợp tác với Billy Ray Cyrus) "Old Town Road" 2019
16 Mariah Carey và Boyz II Men "One Sweet Day" 1995–96
Luis Fonsi và Daddy Yankee
hợp tác với Justin Bieber
"Despacito" 2017
14 Whitney Houston "I Will Always Love You" 1992–93
Boyz II Men "I'll Make Love to You" 1994
Los del Río "Macarena" (Bayside Boys Mix) 1996
Elton John "Candle in the Wind 1997" /
"Something About the Way You Look Tonight"
1997
Mariah Carey "We Belong Together" 2005
The Black Eyed Peas "I Gotta Feeling" 2009
Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars "Uptown Funk" 2015
13 Boyz II Men "End of the Road" 1992
Brandy và Monica "The Boy Is Mine" 1998
12 Santana hợp tác với Rob Thomas "Smooth" 1999–2000
Eminem "Lose Yourself" 2002–03
Usher hợp tác với Lil Jon và Ludacris "Yeah!" 2004
The Black Eyed Peas "Boom Boom Pow" 2009
Robin Thicke hợp tác với T.I. và Pharrell "Blurred Lines" 2013
Wiz Khalifa hợp tác với Charlie Puth "See You Again" 2015
The Chainsmokers hợp tác với Halsey "Closer" 2016
Ed Sheeran "Shape of You" 2017
11 Elvis Presley † "Hound Dog" / "Don't Be Cruel" 1956
All-4-One "I Swear" 1994
Toni Braxton "Un-Break My Heart" 1996–97
Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112 "I'll Be Missing You" 1997
Destiny's Child "Independent Women Part I" 2000–01
Drake "God's Plan" 2018
10 The McGuire Sisters †† "Sincerely" 1955
Pérez Prado ††† "Cherry Pink and Apple Blossom White"
Debby Boone "You Light Up My Life" 1977
Olivia Newton-John "Physical" 1981–82
Santana hợp tác với The Product G&B "Maria Maria" 2000
Ashanti "Foolish" 2002
Nelly hợp tác với Kelly Rowland "Dilemma"
Kanye West hợp tác với Jamie Foxx "Gold Digger" 2005
Beyoncé "Irreplaceable" 2006–07
Flo Rida hợp tác với T-Pain "Low" 2008
Rihanna hợp tác với Calvin Harris "We Found Love" 2011–12
Pharrell Williams "Happy" 2014
Adele "Hello" 2015–16
Drake hợp tác với Wizkid và Kyla "One Dance" 2016
Drake "In My Feelings" 2018

† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores" và "Most Played in Jukeboxes".
†† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Most Played by Jockeys".
††† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores".

Nguồn::[8]

Đứng nhì nhiều tuần nhất (mà không đạt hạng nhất)[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần Nghệ sĩ Bài hát Năm
10 Foreigner "Waiting for a Girl Like You" 1981–82
Missy Elliott "Work It" 2002–03
9 Donna Lewis "I Love You Always Forever" 1996
Shania Twain "You're Still the One" 1998
8 Shai "If I Ever Fall in Love" 1992–93
Deborah Cox "Nobody's Supposed to Be Here" 1998–99
Brian McKnight "Back at One" 1999–2000
Mario Winans hợp tác với Enya và P. Diddy "I Don't Wanna Know" 2004
Ed Sheeran "Thinking Out Loud" 2015

Nguồn:[9]

Nhiều tuần trong top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
tuần
Nghệ sĩ Bài hát Năm Nguồn
33 Ed Sheeran "Shape of You" 2017 [10]
Maroon 5 hợp tác với Cardi B "Girls Like You" 2018–19 [10]
32 LeAnn Rimes "How Do I Live" 1997–98 [10]
The Chainsmokers hợp tác với Halsey "Closer" 2016–17 [10]
Travis Scott "Sicko Mode" 2018–19 [10]
31 Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars "Uptown Funk" 2014–15 [10]
30 Santana hợp tác với Rob Thomas "Smooth" 1999–2000 [10]
29 LMFAO hợp tác với Lauren Bennett và GoonRock "Party Rock Anthem" 2011–12 [11]
Halsey "Without Me" 2018–19 [10]
28 Jewel "You Were Meant for Me"/"Foolish Games" 1997 [11]
Bruno Mars "That's What I Like" 2017 [11]

Nhiều tuần trong bảng xếp hạng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 88 tuần – The Weeknd –– "Blinding Lights" (2019)
  • 87 tuần – Imagine Dragons — "Radioactive" (2014)[12]
  • 79 tuần – Awolnation — "Sail" (2014)[12]
  • 76 tuần – Jason Mraz — "I'm Yours" (2009)[12]
  • 69 tuần – LeAnn Rimes — "How Do I Live" (1998)[12]
  • 68 tuần – LMFAO hợp tác với Lauren Bennett và GoonRock — "Party Rock Anthem" (2012),[12] OneRepublic — "Counting Stars" (2014)
  • 65 tuần – Jewel — "Foolish Games" / "You Were Meant for Me" (1998), Adele — "Rolling in the Deep" (2012)[12]
  • 64 tuần – Carrie Underwood — "Before He Cheats" (2007)[12]
  • 62 tuần – Lifehouse — "You and Me" (2006), The Lumineers — "Ho Hey" (2013)[12]

Năm được thể hiện trong ngoặc là năm được tính trong tuần cuối cùng của bài hát trên bảng xếp hạng.

Ra mắt ở vị trí số một[sửa | sửa mã nguồn]

  • Michael Jackson — "You Are Not Alone" (2 tháng 9 năm 1995)
  • Mariah Carey — "Fantasy" (30 tháng 9 năm 1995)
  • Whitney Houston — "Exhale (Shoop Shoop)" (25 tháng 11 năm 1995)
  • Mariah Carey và Boyz II Men — "One Sweet Day" (2 tháng 12 năm 1995)
  • Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112 — "I'll Be Missing You" (14 tháng 6 năm 1997)
  • Mariah Carey — "Honey" (13 tháng 9 năm 1997)
  • Elton John — "Candle in the Wind 1997" / "Something About the Way You Look Tonight" (11 tháng 10 năm 1997)
  • Céline Dion — "My Heart Will Go On" (28 tháng 2 năm 1998)
  • Aerosmith — "I Don't Want to Miss a Thing" (5 tháng 9 năm 1998)
  • Lauryn Hill — "Doo Wop (That Thing)" (14 tháng 11 năm 1998)
  • Clay Aiken — "This Is the Night" (28 tháng 6 năm 2003)
  • Fantasia — "I Believe" (10 tháng 7 năm 2004)
  • Carrie Underwood — "Inside Your Heaven" (2 tháng 7 năm 2005)
  • Taylor Hicks — "Do I Make You Proud" (1 tháng 7 năm 2006)
  • Britney Spears — "3" (24 tháng 10 năm 2009)
  • Eminem — "Not Afraid" (22 tháng 5 năm 2010)
  • Kesha — "We R Who We R" (13 tháng 11 năm 2010)
  • Britney Spears — "Hold It Against Me" (29 tháng 1 năm 2011)
  • Lady Gaga — "Born This Way" (26 tháng 2 năm 2011)
  • Katy Perry — "Part of Me" (3 tháng 3 năm 2012)
  • Baauer — "Harlem Shake" (2 tháng 3 năm 2013)[13]
  • Taylor Swift — "Shake It Off" (6 tháng 9 năm 2014)[14]
  • Justin Bieber — "What Do You Mean?" (19 tháng 9 năm 2015)[15]
  • Adele — "Hello" (14 tháng 11 năm 2015)[16]
  • Zayn — "Pillowtalk" (20 tháng 2 năm 2016)[17]
  • Justin Timberlake — "Can't Stop the Feeling!" (28 tháng 5 năm 2016)[18]
  • Ed Sheeran — "Shape of You" (28 tháng 1 năm 2017)[19]
  • DJ Khaled hợp tác với Justin Bieber, Quavo, Chance the Rapper và Lil Wayne – "I'm the One" (20 tháng 5 năm 2017)[20]
  • Drake – "God's Plan" (3 tháng 2 năm 2018)
  • Drake – "Nice for What" (21 tháng 4 năm 2018)
  • Childish Gambino – "This Is America" (19 tháng 5 năm 2018)
  • Ariana Grande – "Thank U, Next" (17 tháng 11 năm 2018)
  • Ariana Grande – "7 Rings" (2 tháng 2 năm 2019)
  • Jonas Brothers – "Sucker" (16 tháng 3 năm 2019)
  • Ariana Grande, Justin Bieber − "Stuck with U" (23 tháng 5 năm 2020)
  • Lady Gaga, Ariana Grande − "Rain On Me" (6 tháng 6 năm 2020)
  • Taylor Swift – "Cardigan" (8 tháng 8 năm 2020)
  • BTS – "Dynamite" (5 tháng 9 năm 2020)
  • Ariana Grande − "postitions" (7 tháng 11 năm 2020)
  • BTS − "Life Goes On" (5 tháng 12 năm 2020)
  • Taylor Swift – "willow" (26 tháng 12 năm 2020)
  • Olivia Rodrigo – "drivers license" (23 tháng 1 năm 2021)
  • Drake – "What's Next" (20 tháng 3 năm 2021)
  • Justin Bieber, Daniel Ceasar, Giveon - Peaches (3 tháng 4 năm 2021)
  • Lil Nas X - Montero (Call Me By Your Name) (10 tháng 4 năm 2021)
  • Polo G - Rapstar (24 tháng 4 năm 2021)
  • Olivia Rodrigo - good 4 u (29 tháng 5 năm 2021)
  • BTS - Butter (5 tháng 6 năm 2021)

Từ năm 2009, mỗi năm có ít nhất một bài hát mở đầu tại vị trí quán quân. Năm 2020 và 2021, có bảy bài hát mở đầu tại vị trí quán quân (nắm giữ kỷ lục về số lượng). Nguồn:[21]

Bước nhảy lên đầu bảng lớn nhất[22][sửa | sửa mã nguồn]

  • 97–1 – Kelly Clarkson — "My Life Would Suck Without You" (7 tháng 2 năm 2009)[23]
  • 96–1 – Britney Spears — "Womanizer" (25 tháng 10 năm 2008)
  • 80–1 – T.I. hợp tác với Rihanna — "Live Your Life" (18 tháng 10 năm 2008)[24]
  • 78–1 – Eminem, Dr. Dre và 50 Cent — "Crack a Bottle" (21 tháng 2 năm 2009)[25]
  • 77–1 – Taylor Swift – "Look What You Made Me Do" (16 tháng 9 năm 2017)[26]
  • 72–1 – Taylor Swift — "We Are Never Ever Getting Back Together" (1 tháng 9 năm 2012)[27]
  • 71–1 – T.I. — "Whatever You Like" (6 tháng 9 năm 2008)[28]
  • 64–1 – Maroon 5 — "Makes Me Wonder" (12 tháng 5 năm 2007)
  • 60–1 – Rihanna hợp tác với Drake — "What's My Name?" (20 tháng 11 năm 2010)[29]
  • 58–1 – Flo Rida — "Right Round" (28 tháng 2 năm 2009)[30]
  • 53–1 – Rihanna — "Take a Bow" (24 tháng 5 năm 2008)[31]
  • 53–1 – Taio Cruz hợp tác với Ludacris — "Break Your Heart" (20 tháng 3 năm 2010)[32]
  • 53–1 – Taylor Swift hợp tác với Kendrick Lamar — "Bad Blood" (6 tháng 6 năm 2015)[33]

Từ năm 1955–2001, dưới phương pháp thống kê trước đây của Billboard, việc nhảy hạng đối với các bài hát là rất khó xảy ra, và chỉ có hai đĩa đơn nhảy lên vị trí số một từ một thứ hạng dưới top 20: "Can't Buy Me Love" của The Beatles, từ vị trí thứ 27 đến vị trí quán quân vào tháng 4 năm 1964, và "The Boy Is Mine" của Brandy và Monica từ hạng 23 đến hạng nhất vào tháng 6 năm 1998.

Bước nhảy lớn nhất trong một tuần[sửa | sửa mã nguồn]

  • 100–2 (98 hạng) – Taylor Swift hợp tác với Brendon Urie – "Me!" (11 tháng 5 năm 2019)[34]
  • 97–1 (96 hạng) – Kelly Clarkson — "My Life Would Suck Without You" (7 tháng 2 năm 2009)[35]
  • 96–1 (95 hạng) – Britney Spears — "Womanizer" (25 tháng 10 năm 2008)[36]
  • 94–3 (91 hạng) – Beyoncé và Shakira — "Beautiful Liar" (7 tháng 4 năm 2007)[37]
  • 95–7 (88 hạng) – Akon hợp tác với Eminem — "Smack That" (14 tháng 10 năm 2006)[38]
  • 97–9 (88 hạng) – Drake hợp tác với Nicki Minaj — "Make Me Proud" (5 tháng 11 năm 2011)[39]
  • 96–11 (85 hạng) – Carrie Underwood — "Cowboy Casanova" (10 tháng 10 năm 2009)[40]
  • 100–15 (85 hạng) – A. R. Rahman và Pussycat Dolls hợp tác với Nicole Scherzinger — "Jai Ho! (You Are My Destiny)" (14 tháng 3 năm 2009)[41]
  • 85–2 (83 hạng) – Katy Perry — "Roar" (31 tháng 8 năm 2013)[42]
  • 86–4 (82 hạng) – Vanessa Hudgens và Zac Efron — "Breaking Free" (11 tháng 2 năm 2006)[43]
  • 93–12 (81 hạng) – Matchbox Twenty — "How Far We've Come" (22 tháng 9 năm 2007)[44]
  • 93-12 (81 hạng) – Kygo và Selena Gomez — "It Ain't Me" (11 tháng 3 năm 2017)[45]
  • 100-19 (81 hạng) – Lorde — "Green Light" (25 tháng 3 năm 2017)[46]

Mất nhiều thời gian để đạt vị trí quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 33 tuần – Los del Río — "Macarena (Bayside Boys Mix)" (1995–96)[47]
  • 31 tuần – Lonestar — "Amazed" (1999–2000)
  • 30 tuần – John Legend — "All of Me" (2013–14)[48]
  • 27 tuần – Creed — "With Arms Wide Open" (2000)
  • 26 tuần – Vertical Horizon — "Everything You Want" (2000)
  • 25 tuần – UB40 — "Red Red Wine" (1988)
  • 23 tuần – Patti Austin và James Ingram — "Baby, Come to Me" (1983), Sia hợp tác với Sean Paul – "Cheap Thrills" (2016), Camila Cabello hợp tác với Young Thug - "Havana" (2018)
  • 22 tuần – Vangelis — "Chariots of Fire" (1982), Lady Gaga hợp tác với Colby O'Donis — "Just Dance" (2008–09), Lady Gaga và Bradley Cooper – "Shallow" (2018–19)
  • 21 tuần – Nick Gilder — "Hot Child in the City" (1978), Robert John — "Sad Eyes" (1979), Outkast — "The Way You Move" (2003–04), Adele — "Set Fire to the Rain" (2011–12)

Bước tụt khỏi đầu hàng lớn nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 1 - 38 - Taylor Swift - willow (11 tháng 12 năm 2020)
  • 1 - 34 - 6ix9ine ft. Nicki Minaj - Trollz (15 tháng 6 năm 2020)
  • 1–15 – Billy Preston — "Nothing from Nothing" (26 tháng 10 năm 1974)
  • 1–15 – Dionne Warwicke và The Spinners — "Then Came You" (2 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – Simon & Garfunkel — "The Sound of Silence" (29 tháng 1 năm 1966)
  • 1–12 – Barry White — "Can't Get Enough of Your Love, Babe" (28 tháng 9 năm 1974)
  • 1–12 – Andy Kim — "Rock Me Gently" (5 tháng 10 năm 1974)
  • 1–12 – Stevie Wonder — "You Haven't Done Nothin'" (9 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – Bachman-Turner Overdrive — "You Ain't Seen Nothing Yet" (16 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – John Lennon and Plastic Ono Band — "Whatever Gets You thru the Night" (23 tháng 11 năm 1974)
  • 1–11 – Diana Ross — "Theme from Mahogany (Do You Know Where You're Going To)" (31 tháng 1 năm 1976)
  • 1–10 – Phil Collins — "Two Hearts" (4 tháng 2 năm 1989)

Nguồn:[49]

Bước lùi lớn nhất trong một tuần[sửa | sửa mã nguồn]

  • 17–96 (79 hạng) – Javier Colon — "Stitch by Stitch" (23 tháng 6 năm 2011)[50]
  • 21–99 (78 hạng) – Jordan Smith – "Somebody to Love" (2 tháng 1 năm 2016)[51]
  • 16–93 (77 hạng) – 5 Seconds of Summer — "Amnesia" (26 tháng 7 năm 2014)[52]
  • 17–92 (75 hạng) – Justin Bieber — "Die in Your Arms" (23 tháng 6 năm 2012)[53]
  • 17–91 (74 hạng) – Lil Wayne – "Can't Be Broken" (20 tháng 10 năm 2018)[54]
  • 23–96 (73 hạng) – Colbie Caillat – "I Do" (5 tháng 3 năm 2011)[55]
  • 21–94 (73 hạng) – Justin Bieber — "Never Let You Go" (27 tháng 3 năm 2010)[56]
  • 21–94 (73 hạng) – Glee Cast — "Empire State of Mind" (16 tháng 10 năm 2010)[57]
  • 16–89 (73 hạng) – Jonas Brothers — "Pushin' Me Away" (9 tháng 8 năm 2008)[58]
  • 13–86 (73 hạng) – Justin Timberlake và Matt Morris hợp tác với Charlie Sexton — "Hallelujah" (20 tháng 2 năm 2010)[59]
  • 20–92 (72 hạng) – The Beatles — "The Beatles Movie Medley" (5 tháng 6 năm 1982)[60]

Nguồn:[61]

Bước lùi khỏi bảng xếp hạng lớn nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • Từ #1 - Mariah Carey - "All I Want For Christmas Is You" (4 tháng 1 năm 2020)††
  • Từ #3 - Mariah Carey — "All I Want for Christmas is You" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #4 – Prince và The Revolution — "Purple Rain"† (21 tháng 5 năm 2016)
  • Từ #8 – Prince — "When Doves Cry"† (21 tháng 5 năm 2016), Bobby Helms – "Jingle Bell Rock" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #9 – Soko — "We Might Be Dead by Tomorrow" (5 tháng 4 năm 2014),[63] Brenda Lee – "Rockin' Around the Christmas Tree" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #10 – Burl Ives – "A Holly Jolly Christmas" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #11 – Jonas Brothers — "A Little Bit Longer" (30 tháng 8 năm 2008),[63][64] Taylor Swift — "Mean" (13 tháng 11 năm 2010),[65] One Direction — "Diana" (14 tháng 12 năm 2013)[66] Mariah Carey – "All I Want for Christmas is You" (16 tháng 1 năm 2016)††,[67] Nat King Cole – "The Christmas Song (Merry Christmas To You)" (12 tháng 1 năm 2019)††[68]

† — "Purple Rain" và "When Doves Cry" xuất liện lại trên Hot 100 trong hai tuần vào năm 2016, và thứ hạng trên chỉ được thể hiện vào lần xuất hiện lại này. Khi những bài hát này xuất hiện lần đầu vào năm 1984, thứ hạng của chúng trong tuần cuối cùng trên Hot 100 đều là dưới top 10.

†† — Bài hát chỉ xuất hiện vào mùa Giáng sinh.

Nguồn:[69]

Đĩa đơn quán quân hai lần bởi hai nghệ sĩ khác nhau[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Go Away Little Girl" — Steve Lawrence (1963) và Donny Osmond (1971)
  • "The Loco-Motion" — Little Eva (1962) và Grand Funk (1974)
  • "Please Mr. Postman" — The Marvelettes (1961) và The Carpenters (1975)
  • "Venus" — Shocking Blue (1970) và Bananarama (1986)
  • "Lean on Me" — Bill Withers (1972) và Club Nouveau (1987)
  • "You Keep Me Hangin' On" — The Supremes (1966) và Kim Wilde (1987)
  • "When a Man Loves a Woman" — Percy Sledge (1966) và Michael Bolton (1991)
  • "I'll Be There" — The Jackson 5 (1970) và Mariah Carey (1992)
  • "Lady Marmalade" — Labelle (1975) và Christina Aguilera / Lil Kim / Mya / P!nk (2001)

Nguồn:[70][71]

Những bài hát quán quân không phải/hoàn toàn không phải bằng tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Nel Blu Dipinto Di Blu (Volare)" — Domenico Modugno (Tiếng Ý – 18 tháng 8 năm 1958 trong 5 tuần không liên tiếp)
  • "Sukiyaki" — Kyu Sakamoto (Tiếng Nhật – 15 tháng 6 năm 1963 trong 3 tuần)
  • "Dominique" — The Singing Nun (Tiếng Pháp – 7 tháng 12 năm 1963 trong 4 tuần)
  • "Rock Me Amadeus" — Falco (Tiếng Anh/Đức – 29 tháng 3 năm 1986 trong 3 tuần)
  • "La Bamba" — Los Lobos (Tiếng Tây Ban Nha – 29 tháng 8 năm 1987 trong 3 tuần)
  • "Macarena (Bayside Boys Mix)" — Los del Río (Tiếng Anh/Tây Ban Nha – 3 tháng 8 năm 1996 trong 14 tuần)
  • "Despacito" – Luis Fonsi và Daddy Yankee hợp tác với Justin Bieber (Tiếng Anh/Tây Ban Nha – 27 tháng 5 năm 2017 trong 16 tuần)
  • "I Like It" – Cardi B, J Balvin, Bad Bunny – (Tiếng Anh/Tây Ban Nha - 7 tháng 7 năm 2018 trong 1 tuần)
  • "Life Goes On" - BTS (Tiếng Hàn - 20 tháng 11 năm 2020 trong 1 tuần)
  • "Savage Love (Laxed – Siren Beat) (BTS Remix)" – Jawsh 685, Jason Derulo và BTS (Tiếng Anh/Hàn - 2 tháng 10 năm 2020 trong 1 tuần)

Những bài hát quán quân không lời[sửa | sửa mã nguồn]

  • "The Happy Organ" — Dave "Baby" Cortez (11 tháng 5 năm 1959 trong 1 tuần)
  • "Sleepwalk" — Santo and Johnny (21 tháng 5 năm 1959 trong 2 tuần)
  • "Theme from A Summer Place" — Percy Faith (22 tháng 2 năm 1960 trong 9 tuần)
  • "Wonderland by Night" — Bert Kaempfert (9 tháng 1 năm 1961 trong 3 tuần)
  • "Calcutta" — Lawrence Welk (13 tháng 2 năm 1961 trong 2 tuần)
  • "Stranger on the Shore" — Mr. Acker Bilk (26 tháng 5 năm 1962 trong 1 tuần)
  • "The Stripper" — David Rose (7 tháng 2 năm 1962 trong 1 tuần)
  • "Telstar" — The Tornados (22 tháng 12 năm 1962 trong 3 tuần)
  • "Love Is Blue" — Paul Mauriat (10 tháng 2 năm 1968 trong 5 tuần)
  • "Grazing in the Grass" — Hugh Masekela (20 tháng 7 năm 1968 trong 2 tuần)
  • "Love Theme from Romeo and Juliet" — Henry Mancini (28 tháng 7 năm 1969 trong 2 tuần)
  • "Frankenstein" — The Edgar Winter Group (26 tháng 5 năm 1973 trong 1 tuần)
  • "Love's Theme" — Love Unlimited Orchestra (9 tháng 2 năm 1974 trong 1 tuần)
  • "TSOP (The Sound of Philadelphia)" — MFSB và The Three Degrees † (20 tháng 4 năm 1974 trong 2 tuần)
  • "Pick Up the Pieces" — Average White Band † (22 tháng 2 năm 1975 trong 1 tuần)
  • "The Hustle" — Van McCoy và the Soul City Symphony † (26 tháng 7 năm 1975 trong 1 tuần)
  • "Fly, Robin, Fly" — Silver Convention † (29 tháng 11 năm 1975 trong 3 tuần)
  • "Theme from S.W.A.T." — Rhythm Heritage (28 tháng 2 năm 1976 trong 1 tuần)
  • "A Fifth of Beethoven" — Walter Murphy and the Big Apple Band (9 tháng 10 năm 1976 trong 1 tuần)
  • "Gonna Fly Now" — Bill Conti † (2 tháng 7 năm 1977 trong 1 tuần)
  • "Star Wars Theme/Cantina Band" — Meco (1 tháng 10 năm 1977 trong 2 tuần)
  • "Rise" — Herb Alpert (20 tháng 10 năm 1979 trong 2 tuần)
  • "Chariots of Fire" — Vangelis (8 tháng 5 năm 1982 trong 1 tuần)
  • "Miami Vice Theme" — Jan Hammer (9 tháng 11 năm 1985 trong 1 tuần)
  • "Harlem Shake" — Baauer † (2 tháng 3 năm 2013 trong 5 tuần)

† — Có chứa một phần giọng hát, nhưng vẫn được xem xét là một bản nhạc không lời.

Thành tựu của nghệ sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng đĩa đơn quán quân Nghệ sĩ Đĩa đơn thành công nhất
20 The Beatles "Hey Jude"[72]
19 Mariah Carey One Sweet Day (hợp tác với Boyz II Men)
18 Elvis Presley (Tiền Hot 100 và Hot 100) "Don't Be Cruel / Hound Dog"
14 Rihanna "We Found Love" (hợp tác với Calvin Harris)[73]
13 Michael Jackson "Say Say Say" (song ca với Paul McCartney)[74]
12 The Supremes "Love Child"[75]
Madonna "Like a Virgin"[76]
11 Whitney Houston "I Will Always Love You"[77]
10 Stevie Wonder "Ebony and Ivory" (song ca với Paul McCartney)[78]
Janet Jackson "Miss You Much"[79]

Nguồn:[80] [81] [82]

Nhiều tuần ở ngôi vị đầu bảng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần ở vị trí quán quân Nghệ sĩ
82 Mariah Carey
79 Elvis Presley†
60 Rihanna[83]
59 The Beatles
52 Drake
50 Boyz II Men
47 Usher
42 Beyoncé
37 Michael Jackson
34 Elton John
33 Janet Jackson
Katy Perry
*† Tiền Hot 100 và Hot 100. Presley thường được đề cập đã đạt được 80 tuần ở ngôi vị quán quân, khi "All Shook Up" có 9 tuần đứng đầu bảng xếp hạng "Most Played in Jukeboxes". Mặc dù nhà thống kê của Billboard Joel Whitburn vẫn tính tuần thứ 80 này dựa trên những nghiên cứu tồn tại trước đó, tạp chí Billboard vẫn đề cập Presley với 79 tuần.[84]*Hầu hết số tuần của Presley được tính trong giai đoạn tiền Hot 100. Nếu chỉ tính từ khi Billboard chuyển đổi hệ thống xếp hạng thành Hot 100, Presley có tổng cộng 22 tuần ở vị trí số một.

Nguồn:[80]

Nhiều đĩa đơn quán quân liên tiếp nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng đĩa đơn Nghệ sĩ Hit đầu tiên và ngày lên ngôi đầu bảng Hit cuối cùng và ngày lên ngôi đầu bảng Bài hát phá vỡ kỷ lục
7 Whitney Houston "Saving All My Love for You"
(26 tháng 10 năm 1985)
"Where Do Broken Hearts Go"
(23 tháng 4 năm 1988)
"Love Will Save the Day"
(#9 – 27 tháng 8 năm 1988)
6 The Beatles "I Feel Fine"
(26 tháng 12 năm 1964)
"We Can Work It Out"
(8 tháng 1 năm 1966)
"Nowhere Man"
(#3 – 26 tháng 3 năm 1966)
Bee Gees "How Deep Is Your Love"
(24 tháng 12 năm 1977)
"Love You Inside Out"
(9 tháng 6 năm 1979)
"He's A Liar"
(#30 – 24 tháng 10 năm 1981)
5 Elvis Presley "A Big Hunk o' Love"
(10 tháng 8 năm 1959)
"Surrender"
(20 tháng 5 năm 1961)
"I Feel So Bad"
(#5 – tháng 5 năm 1961)
The Supremes "Where Did Our Love Go"
(22 tháng 8 năm 1964)
"Back in My Arms Again"
(12 tháng 6 năm 1965)
"Nothing but Heartaches"
(#11 – 4 tháng 9 năm 1965)
Michael Jackson "I Just Can't Stop Loving You" (với Siedah Garrett)
(19 tháng 9 năm 1987)
"Dirty Diana"
(2 tháng 7 năm 1988)
"Another Part of Me"
(#11 – 10 tháng 9 năm 1988)
Mariah Carey "Vision of Love"
(4 tháng 8 năm 1990)
"Emotions"
(12 tháng 10 năm 1991)
"Can't Let Go"
(#2 – 25 tháng 1 năm 1992)
"Fantasy"
(30 tháng 9 năm 1995)
"My All"
(23 tháng 5 năm 1998)
"When You Believe" (với Whitney Houston)
(#15 – 30 tháng 1 năm 1999)
Katy Perry "California Gurls" (hợp tác với Snoop Dogg)
(19 tháng 6 năm 2010)
"Last Friday Night (T.G.I.F.)"
(17 tháng 8 năm 2011)
"The One That Got Away"
(#3 – 7 tháng 1 năm 2012)

Lưu ý: Đĩa đơn "Thinking About You" của Houston không được tính là đã can thiệp vào kỷ lục của cô, vì nó không được phát hành trên các đài phát thanh nhạc Pop nên không xuất hiện trên Hot 100. Trường hợp này cũng được tính cho "Not Like the Movies" và "Circle the Drain" của Perry vì chúng chỉ là những đĩa đơn quảng bá, không phải đĩa đơn chính thức.

Nguồn:[85][86][87][88][89][90][90][91]

Nhiều tuần liên tiếp thống trị song song Hot 100 và Billboard 200 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuầnNghệ sĩNăm
Xếp hạng
Đĩa đơnAlbum
12 The Beatles 1964 "I Want to Hold Your Hand", "She Loves You", "Can't Buy Me Love" Meet the Beatles!, The Beatles' Second Album
Whitney Houston 1992-93 "I Will Always Love You" The Bodyguard: Original Soundtrack Album
7 Michael Jackson 1983 "Billie Jean" Thriller
Drake 2016 "One Dance" (hợp tác với Wizkid và Kyla) Views
The Monkees 1966-67 "I'm a Believer" The Monkees, More of the Monkees

Nguồn:[92]

Nhiều năm liên tiếp có đĩa đơn quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
năm
Nghệ sĩ Hit đầu tiên và ngày lên ngôi đầu bảng Hit cuối cùng và ngày lên ngôi đầu bảng
11 Mariah Carey "Vision of Love"
(4 tháng 8 năm 1990)
"Thank God I Found You"
(19 tháng 2 năm 2000)
7 Elvis Presley (tiền Hot 100 và Hot 100) "Heartbreak Hotel"
(17 tháng 3 năm 1956)
"Good Luck Charm"
(28 tháng 4 năm 1962)
The Beatles "I Want to Hold Your Hand"
(1 tháng 2 năm 1964)
"The Long and Winding Road"
(20 tháng 6 năm 1970)
6 The Supremes "Where Did Our Love Go"
(22 tháng 8 năm 1964)
"Someday We'll Be Together"
(27 tháng 12 năm 1969)
Lionel Richie "Endless Love"
(15 tháng 8 năm 1981)
"Say You, Say Me"
(11 tháng 1 năm 1986)

Nguồn:[93][94][95]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất trong một năm[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng
đĩa đơn
Nghệ sĩNăm
xếp hạng
Đĩa đơn
6 The Beatles 1964 "I Want to Hold Your Hand", "She Loves You", "Can't Buy Me Love", "Love Me Do", "A Hard Day's Night", "I Feel Fine"
5 1965 "I Feel Fine", "Eight Days a Week", "Ticket to Ride", "Help!", "Yesterday"
4 Elvis Presley
(tiền Hot 100)
1956 "Heartbreak Hotel", "I Want You, I Need You, I Love You", "Hound Dog" / "Don't Be Cruel", "Love Me Tender"
1957 "Too Much", "All Shook Up", "(Let Me Be Your) Teddy Bear", "Jailhouse Rock"
The Supremes 1965 "Come See About Me", "Stop! In the Name of Love", "Back in My Arms Again", "I Hear a Symphony"
Jackson 5 1970 "I Want You Back", "ABC", "The Love You Save", "I'll Be There"
George Michael 1988 "Faith", "Father Figure", "One More Try", "Monkey"
Usher 2004 "Yeah!" (hợp tác với Lil Jon và Ludacris), "Burn", "Confessions Part II", "My Boo" (song ca với Alicia Keys)
Rihanna 2010 "Rude Boy", "Love the Way You Lie" (Eminem hợp tác với Rihanna), "What's My Name?" (hợp tác với Drake), "Only Girl (In the World)"

Nguồn:[85][96][97][98]

Nhiều đĩa đơn lọt vào top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng
đĩa đơn
Nghệ sĩ Nguồn
38 Madonna [80]
36† Elvis Presley [99]
34 The Beatles [80]
33 Drake [100]
31 Rihanna [101]
30 Michael Jackson [100]
28 Stevie Wonder [80]
Mariah Carey [102]
27 Elton John [80]
Janet Jackson [103]

Nguồn:[80][104][105]

Lưu ý: Nếu kết hợp những tác phẩm của Paul McCartney và the Beatles lại với nhau, ông sẽ đứng đầu danh sách với 57 hit top 10

Nhiều tuần liên tiếp trong top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
tuần
Nghệ sĩ Năm
xếp hạng
Đĩa đơn
69 Katy Perry 2010–11 "California Gurls" (hợp tác với Snoop Dogg), "Teenage Dream", "Firework", "E.T." (hợp tác với Kanye West), "Last Friday Night (T.G.I.F.)"
61 The Chainsmokers 2016–17 "Don't Let Me Down" (hợp tác với Daya), "Closer" (hợp tác với Halsey), "Paris", "Something Just Like This" (với Coldplay)
51 Drake 2015–16 "Hotline Bling", "Work" (Rihanna hợp tác với Drake), "Summer Sixteen", "One Dance" (hợp tác với Wizkid và Kyla)
48 Ace of Base 1993–94 "All That She Wants", "The Sign", "Don't Turn Around"
46 Rihanna 2010–11 "Love the Way You Lie" (Eminem hợp tác với Rihanna), "Only Girl (In the World)", "What's My Name?" (hợp tác với Drake), "S&M"
45 The Weeknd 2015–16 "Earned It", "Can't Feel My Face", "The Hills"

Nguồn:[106][107][108]

Nhiều đĩa đơn á quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số đĩa đơn á quân Nghệ sĩ
6 Madonna
Taylor Swift
5 Elvis Presley
The Carpenters
Creedence Clearwater Revival

Ra mắt trong top 10 nhiều nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng Nghệ sĩ Nguồn
17 Drake [100]
14 Taylor Swift [109]
12 Eminem [109]
11 Lil Wayne [110]
9 Ariana Grande [109]
8 Justin Bieber [109]
6 Lady Gaga [109]
Rihanna [109]

Nhiều đĩa đơn trong top 40 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượngNghệ sĩNguồn
95 Drake [34]
81 Lil Wayne [34]
Elvis Presley† [34][111]
57 Elton John [34]
Taylor Swift [34]
52 Nicki Minaj [112]
51 Glee Cast [113]
50 The Beatles [113]
Rihanna [113]
Jay-Z [113]
49 Madonna [113]
Kanye West [113]

† Nếu tính những tác phẩm xuất hiện trước kỷ nguyên Hot 100, Presley sẽ được tính với 115 bài hát lọt vào top 40.[81]

Nhiều bài hát lọt vào Hot 100 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng Nghệ sĩ Nguồn
207 Glee Cast [114]
193 Drake [115]
163 Lil Wayne [116]
138 Taylor Swift [117]
109 Elvis Presley † [114]
102 Nicki Minaj [118]
99 Jay-Z [115]
96 Kanye West [119]
93 Chris Brown [120]
91 James Brown [114]
84 Future [121]
75 Ray Charles [115]
74 Eminem [122]
73 Aretha Franklin [115]
71 Justin Bieber [123]
71 The Beatles [115]

Nguồn:[124]

Thay thế chính mình ở vị trí số một[sửa | sửa mã nguồn]

  • Elvis Presley — "Hound Dog" / "Don't Be Cruel" → "Love Me Tender" (27 tháng 10 năm 1956) (bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores" và "Most Played by Jockeys")
  • The Beatles † — "I Want to Hold Your Hand" → "She Loves You" (ngày 21 tháng 3 năm 1964); "She Loves You" → "Can't Buy Me Love" (4 tháng 4 năm 1964)
  • Boyz II Men — "I'll Make Love to You" → "On Bended Knee" (3 tháng 12 năm 1994)
  • Ariana Grande- "Thank u, next" -> "7 rings" (22 tháng 1 năm 2019)
  • Puff Daddy — "I'll Be Missing You" (Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112) → "Mo Money Mo Problems" (The Notorious B.I.G. hợp tác với Puff Daddy và Mase) (30 tháng 8 năm 1997)
  • Ja Rule — "Always on Time" (Ja Rule hợp tác với Ashanti) → "Ain't It Funny" (Jennifer Lopez hợp tác với Ja Rule) (9 tháng 3 năm 2002)
  • Nelly — "Hot in Herre" → "Dilemma" (Nelly hợp tác với Kelly Rowland) (17 tháng 8 năm 2002)
  • OutKast — "Hey Ya!" → "The Way You Move" (OutKast hợp tác với Sleepy Brown) (14 tháng 2 năm 2004)
  • Usher— "Yeah!" (Usher hợp tác với Lil Jon và Ludacris) → "Burn" (22 tháng 5 năm 2004); "Burn" → "Confessions Part II" (24 tháng 7 năm 2004)
  • T.I. — "Whatever You Like" → "Live Your Life" (T.I. hợp tác với Rihanna) (18 tháng 10 năm 2008); "Whatever You Like" → "Live Your Life" (15 tháng 11 năm 2008)
  • The Black Eyed Peas — "Boom Boom Pow" → "I Gotta Feeling" (11 tháng 7 năm 2009)
  • Taylor Swift — "Shake It Off" → "Blank Space" (29 tháng 11 năm 2014)
  • The Weeknd — "Can't Feel My Face" → "The Hills" (3 tháng 10 năm 2015)[125]
  • Justin Bieber — "Sorry" → "Love Yourself" (13 tháng 2 năm 2016)[105]; "I'm the One" (DJ Khaled hợp tác với Justin Bieber, Quavo, Chance the Rapper và Lil Wayne) → "Despacito" (Luis Fonsi và Daddy Yankee hợp tác với Justin Bieber) (27 tháng 5 năm 2017)
  • Drake – "God's Plan" →với 3 "Nice for What" (21 tháng 4 năm 2018); "Nice for What" → "In My Feelings" (21 tháng 7 năm 2018)
  • BTS —"Butter (bài hát)" →"Permission to Dance" (24 tháng 7 năm 2021)

† The Beatles là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử thay thế chính mình ở vị trí số một 3 bài hát liên tiếp.

Nguồn:[126]

Đạt hạng nhất sau khi qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

  • Otis Redding (mất ngày 10 tháng 12 năm 1967) — "(Sittin' On) The Dock of the Bay" (16 tháng 3 năm 1968)
  • Janis Joplin (mất ngày 4 tháng 10 năm 1970) — "Me and Bobby McGee" (20 tháng 3 năm 1971)
  • Jim Croce (mất ngày 20 tháng 9 năm 1973) — "Time in a Bottle" (29 tháng 12 năm 1973)
  • John Lennon (mất ngày 8 tháng 12 năm 1980) — "(Just Like) Starting Over" (27 tháng 12 năm 1980)
  • The Notorious B.I.G. (mất ngày 9 tháng 3 năm 1997) — "Hypnotize" (3 tháng 5 năm 1997) và "Mo Money Mo Problems" (30 tháng 8 năm 1997)
  • Soulja Slim (mất ngày 26 tháng 11 năm 2003) — "Slow Motion" (Juvenile hợp tác với Soulja Slim) (7 tháng 11 năm 2004)
  • Static Major (mất ngày 25 tháng 2 năm 2008) — "Lollipop" (Lil Wayne hợp tác với Static Major) (3 tháng 5 năm 2008)
  • XXXTentacion (mất ngày 18 tháng 6 năm 2018) – "Sad!" (30 tháng 6 năm 2018)

Nguồn:[127]

Kỷ lục về độ tuổi[sửa | sửa mã nguồn]

  • Louis Armstrong (62 năm, 279 ngày tuổi) là nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này với "Hello, Dolly!" vào ngày 9 tháng 5 năm 1964.
  • Cher (52 năm, 297 ngày tuổi) là nữ nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Bà thiết lập kỷ lục này với "Believe" vào ngày 13 tháng 3 năm 1999.
  • Michael Jackson (11 năm, 155 ngày tuổi) là nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này, dưới tư cách là thành viên của the Jackson 5, với "I Want You Back" vào ngày 31 tháng 1 năm 1970.
  • Stevie Wonder (13 năm, 89 ngày tuổi) là nghệ sĩ đơn ca nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này với "Fingertips Pt. 2" vào ngày 10 tháng 8 năm 1963.
  • Little Peggy March (15 năm, 50 ngày tuổi) là nghệ sĩ nữ nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Bà thiết lập kỷ lục này với "I Will Follow Him" vào ngày 27 tháng 4 năm 1963.
  • Tony Bennett, khi đó 85 năm, 59 ngày tuổi, là nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng xuất hiện trên Hot 100, với "Body and Soul", song ca với Amy Winehouse, đạt vị trí thứ 87 vào ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  • Nghệ sĩ người Pháp Jordy Lemoine (5 năm, 156 ngày tuổi) là nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từng xuất hiện trên Hot 100, với "Dur dur d'être bébé! (It's Tough to Be a Baby)", khi đó mang nghệ danh Jordy, xuất hiện trên bảng xếp hạng vào ngày 19 tháng 6 năm 1993.[128][129]

Kỷ lục về khoảng cách[sửa | sửa mã nguồn]

  • Khoảng cách dài nhất giữa những đĩa đơn quán quân của một nghệ sĩ là 24 năm, 355 ngày của Cher. Đĩa đơn "Believe" của cô đạt hạng nhất vào ngày 13 tháng 3 năm 1999, lần đầu tiên kể từ đĩa đơn quán quân gần nhất của cô "Dark Lady" vào ngày 23 tháng 3 năm 1974.
  • Cher còn giữ kỷ lục về khoảng cách giữa đĩa đơn quán quân đầu tiên và gần nhất trên Hot 100 từ trước đến nay: 33 năm, 232 ngày (từ "I Got You Babe" của Sonny & Cher ngày 14 tháng 8 năm 1965 đến tuần cuối ở hạng nhất của "Believe" ngày 3 tháng 4 năm 1999).
  • Kỷ lục về khoảng cách chờ đợi dài nhất giữa đĩa đơn xuất hiện đầu tiên trên Hot 100 đến đĩa đơn quán quân đầu tiên thuộc về Santana, với 30 năm kể từ lần đầu tiên ông xuất hiện trên Hot 100 với "Jingo" (25 tháng 10 năm 1969) và tuần đầu tiên trong số 12 tuần ở hạng nhất với "Smooth," hợp tác với Rob Thomas (23 tháng 10 năm 1999).

Thành tựu của album[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất từ một album[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩAlbumNămSố lượng
đĩa đơn
Michael Jackson Bad 1987 5
Katy Perry Teenage Dream 2010
Nhiều nghệ sĩ Saturday Night Fever 1977 4
Whitney Houston Whitney 1987
George Michael Faith
Paula Abdul Forever Your Girl 1988
Janet Jackson Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 1989
Mariah Carey Mariah Carey 1990
Usher Confessions 2004
Whitney Houston Whitney Houston 1985 3
Madonna True Blue 1986
Mariah Carey Daydream 1995
Fergie The Dutchess 2006
The Black Eyed Peas The E.N.D 2009
Rihanna LOUD 2010
Adele 21 2011
Taylor Swift 1989 2014
Justin Bieber Purpose 2015
The Weeknd After Hours 2020

Nguồn:[130]¤

  • Saturday Night Fever bao gồm những đĩa đơn quán quân từ hai nghệ sĩ khác nhau: "How Deep Is Your Love", "Stayin' Alive" và "Night Fever" bởi the Bee Gees; và "If I Can't Have You" bởi Yvonne Elliman.
  • Teenage Dream: The Complete Confection là một phiên bản tái phát hành của album Teenage Dream của Katy Perry, và bao gồm thêm một đĩa đơn quán quân khác, "Part Of Me", nâng tổng số cuối cùng của cô thành 6. Tuy nhiên, thành tích này không được tính vì những đĩa đơn từ phiên bản tái phát hành của một album và không phải từ bản gốc đều không được tính.[131]

Nhiều đĩa đơn lọt vào top 10 nhất từ một album[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩAlbumNămSố lượng
đĩa đơn
Michael Jackson Thriller 1982 7
Bruce Springsteen Born in the U.S.A. 1984
Janet Jackson Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 1989
Drake Scorpion 2018
Michael Jackson Bad 1987 6
George Michael Faith
Janet Jackson Janet. 1993
Katy Perry †† Teenage Dream 2010
Lionel Richie Can't Slow Down 1983 5
Janet Jackson Control 1986
Genesis Invisible Touch
Madonna True Blue
Huey Lewis and the News Fore!
Whitney Houston Whitney 1987
Paula Abdul Forever Your Girl 1988
Bobby Brown Don't Be Cruel
New Kids on the Block Hangin' Tough
Bon Jovi New Jersey
Milli Vanilli Girl You Know It's True 1989
Nhiều nghệ sĩ † Waiting to Exhale 1995
Fergie The Dutchess 2006
The Black Eyed Peas The E.N.D. 2009
Taylor Swift 1989 2014

Nguồn:[132]

† Waiting to Exhale bao gồm những đĩa đơn top 10 của 5 nghệ sĩ khác nhau: "Exhale (Shoop Shoop)" và "Count on Me" bởi Whitney Houston (bài hát sau là bản song ca với CeCe Winans), "Not Gon' Cry" bởi Mary J. Blige, "Sittin' Up in My Room" bởi Brandy, and "Let It Flow" bởi Toni Braxton.

†† Teenage Dream: The Complete Confection là một phiên bản tái phát hành của album Teenage Dream của Katy Perry, và bao gồm thêm hai đĩa đơn khác lọt vào top 10, nâng tổng số cuối cùng của cô thành 8. Tuy nhiên, thành tích này không được tính vì những đĩa đơn từ phiên bản tái phát hành của một album và không phải từ bản gốc đều không được tính.[131]

Thành tựu của album khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 của Janet Jackson là album sở hữu nhiều đĩa đơn lọt vào top 5 nhất, với 7.[133]
  • Janet Jackson là nghệ sĩ có nhiều album với nhiều đĩa đơn top 5 hoặc top 10 nhất từ trước đến nay, với 3 album: Control, Janet Jackson's Rhythm Nation 1814, và janet.[134]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách đĩa đơn quán quân (Mỹ)
  • Kỷ lục của UK Singles Chart

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Hot 100 Anniversary: Find Out The Top Songs Of All Time”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 10 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.[liên kết hỏng] This contains the heading of the article only, no charts.
  2. ^ This site contains the Hot 100's top 100 songs of all-time in the 50th anniversary edition in 2008.
  3. ^ “Hot 100 55th Anniversary Central”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 2 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.
  4. ^ “Greatest Hot 100 Songs & Artists of All Time: Chubby Checker's 'The Twist' & The Beatles Reign”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ “The Biggest Hits of All: The Hot 100's All-Time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 2 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2018.
  6. ^ “Greatest of All Time: Hot 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  7. ^ “Greatest of All Time: Hot 100 Artists”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  8. ^ Trust, Gary (ngày 2 tháng 4 năm 2018). “The Longest-Leading Hot 100 No. 1s”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ Letkemann, Jessica (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Biggest No. 2 Hits Ever: The Top 40 Hot 100 Tunes To Not Hit No. 1”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ a b c d e f g h Trust, Gary (ngày 20 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Tops Billboard Hot 100 for Seventh Week, Ed Sheeran & Justin Bieber's 'I Don't Care' Debuts at No. 2”. Billboard. Nielsen Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  11. ^ a b c Trust, Gary (ngày 13 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Rules Billboard Hot 100 for Sixth Week; Shawn Mendes, Logic & Eminem Debut in Top Five”. Billboard. Nielsen Global Media. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  12. ^ a b c d e f g h Trust, Gary (ngày 9 tháng 5 năm 2014). “Imagine Dragons' 'Radioactive' Ends Record Billboard Hot 100 Run”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2014.
  13. ^ Trust, Gary (ngày 20 tháng 2 năm 2013). “Baauer's 'Harlem Shake' Debuts Atop Revamped Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013.
  14. ^ Trust, Gary (ngày 3 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Holds At No. 1 On Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  15. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 9 năm 2015). “Justin Bieber Scores First Hot 100 No. 1 With Debut of 'What Do You Mean?'”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2015.
  16. ^ Trust, Gary (ngày 2 tháng 11 năm 2015). “Adele Says 'Hello' to No. 1 Hot 100 Debut; First Song to Sell 1 Million Downloads in a Week”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2015.
  17. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 2 năm 2016). “Zayn's 'Pillowtalk' Debuts at No. 1 on Hot 100'”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 5 năm 2016). “Justin Timberlake Debuts at No. 1 on Hot 100 With 'Can't Stop the Feeling!'”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  19. ^ “Ed Sheeran Debuts Atop Hot 100 With 'Shape of You' & in Top 10 With 'Castle on the Hill'”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  20. ^ “DJ Khaled's All-Star 'I'm the One' Debuts at No. 1 on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2017.
  21. ^ “Here Are the 34 Hits That Have Debuted at No. 1 On the Hot 100”. Billboard. Billboard Music. ngày 11 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2019.
  22. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “T.I. Maintains No. 1 Album While Britney Spears Zooms to No. 1 on the Hot 100”. Billboard magazine. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  23. ^ Silvio Pietroluongo (28 tháng 1 năm 2009). “Kelly Clarkson Breaks Record For Hot 100 Jump”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  24. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “T.I.'s 'Paper Trail' Leads To No. 1 On The Billboard 200”. Billboard magazine. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  25. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 11 tháng 2 năm 2009). “Eminem's 'Bottle' Breaks Digital Record”. Billboard magazine. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
  26. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 9 năm 2017). “Taylor Swift's 'Look What You Made Me Do' Leaps to No. 1 on Hot 100 With Top Streaming & Sales Week of 2017”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2017.
  27. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Scores First-Ever No. 1 on Billboard Hot 100 With 'Never'”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  28. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 27 tháng 8 năm 2008). “T.I. Sets New Record With Hot 100 No. 1 Jump”. Billboard magazine. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  29. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 3 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'What's My Name?' Rockets to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  30. ^ Silvio Pietroluongo (ngày 18 tháng 2 năm 2009). “Flo Rida Topples Single-Week Download Mark”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2009.
  31. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 14 tháng 5 năm 2008). “Rihanna's 'Bow' Soars 52 Spots To Lead Hot 100”. Billboard magazine. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2008.
  32. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 10 tháng 3 năm 2010). “Taio Cruz Cruises To Record No. 1 Jump on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2010.
  33. ^ “Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100”.
  34. ^ a b c d e f Trust, Gary (ngày 6 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Tops Billboard Hot 100 For Fifth Week, Taylor Swift's 'Me!' Vaults to No. 2”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019.
  35. ^ “Hot 100: Week of ngày 7 tháng 2 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  36. ^ “Hot 100: Week of ngày 25 tháng 10 năm 2008 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  37. ^ “Hot 100: Week of ngày 7 tháng 4 năm 2007 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  38. ^ “Hot 100: Week of ngày 14 tháng 10 năm 2006 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  39. ^ Trust, Gary (ngày 26 tháng 10 năm 2011). “Adele's 'Someone Like You' Holds No. 1 on Hot 100 for Fifth Week; Rihanna, Drake on the Rise”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2011.
  40. ^ “Hot 100: Week of ngày 10 tháng 10 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  41. ^ “Hot 100: Week of ngày 14 tháng 3 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  42. ^ Trust, Gary (ngày 21 tháng 8 năm 2013). “Robin Thicke No. 1, Katy Perry No. 2 On Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  43. ^ “Hot 100: Week of ngày 11 tháng 2 năm 2006 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  44. ^ “Hot 100: Week of ngày 22 tháng 9 năm 2007 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  45. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 2 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Shape of You' Leads Hot 100 for Fifth Week”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  46. ^ Trust, Gary (ngày 13 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran Stays Atop Hot 100, Clean Bandit Bounds to Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  47. ^ Trust, Gary (4 tháng 8 năm 2009). “Backwards Bullets: This Week In Charts 1996”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  48. ^ Trust, Gary (ngày 7 tháng 5 năm 2014). “John Legend's 'All Of Me' Tops Hot 100, Ariana Grande Debuts At No. 3”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ Whitburn, Joel (1998). Billboard Top 10 Charts 1958-1997. Menomonee Falls, WI, USA: Record Research. tr. 762. ISBN 0-89820-127-6.
  50. ^ “Hot 100: Week of ngày 23 tháng 7 năm 2011 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  51. ^ “Hot 100: Week of ngày 2 tháng 1 năm 2016 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2015.
  52. ^ “Hot 100: Week of ngày 26 tháng 7 năm 2014 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  53. ^ “Hot 100: Week of ngày 23 tháng 6 năm 2012 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  54. ^ “Hot 100: Week of ngày 20 tháng 10 năm 2018”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2018.
  55. ^ “Hot 100: Week of ngày 5 tháng 3 năm 2011 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  56. ^ “Hot 100: Week of ngày 27 tháng 3 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  57. ^ “Hot 100: Week of ngày 16 tháng 10 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
  58. ^ “Hot 100: Week of ngày 9 tháng 8 năm 2008 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  59. ^ “Hot 100: Week of ngày 20 tháng 2 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  60. ^ Hot 100. Billboard. ngày 5 tháng 6 năm 1982. tr. 68. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  61. ^ Trust, Gary (ngày 7 tháng 5 năm 2010). “Ask Billboard: Records About Records”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2010.
  62. ^ a b c d Trust, Gary (ngày 7 tháng 1 năm 2019). “Halsey's 'Without Me' Tops Billboard Hot 100, Becoming Her First No. 1 as a Lead Artist”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2019.
  63. ^ a b Trust, Gary (ngày 30 tháng 3 năm 2014). “Ask Billboard: Lady Gaga's Biggest Hot 100 Hits”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  64. ^ “US Singles Top 100 (ngày 30 tháng 8 năm 2008)”. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014.
  65. ^ “US Singles Top 100 (ngày 13 tháng 11 năm 2010)”. ngày 4 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2010.
  66. ^ “US Singles Top 100 (ngày 14 tháng 12 năm 2013)”. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014.
  67. ^ “US Singles Top 100 (ngày 16 tháng 1 năm 2016)”. ngày 5 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  68. ^ “US Singles Top 100 (ngày 12 tháng 1 năm 2019)”. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2019.
  69. ^ Trust, Gary. “Chart Beat Chat”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012.
  70. ^ “Originals and Covers Both that hit Number One”. Billboard. Retro Hits. 2000. Bản gốc lưu trữ Tháng 2 3, 2013. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  71. ^ “Cover Me: Same Songs to Hit No. 1 By Two Different Artists”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  72. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  73. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  74. ^ Trust, Gary (ngày 17 tháng 6 năm 2010). “Say Say Say ranks as Michael Jackson's Biggest Billboard Hit”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  75. ^ Lipshutz, Jason (ngày 28 tháng 4 năm 2014). “Top 40 Girl Group Songs Of All Time”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
  76. ^ Caulfield, Keith (ngày 16 tháng 8 năm 2013). “Madonna's 40 Biggest Billboard Hits”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
  77. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  78. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  79. ^ Megill, Carl (ngày 28 tháng 2 năm 2011). “Top 20 Janet Jackson Hits”. Yahoo Contributor Network. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013.
  80. ^ a b c d e f g Staff, Billboard (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary By The Numbers: Top 100 Artists, Most No. 1s, Biggest No. 2s, & More”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
  81. ^ a b “Elvis's Top 40 Hits”. washingtonpost.com. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  82. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 2 năm 2016). “Rihanna & Drake Rise to No. 1 on Hot 100 With 'Work'”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2016.
  83. ^ Trust, Gary (ngày 18 tháng 4 năm 2016). “Rihanna Rules Hot 100, Desiigner's 'Panda' Pushes to No. 2 & Justin Bieber Makes History”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2016.
  84. ^ Bronson, Fred (ngày 10 tháng 4 năm 2008). “Chart Beat”. Billboard magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2008.
  85. ^ a b Bronson, Fred (ngày 19 tháng 8 năm 2011). “How Katy Perry's Hot 100 Record Stacks-Up Against The Beatles, Elvis, Michael, Mariah & Whitney Summit”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  86. ^ [1] Lưu trữ 2012-02-07 tại Wayback Machine
  87. ^ “The Bee Gees Biography | The Rock and Roll Hall of Fame and Museum”. Rockhall.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  88. ^ “The Supremes Biography | The Rock and Roll Hall of Fame and Museum”. Rockhall.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  89. ^ Trust, Gary (ngày 17 tháng 8 năm 2011). “Katy Perry Ties Michael Jackson's Historic Hot 100 Record Summit”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  90. ^ a b “Mariah Carey Biography - Made Chart-Topping Entrance, Mixed Musical Styles, Life Took a Turn, Selected works - Album, Single, Columbia, and Artist - JRank Articles”. Biography.jrank.org. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  91. ^ Whitburn, Joel (2007). “Top Pop Singles 1955–2006”. Record Research. tr. 669–674. ISBN 978-0-89820-172-7.
  92. ^ “Drake's 'One Dance' No. 1 on Hot 100 for Eighth Week”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2016.
  93. ^ Lamb, Bill. “Top 100 Pop Songs 2000”. About.com. About Entertainment. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  94. ^ Kurp, Josh (ngày 6 tháng 10 năm 2014). “The 7 Billboard Hot 100 Milestones That Will (Probably) Never Be Broken”. UPROXX Music. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  95. ^ Trust, Gary (ngày 1 tháng 9 năm 2014). “This Week In Billboard Chart History: Aerosmith Ascends To No. 1”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  96. ^ “Number One Trivia: Artist With The Most #1's In The Same Calendar Year”. Billboard. Retro Hits. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  97. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 25 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl' Rebounds to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  98. ^ “George Michael Album & Song Chart History”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
    • “Billboard Hot 100: Week of ngày 2 tháng 1 năm 1988”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  99. ^ Bronson, Fred (ngày 3 tháng 4 năm 2008). “Chart Beat: Fred discusses chart action on Mariah Carey/Madonna/Elvis Presley, James Brown, Fantasia and more!”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018. Until this week, Presley and Madonna were tied with 36 top 10 hits in the rock era, the highest total for any artist.
  100. ^ a b c Trust, Gary (ngày 9 tháng 7 năm 2018). “Drake Claims 7 of Hot 100's Top 10, Breaking the Beatles' Record, As 'Nice For What' Returns to No. 1 For Eighth Week”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
  101. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 4 năm 2018). “Drake Dethrones Himself Atop Billboard Hot 100, as 'Nice for What' Debuts at No. 1, Replacing 'God's Plan'”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2018.
  102. ^ Trust, Gary (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Hits Hot 100's Top 10 for First Time, 'Perfect' Still No. 1”. billboard.com. Billboard Magazine. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  103. ^ “Janet Jackson Hot 100 Chart History”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2019.
  104. ^ Trust, Gary (ngày 11 tháng 2 năm 2015). “Rihanna, Kanye West, Paul McCartney & Ellie Goulding Hit Hot 100's Top 10; Mark Ronson, Bruno Mars Still No. 1”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.
  105. ^ a b Trust, Gary (ngày 1 tháng 2 năm 2016). “Justin Bieber Replaces Himself at No. 1 on Hot 100 With 'Love Yourself'”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2016.
  106. ^ “The Chainsmokers Hold Atop Hot 100, Shawn Mendes Hits Top 10”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 29 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  107. ^ “The Chainsmokers & Halsey Lead Hot 100 & Rihanna Returns to Top 10, Fueled by VMAs Gains”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2016.
  108. ^ “Drake & Rihanna's 'Too Good' Hits New Heights on Hot 100”.
  109. ^ a b c d e f Zellner, Xander (ngày 30 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Scores 9th Billboard Hot 100 Top 10 With 'No Tears Left to Cry'”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  110. ^ Zellner, Xander. “Lil Wayne Charts 22 Songs From 'Tha Carter V' on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  111. ^ https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8491989/elvis-presley-highest-charting-hot-100-hit-since-1978-blue-christmas-debut
  112. ^ “Nicki Minaj Hot 100 Chart History”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2018.
  113. ^ a b c d e f Trust, Gary; Zellner, Xander (ngày 12 tháng 6 năm 2018). “Kanye West Debuts All 7 Songs From 'Ye' in Billboard Hot 100's Top 40”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2018.
  114. ^ a b c Trust, Gary (ngày 22 tháng 6 năm 2018). “Hot 100 Chart Moves: Taylor Swift's 'Delicate' Becomes Second Radio Songs Top 10 From 'Reputation'”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2018.
  115. ^ a b c d e Trust, Gary (ngày 5 tháng 11 năm 2018). “Nicki Minaj Makes History as First Woman With 100 Appearances on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
  116. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 10 năm 2018). “Maroon 5 & Cardi B's 'Girls Like You' Leads Hot 100 for Third Week, Lil Wayne Is First to Debut Two Songs in Top Five”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  117. ^ “Taylor Swift Chart History”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2019.
  118. ^ “Nicki Minaj Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  119. ^ “Kanye West Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  120. ^ “Chris Brown Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  121. ^ “Future Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  122. ^ “Eminem Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  123. ^ “Justin Bieber Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  124. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 12 năm 2016). “Drake Ties Lil Wayne for Most Hot 100 Hits Among Soloists”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  125. ^ Trust, Gary (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Replaces Himself Atop Hot 100 as 'The Hills' Hits No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2015.
  126. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Makes Hot 100 History With 'Blank Space'”. Billboard.com. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
  127. ^ Trust, Gary (ngày 25 tháng 6 năm 2018). “XXXTentacion's 'Sad!' Vaults From No. 52 to No. 1 on Billboard Hot 100 Following Rapper/Singer's Death”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2018.
  128. ^ Bronson, Fred (ngày 11 tháng 1 năm 2012). “Blue Ivy Carter, Jay-Z and Beyonce's Daughter, Becomes Youngest Person Ever to Appear on a Billboard Chart”. Billboard.biz. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2014.
  129. ^ Whitburn, Joel (2009). Top Pop Singles 12th Edition. Record Research. tr. 515. ISBN 0-89820-180-2.
  130. ^ Trust, Gary (ngày 31 tháng 5 năm 2015). “Ask Billboard: Is Taylor Swift's '1989' the Next 'Teenage Dream'?”. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  131. ^ a b “Katy Perry - Chart history - Billboard”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  132. ^ Anderson, Trevor (ngày 28 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' and Other Albums With Five Top 10 Hits (or More)”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  133. ^ Partridge, Kenneth (ngày 18 tháng 9 năm 2014). “Janet Jackson's 'Rhythm Nation 1814' Revisited By Jimmy Jam & Terry Lewis: Track-by-Track Review”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  134. ^ “Taylor Swift's 1989 and Other Albums With Five Top 10 Hits or More - Billboard”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Fred Bronson's Billboard Book of Number 1 Hits, 5th Edition (ISBN 0-8230-7677-6)
  • Christopher G. Feldman The Billboard Book of No. 2 Singles (ISBN 0-8230-7695-4)
  • Joel Whitburn's Top Pop Singles 1955-2002 (ISBN 0-89820-155-1)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Pop Charts, 1955-1959 (ISBN 0-89820-092-X)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Sixties (ISBN 0-89820-074-1)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Seventies (ISBN 0-89820-076-8)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Eighties (ISBN 0-89820-079-2)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Nineties (ISBN 0-89820-137-3)
  • Thông tin tham khảo có thể kiểm tra tại Trang lưu trữ của Billboard

Điều gì làm cho một ca sĩ nhạc rock huyền thoại thực sự? Chắc chắn, sự hiện diện trên sân khấu và khả năng quất các cuộc tụ họp lớn nhất vào một thành phần điên cuồng là những thành phần quan trọng, nhưng có nhiều ca sĩ nhạc rock nam giỏi nhất hơn thế. Một ban nhạc rock có một khởi đầu nếu thủ lĩnh của họ có phạm vi, sức mạnh, khớp nối và kiểm soát kỹ thuật, nhưng để thực sự mang tính biểu tượng, họ cũng cần phải phá vỡ ranh giới, di chuyển chúng tôi về mặt cảm xúc và sở hữu một sự lôi cuốn không thể xác định được đưa họ vào một lớp học của riêng họ .

Một số điều trên có thể được nghiên cứu hoặc dạy, nhưng một giọng ca thực sự mang tính biểu tượng là một cá nhân độc đáo, người chỉ đơn giản là có thể được phát minh. Bất cứ nơi nào họ đứng về chuyên môn, nhu cầu giao tiếp của họ sẽ vượt lên trên, và - như chúng ta sẽ thấy trong một vài trường hợp trong suốt danh sách 100 ca sĩ nhạc nam hay nhất mọi thời đại của chúng ta - trên sân khấu có thể là một trường hợp lựa chọn cuộc sống hoặc cái chết.

Tổng hợp một danh sách các ca sĩ nhạc rock nam hay nhất là một thách thức khá nhiều: vẻ đẹp và/hoặc sức mạnh của một giọng nói tuyệt vời tác động đến tất cả chúng ta ở các cấp độ khác nhau, cá nhân. Vì vậy, hãy để chúng tôi nghe giọng nói của bạn nếu bạn nghĩ rằng chúng tôi đã bỏ lỡ ai đó.

Trong khi bạn đang đọc, hãy nghe danh sách nhạc ca sĩ nhạc rock nam hay nhất của chúng tôi ở đây. Trong khi đó, Udiscover Music sẽ cố gắng xác định 100 ca sĩ nhạc rock xuất sắc nhất mọi thời đại.. In the meantime, uDiscover Music will try to determine the 100 best male rock singers of all time.

100: Mark E Smith

Có thể cho rằng các vùi gây tranh cãi nhất trong danh sách các ca sĩ rock nam hay nhất mọi thời đại này, thủ lĩnh cuối mùa thu không có nghi ngờ phân cực ý kiến ​​ở đây như ban nhạc của anh ấy đã làm trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong khi điểm nhấn Mancunian nặng của Smith, lời bài hát khó hiểu và phân phối giọng hát sing-slurred là bất cứ điều gì ngoài sách giáo khoa, anh ấy là một cá nhân độc đáo, và một mình kiếm được vị trí của anh ấy ở đây. Hãy chọn ra khỏi phạm vi miễn phí:The Fall’s late frontman will no doubt polarize opinion here as his band did in life. However, while Smith’s heavy Mancunian accent, cryptic lyrics and idiosyncratic, sing-slurred vocal delivery were anything but textbook, he was a unique individual, and that alone earns him his place here.
Check out: Free Range

99: Jeff Buckley

Cái chết tình cờ của Jeff Buckley, ở tuổi 30, đã hạn chế những gì đáng lẽ phải là một sự nghiệp tuyệt vời. Trong album duy nhất được phát hành trong suốt cuộc đời của anh ấy, Grace đánh vần năm 1994, anh ấy đã tận dụng toàn bộ phạm vi giọng hát bốn octave của mình trên cả những bài hát gốc tuyệt vời (Dream Dream Brother, Lilac Wine, Hồi Leonard Cohen's Hallelujah, và và Benjamin Britten's Corpus Christi Carol, sau đó hát hoàn toàn trong một falsetto cao. Hãy kiểm tra: Hallelujah
Check out: Hallelujah

98: Jack Bruce

Là một phần ba của siêu nhóm đầu tiên của Rock, Cream, Jack Bruce chủ yếu được nhớ lại vì chơi bass điêu luyện và các kỹ năng sáng tác bài hát khéo léo của anh ấy. Tuy nhiên, anh cũng là một ca sĩ cực kỳ thành công, sở hữu một âm sắc mạnh mẽ, nhưng giai điệu hoàn hảo cho các bài hát Blues Drive Cream và Rock Psychedelic.Cream, Jack Bruce is predominantly recalled for his virtuosic bass playing and his dextrous songwriting skills. However, he was also an extremely accomplished singer, in possession of a forceful, but melodic timbre that was perfect for Cream’s driving blues songs and rich psychedelic rock.
Check out: White Room

97: Thuyền trưởng Beef yêu

Don Van Vliet (còn gọi là Thuyền trưởng Beef yêu) sở hữu một giọng hát năm quãng tám đáng chú ý, mạnh mẽ đến nỗi anh ta đã phá vỡ một mic phòng thu trong khi ghi âm điện điện cho album đầu tay của ban nhạc ma thuật, Safe As Milk. Anh ấy nổi tiếng với sự giao hàng gầm gừ, chịu ảnh hưởng của Delta Blues, và các album ban đầu của ban nhạc của anh ấy đã phản ánh tình yêu của họ về tình yêu của người chơi blues tiên phong Howlin, Wolf và Robert Johnson. Tuy nhiên, các tiêu đề có ảnh hưởng sau đó tại Trạm Radar và Kem cho Crow, tuy nhiên, đã tìm thấy anh ta pha trộn các yếu tố của blues, nhạc jazz miễn phí, rock và avant-garde với kết quả ngoạn mục. Hãy kiểm tra: Ashtray HeartCaptain Beefheart) possessed a remarkable, five-octave vocal range that was so powerful that he reputedly shattered a studio mic while recording “Electricity’ for the Magic Band’s debut album, Safe As Milk. He was renowned for his growling, Delta blues-influenced delivery, and his band’s initial albums reflected their leader’s love of pioneering bluesman Howlin’ Wolf and Robert Johnson. Influential later titles Doc At The Radar Station and Ice Cream For Crow, however, found him blending elements of blues, free jazz, rock, and the avant-garde with spectacular results.
Check out: Ashtray Heart

96: Levon Helm

Tay trống và đồng sáng lập của ban nhạc, Levon Helm đã chia sẻ nhiệm vụ ca sĩ chính với nghệ sĩ piano Richard Manuel và tay bass Rick Danko. Cả ba đều có giọng nói đặc biệt, nhưng sậy, sậy cao hơn của Helm luôn thêm ân sủng và gravitas vào những bài hát mà anh ấy đã đặt dấu ấn không thể bắt chước được, chẳng hạn như đêm họ lái xe dixie cũ, trên đường trên Cripple Creek, và The và The Chữ ký của ban nhạc Hit, Trọng lượng. Hãy kiểm tra: Trọng lượngThe Band, Levon Helm shared lead singer duties with pianist Richard Manuel and bassist Rick Danko. All three had distinctive voices, but Helm’s higher-pitched, reedy burr always added grace and gravitas to the songs he put his inimitable stamp on, such as “The Night They Drove Old Dixie Down,” “Up On Cripple Creek,” and the band’s signature hit, “The Weight.”
Check out: The Weight

Trọng lượng (Remastered 2000)

Bấm để tải video

95: Thần tượng Billy

Các baritone đặc biệt của thủ lĩnh thế hệ X đã biến ngôi sao solo của thập niên 80 Billy Idol đã nợ một khoản nợ của cả Jim Morrison và David Bowie. Tuy nhiên, anh ta đã sử dụng nó để tàn phá hiệu ứng trên một loạt các đài phát thanh kịch tính như Wed Wedding Wedde, : Đám cưới trắngDavid Bowie. However, he employed it to devastating effect on a series of dramatic radio hits such as “White Wedding,” “Rebel Yell,” and “Eyes Without A Face,” all of which became MTV staples and yielded multi-platinum sales.
Check out: White Wedding

94: Bob Seger

Giống như đối thủ của Heartland Rock Bruce Springsteen, Bob Seger đã viết những bài hát cổ áo màu xanh, vô tư với một sự hấp dẫn trên bảng mà anh ta đưa ra với một giọng nói khàn khàn và sự khẩn cấp táo bạo. Với sự giúp đỡ từ các tác phẩm kinh điển của Evergreen như Ramblin, người đàn ông Gamblin GamblinBruce Springsteen, Bob Seger wrote impassioned, blue-collar anthems with an across-the-board appeal which he delivered with a raspy voice and a gutsy urgency. With help from evergreen classics such as “Ramblin’ Gamblin’ Man,” “Night Moves,” and “Turn The Page,” the Detroit-born rock singer-songwriter has moved over 75 million records.
Check out: Night Moves

93: Morrissey

Nổi tiếng - và cũng bị chửi rủa không kém - đối với giọng nói thương tiếc của giọng nói, Morrissey dù sao cũng đã xuất sắc với tư cách là ca sĩ chính với The Smiths và là một ngôi sao solo. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nữ quyền và nhà văn/nhà viết kịch Mancunian Shelagh Delaney, cũng như Glam Rock và Punk, anh không được đào tạo về giọng hát chính thức, nhưng những bài hát pop hoành tráng của anh đã thể hiện từ The Smiths ' Những cú đánh như "Suedehead" và "mỗi ngày giống như Chủ nhật." Kiểm tra: SuedeheadMorrissey has nonetheless excelled as both lead singer with The Smiths and as a solo star. Deeply influenced by feminism and Mancunian writer/dramatist Shelagh Delaney, as well as glam rock and punk, he had no formal vocal training, but his high baritone has graced show-stopping pop songs ranging from The Smiths’ “This Charming Man’ to solo hits such as “Suedehead” and “Everyday Is Like Sunday.”
Check out: Suedehead

92: Peter Frampton

Trước đây gắn liền với Humble Pie và The Herd, Peter Frampton đã vươn lên vị thế siêu sao vào giữa những năm 70 khi album trực tiếp cổ điển của anh Frampton trở nên sống động! đã di chuyển hơn tám triệu bản. Một ca sĩ chỉ huy theo cách riêng của mình, Frampton có lẽ liên quan nhiều nhất đến một trong những âm thanh đặc trưng của anh ấy, hiệu ứng hộp nói chuyện (cho phép một nhạc sĩ điều khiển âm thanh của một nhạc cụ bằng miệng của họ), như được giới thiệu trên bản hit Hiển thị tôi theo cách . "Kiểm tra: Chỉ cho tôi con đườngHumble Pie and The Herd, Peter Frampton rose to superstar status in the mid-70s when his classic live album Frampton Comes Alive! moved over eight million copies. A commanding singer in his own right, Frampton is perhaps most associated with one of his signature sounds, the talk-box effect (which allows a musician to control an instrument’s sound with their mouth), as showcased on the hit “Show Me The Way.”
Check out: Show Me The Way

91: Geddy Lee

Mặc dù rất ít người hâm mộ nhạc rock sẽ tranh luận thủ lĩnh Rush Geddy Lee là một trong những người chơi nhạc rock vĩ đại nhất - và linh hoạt nhất - những người chơi bass, khả năng thanh nhạc của anh ấy có xu hướng phân cực ý kiến. Anh ấy đã hát trong một sân cao trên các bản phát hành của ban nhạc thập niên 70 như Caress of Steel và một cuộc chia tay với các vị vua, nhưng đã phát hiện ra một đăng ký sâu hơn rằng anh ấy đã sử dụng hiệu ứng lôi cuốn trên chuỗi các tác phẩm kinh điển đầu thập niên 80 của Rush như sóng vĩnh viễn và hình ảnh di chuyển. OUT: Tinh thần của đài phát thanhRush frontman Geddy Lee is one of rock’s greatest – and most versatile – bassists, his vocal abilities tend to polarise opinion. He sang in a high pitch on the band’s landmark 70s releases such as Caress Of Steel and A Farewell To Kings, but discovered a deeper register that he used to charismatic effect on Rush’s string of early 80s classics such as Permanent Waves and Moving Pictures.
Check out: The Spirit Of Radio

Rush - Tinh thần của đài phát thanh (từ "rắn và mũi tên")

Bấm để tải video

90: Ian Astbury

Ian Astbury đã sử dụng một âm sắc sáng hơn một chút khi anh ấy hát trên các bản thu âm gothic/hậu punk trước đó của giáo phái, mặc dù anh ấy đã chuyển Jim Morrison bên trong của mình khi ban nhạc của anh ấy chuyển sang phong cách nhạc rock truyền thống hơn trên Album Touchtone Electric và Sonic Temple vào cuối những năm 80S và đầu những năm 90. Hoàn thiện tiếng gầm gừ và vênh váo của anh ấy, khả năng của Astbury để tiêm đúng sức mạnh và sự hài hước cho việc giao hàng của anh ấy đã phục vụ anh ấy từ trước đến nay - thậm chí cho phép anh ấy thay thế anh hùng của mình khi cánh cửa được cải tổ ngắn gọn vào đầu năm 00. Người đàn bàThe Doors briefly reformed in the early 00s.
Check out: Fire Woman

89: Tommy Shaw

Được ban phước với giọng hát khó đáng nhớ, Tommy Shaw là một trong số nhiều ca sĩ có khả năng cao trong Styx, mặc dù nhiều người sẽ cho rằng anh ấy là người thành thạo và linh hoạt nhất trong số các giọng ca của nhóm, có thể xử lý các số uptempo lái xe cứng, những bản ballad chậm chạp và đẹp nhiều bất cứ điều gì ở giữa. Anh ấy đã đóng góp những đóng góp cho danh mục Styx, với Ren Renegade, hay người đàn ông cổ áo màu xanh vượt thời gian (đêm dài) xứng đáng được đưa vào bất kỳ danh sách các ca sĩ nhạc rock nam hay nhất.Styx, though many would argue that he’s the most proficient and versatile of the group’s vocalists, able to handle hard-driving uptempo numbers, slow ballads, and pretty much anything in between. He’s made telling contributions to Styx’s catalogue, with “Renegade” or the timeless “Blue Collar Man (Long Nights)” worthy of inclusion in any list of the best male rock singers.
Check out: Blue Collar Man (Long Nights)

88: Chester Bennington

Trước cái chết bi thảm của mình, vào tháng 7 năm 2017, Linkin Park, Chester Bennington đã tự nhận mình là một trong những ca sĩ nhạc rock nam có ảnh hưởng và quan trọng nhất của thế kỷ 21. Cũng như là một người biểu diễn trực tiếp quyến rũ, Bennington đáng chú ý với sự khàn khàn đặc trưng của anh ấy, phân phối giọng hát mãnh liệt và tiếng thét lên cột sống, thứ năm của anh ấy.his tragic death, in July 2017, Linkin Park’s Chester Bennington had established himself as one of the most influential and significant male rock singers of the 21st Century. As well as being a captivating live performer, Bennington was notable for his signature raspy, intense vocal delivery and his spine-chilling, fifth-octave screams.
Check out: One Step Closer

87: Paul Weller

Ban đầu bị ảnh hưởng bởi những ngôi sao thập niên 60 được bao gồm mod như Who Roger Roger Daltrey và những khuôn mặt nhỏ bé Steve Steve Marriott, giọng nói của Paul Weller, đã không mất đi ngọn lửa hay niềm đam mê nào mà anh ta thể hiện trong thời hoàng kim Jam. Tuy nhiên, gần đây, nó đã đạt được sự tinh tế và ân sủng đã giúp anh ta giải quyết các chất liệu, từ thôi của sự nghiệp solo nhiều thập kỷ chiết trung của anh ấy. Hãy kiểm tra: Hướng dươngThe Who’s Roger Daltrey and Small Faces’ Steve Marriott, Paul Weller’s voice has lost none of the fire or passion he displayed during The Jam’s heyday. More recently, though, it’s gained a subtlety and grace which have helped him tackle material ranging from the hypnotic “Sunflower” to the acoustic “Friday Street” and the soul-jazz flavored “It’s Written In The Stars” as he’s risen to the challenges of his eclectic, multi-decade solo career.
Check out: Sunflower

Paul Weller - Hướng dương (video chính thức)

Bấm để tải video

90: Ian Astbury

Ian Astbury đã sử dụng một âm sắc sáng hơn một chút khi anh ấy hát trên các bản thu âm gothic/hậu punk trước đó của giáo phái, mặc dù anh ấy đã chuyển Jim Morrison bên trong của mình khi ban nhạc của anh ấy chuyển sang phong cách nhạc rock truyền thống hơn trên Album Touchtone Electric và Sonic Temple vào cuối những năm 80S và đầu những năm 90. Hoàn thiện tiếng gầm gừ và vênh váo của anh ấy, khả năng của Astbury để tiêm đúng sức mạnh và sự hài hước cho việc giao hàng của anh ấy đã phục vụ anh ấy từ trước đến nay - thậm chí cho phép anh ấy thay thế anh hùng của mình khi cánh cửa được cải tổ ngắn gọn vào đầu năm 00. Người đàn bàJacques Brel’s “Next.” He died in 1982, but has been cited as an influence by John Lydon and Nick Cave, while Slade’s Noddy Holder astutely described his music as “decadent rock burlesque.”
Check out: Next

89: Tommy Shaw

Được ban phước với giọng hát khó đáng nhớ, Tommy Shaw là một trong số nhiều ca sĩ có khả năng cao trong Styx, mặc dù nhiều người sẽ cho rằng anh ấy là người thành thạo và linh hoạt nhất trong số các giọng ca của nhóm, có thể xử lý các số uptempo lái xe cứng, những bản ballad chậm chạp và đẹp nhiều bất cứ điều gì ở giữa. Anh ấy đã đóng góp những đóng góp cho danh mục Styx, với Ren Renegade, hay người đàn ông cổ áo màu xanh vượt thời gian (đêm dài) xứng đáng được đưa vào bất kỳ danh sách các ca sĩ nhạc rock nam hay nhất.The Cure’s Robert Smith nonetheless has one of the most distinctive singers in rock. Often animated in his high-register delivery, Smith is extremely adept at channeling his emotions through his voice. It’s an indefinable quality that has been a feature of The Cure’s bleak masterpieces such as Faith, Pornography, and the towering Disintegration, but also their string of solid-gold pop hits including “Close To Me,” “Lovesong,” and “The Lovecats.”
Check out: Lovesong

88: Chester Bennington

Trước cái chết bi thảm của mình, vào tháng 7 năm 2017, Linkin Park, Chester Bennington đã tự nhận mình là một trong những ca sĩ nhạc rock nam có ảnh hưởng và quan trọng nhất của thế kỷ 21. Cũng như là một người biểu diễn trực tiếp quyến rũ, Bennington đáng chú ý với sự khàn khàn đặc trưng của anh ấy, phân phối giọng hát mãnh liệt và tiếng thét lên cột sống, thứ năm của anh ấy.Steve Miller initially immersed himself in Chicago’s legendary blues scene, where he jammed with greats like Muddy Waters and Buddy Guy. His amiable yet commanding vocal delivery came into its own during the early 70s, when his band struck on an irresistibly smooth and melodic blues-rock sound that eventually led to their Greatest Hits 1974-78 anthology going 13-times platinum ahead of their 2016 induction to the Rock And Roll Hall Of Fame.
Check out: The Joker

83: Tim Buckley

Tim Buckley qua đời ở tuổi 28, năm 1975 và nhận được rất ít sự công nhận trong suốt cuộc đời của mình. Tuy nhiên, anh đã có một sự nghiệp phát triển, và một số album đầu tiên của anh, bao gồm Goodbye và Hello (1967) và năm 1970 của những ngôi sao được tạo ra-sau này bao gồm cả bài hát tập luyện Cappella Lush, đầy tiếng vang cho Siren,- Nắm bắt sự khéo léo táo bạo của anh ấy như một giọng ca chính. Người hâm mộ xác nhận John Lydon nói rằng, Sweet Sweet Surrender (từ năm 1972, lời chào từ LA), đưa tôi đến những nơi tuyệt vời. Hãy kiểm tra: Bài hát cho Siren
Check out: Song To The Siren

82: Phil Collins

Peter Gabriel, cựu đồng nghiệp Genesis của Phil Collins, Peter Gabriel có xu hướng nhận những lời khen ngợi, nhưng Collins đã thành công đảm nhận vai diễn chính sau khi Gabriel Gabriel rời đi và sau đó ra mắt một trong những sự nghiệp solo thành công nhất của Rock và Pop. Chỉ riêng các số liệu bán hàng (hơn 100 triệu và đếm) rất ấn tượng, nhưng giọng nói chính đáng của Collins đã thu hút người hâm mộ của tất cả các thuyết phục. Death Cab cho Cutie, Ben Gibbard đã từng nói rằng Có tất cả những người bị biến dạng và flutters nhỏ này - [anh ấy] thực sự nhào lộn, trong khi Creation Record’ former Genesis bandmate Peter Gabriel tends to pick up the vocal plaudits, but Collins successfully took up the lead vocal roles after Gabriel’s departure and later launched one of rock and pop’s most successful solo careers. The sales figures alone (over 100 million and counting) are impressive, but Collins’ plaintive voice has attracted fans of all persuasions. Death Cab For Cutie’s Ben Gibbard once said “there are all these little inflections and flutters – [he’s] really acrobatic”, while Creation Records supremo Alan McGee believes that Collins’ songs “immediately lend themselves to being sampled”.
Check out: Mama

81: Ray Davies

Thủ lĩnh Kinks, thường được ca ngợi chủ yếu cho bài hát của mình; Những câu chuyện đặc biệt, kỹ năng quan sát và bình luận xã hội gượng gạo của ông đã tạo ra một số bài hát quý giá nhất trong lịch sử nhạc rock và pop. Tuy nhiên, hầu hết các nhạc sĩ tiếng Anh này cũng sở hữu một giọng nói chân thành và có thể nhận ra ngay lập tức, với sự thay đổi melancholic đặc biệt của nó là một đặc điểm của những bản hit cổ điển như mệt mỏi khi chờ đợi bạn, buổi chiều đầy nắng, và hoàng hôn rực rỡ. Kiểm tra: Hoàng hôn Waterloo’ frontman is usually praised primarily for his songwriting; his distinctive narratives, observational skills and wry social commentaries have produced some of the most treasured songs in the history of rock and pop. This most English of songwriters, however, also possesses a heartfelt and instantly recognisable voice, with its distinctive melancholic twist a feature of classic hits such as “Tired Of Waiting For You,” “Sunny Afternoon,” and the glorious “Waterloo Sunset.”
Check out: Waterloo Sunset

80: Jon Anderson

Ca sĩ, nhạc sĩ và nghệ sĩ đa nhạc cụ Jon Anderson đồng sáng lập Prog-Rock Monoliths Có với Chris Squire vào năm 1968 và được coi là một trong những ca sĩ vĩ đại nhất của Rock. Mặc dù có lẽ một thứ gì đó có hương vị có được, nhưng giọng nói của anh ấy rất đặc biệt, mặc dù nó là một quan niệm sai lầm thường được giữ rằng Anderson hát falsetto, vì giọng hát bình thường của anh ấy nằm trên phạm vi tenor. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2008 với Pittsburgh Post-Gazette, anh ấy nói, tôi là một người thuê Alto và tôi có thể hát những nốt cao nhất định, nhưng tôi không bao giờ có thể hát falsetto, vì vậy tôi đi và đánh họ cao! Bờ rìaYes with Chris Squire in 1968 and is regarded as one of rock’s greatest singers. Though perhaps something of an acquired taste, his voice is undeniably distinctive, though it’s a commonly held misconception that Anderson sings falsetto, as his normal singing voice is naturally above the tenor range. In a 2008 interview with Pittsburgh Post-Gazette, he said, “I’m an alto tenor and I can sing certain high notes, but I could never sing falsetto, so I go and hit them high!”
Check out: Close To The Edge

79: Peter Gabriel

Thủ lĩnh của Genesis, nhưng cũng là một ngôi sao solo đầy đủ trong hơn bốn thập kỷ, Peter Gabriel đã tích lũy được một cơ thể đáng chú ý với giọng nói đặc biệt, mạnh mẽ và hơi khàn khàn của anh ấy luôn luôn tăng tốc với sự đổi mới nghệ thuật của âm nhạc và những bài hát tuyệt vời nhất quán của anh ấy . Bản hit solo đầu tiên của anh ấy, Hill Solsbury Hill, Kate Bush DuetKate Bush duet “Don’t Give Up” and his spellbinding anti-apartheid hymn, “Biko,” are three prime examples of Gabriel’s passionate and reflective vocal performances.
Check out: Biko

78: Gregg Allman

Ca sĩ chính với nhạc rock miền Nam blues, The Allman Brothers, Gregg Allman đã có một giọng nói vượt xa những năm tháng của mình, kêu lên với sự khôn ngoan đầy cảm xúc. Một ca sĩ màu trắng trắng phi thường, anh ấy đã thể hiện những màn trình diễn đáng chú ý trên nhiều bài hát quan trọng của ban nhạc của anh ấy (bài viết về bài viết, đó không phải là Cross để chịu đựng, Lưu ý, với bộ studio cuối cùng của anh ấy-Don Don đã sản xuất máu miền Nam-nhận được sự hoan nghênh quan trọng đáng kể và đạt đến đỉnh điểm ở số 11 trên Billboard 200. Kiểm tra: Midnight RiderThe Allman Brothers, Gregg Allman had a voice way beyond his years, crackling with emotional wisdom. A phenomenal white-blues singer, he turned in remarkable performances on many of his band’s key songs (“Whipping Post,” “It’s Not My Cross To Bear,” “Statesboro Blues,” “Midnight Rider”) and continued to release albums of note, with his final studio set – 2017’s Don Was-produced Southern Blood – picking up significant critical acclaim and peaking at No.11 on the Billboard 200.
Check out: Midnight Rider

77: Dave Grohl

Sống sót sau sự đau lòng khi mất người bạn và người bạn cùng nhóm Nirvana Kurt Cobain, thủ lĩnh Foo Fighters Dave Grohl đã nổi lên như một trong những người đứng đầu quan trọng nhất hiện đại trong 25 năm qua. Được biết đến với người thuê nhà sáng sủa nhưng dễ chịu, sự kiểm soát và sức chịu đựng của Grohl rất đáng chú ý, và anh ấy có thể hát những đoạn văn dài, năng lượng cao mà không mệt mỏi hoặc dường như làm tổn thương giọng nói của mình.Nirvana bandmate Kurt Cobain, Foo Fighters leader Dave Grohl has emerged as one of modern rock’s most significant frontmen over the past 25 years. Known for his bright, yet pleasingly husky tenor, Grohl’s control and stamina are remarkable, and he’s able to sing lengthy, high-energy passages without tiring or seemingly hurting his voice.
Check out: Learn To Fly

Foo Fighters - Học cách bay (Video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

76: Hang Nick

Một baritone rất đặc biệt, Nick Cave nổi tiếng với phong cách kể chuyện về cảm xúc và đôi khi của anh ấy, điều này đã giúp anh ấy duy trì sự nghiệp thành công và sáng tạo trong hơn 35 năm. Chủ nghĩa trữ tình bạo lực của anh ấy và các buổi biểu diễn sân khấu mạnh mẽ với bữa tiệc sinh nhật lần đầu tiên khiến anh ấy khác biệt, và anh ấy đã biến thành một trong những người biểu diễn hoàn hảo nhất của Rock. Dẫn đầu từ phía trước với Nick Cave & The Bad Seeds và Grinderman, anh ấy đã cho thấy anh ấy có khả năng cung cấp mọi thứ, từ blues khải huyền đến những bản ballad sombre, nước mắt và nhà để xe nhuốm màu tâm lý với niềm tin lạnh lùng.
Check out: Red Right Hand

75: Billy Fury

Sinh ra Ronald Wycherley ở Liverpool, Billy Fury là một ca sĩ người Anh (và nhạc sĩ hoạt động cho đến khi anh qua đời, từ bệnh thấp khớp, vào năm 1983), người đã trở thành một siêu sao nhạc rock đầu tiên và siêu sao phim trong thời kỳ Beat Boom ban đầu của cuối thập niên 50. Mặc dù cũng nổi tiếng với tư cách là một người thích ballade, cơn giận dữ có giọng nói mạnh mẽ đã tăng lên 24 bản hit trong thập niên 60 và được cho là nghệ sĩ nhạc rock nhạc rock của người Anh đáng tin cậy đầu tiên để viết các bài hát của riêng mình. Bản phát hành quan trọng của anh ấy được cho là năm 1960 album Top 20 The Sound of Fury, bao gồm gần như hoàn toàn bằng chất liệu tự viết. Hãy kiểm tra: Nơi kỳ diệuan early rock’n’roll and film superstar during the original beat boom of the late 50s. Though also renowned as a balladeer, the robust-voiced Fury clocked up 24 hits in the 60s and was arguably the first credible British rock’n’roll artist to write his own songs. His key release was arguably 1960’s Top 20 album The Sound Of Fury, consisting almost entirely of self-penned material.
Check out: Wondrous Place

74: Steve Marriott

Kiểu ca sĩ nhạc rock mà các tính từ như là niềm đam mê và người có hồn, được phát minh ra, Steve Marriott chắc chắn là một trong những giọng nói đáng nhớ của thế hệ anh. Một biểu tượng theo phong cách mod từ người đứng đầu, một chiếc bánh nhỏ (và sau đó khiêm tốn) đã tỏa sáng trên những bản hit của thập niên 60, bao gồm cả What Whatcha sẽ làm về nó Đa dạng như Paul Weller và Steve Perry. Vào năm 2011, Perry nói với Classic Rock: Tôi nhớ sẽ đến Sacramento Auditorium để xem Biểu diễn Humble Pie và Marriott sẽ chỉ ném giọng nói của anh ấy vào khán giả. Tôi thực sự, thực sự yêu thích giọng nói của anh ấy, thật là một ca sĩ tuyệt vời! Hãy xem: Whatcha sẽ làm về nó
Check out: Whatcha Gonna Do About It

73: Marc Bolan

Mặc dù không có năng khiếu về mặt kỹ thuật như một ca sĩ nhạc rock, nhưng thủ lĩnh của T.Rex, Marc Bolan đã bù đắp cho nó bằng một hỗn hợp chiến thắng của sự tự tin và niềm tin, đưa anh ấy đến siêu sao khi album Warrior Warrior đưa anh ấy lên số 1 ở Anh muộn Năm 1971 và mở ra một thời kỳ của T.Rextasy giống như Beatlemania. Tuyệt vời trong việc nhiều giọng hát của anh ấy và được hỗ trợ bởi các nhà sản xuất hàng đầu như Tony Visconti, Bolan vẫn nghe có vẻ rất lôi cuốn về những bản hit lớn nhất của anh ấy, Get Get It On, tình yêu nóng bỏng, trẻ em và những đứa trẻ của cuộc cách mạng. Nó trênT.Rex frontman Marc Bolan made up for it with a winning mixture of confidence and self-belief, which delivered him to superstardom when the Electric Warrior album took him to No.1 in the UK late in 1971 and ushered in a period of Beatlemania-like T.Rextasy. Great at multi-tracking his vocals and assisted by top producers such as Tony Visconti, Bolan still sounds highly alluring on his biggest hits, “Get It On,” “Hot Love,” and “Children Of The Revolution.”
Check out: Get It On

72: Buddy Holly

Trong các điều khoản của Rock ,Nroll, một số nhân vật đột phá như Buddy Holly sinh ra ở Texas. Ảnh hưởng rất lớn đến các ngôi sao trong tương lai The Beatles, The Rolling Stones, Eric Clapton và Elton John, Holly nổi tiếng đã viết, ghi lại và sản xuất tài liệu của riêng mình, và phong cách thanh nhạc cá nhân của anh ấy được đặc trưng bởi tiếng nấc của anh ấy và cách anh ấy có thể thay thế giữa giọng nói và falsetto stylings. Hãy kiểm tra: đó sẽ là ngàyBuddy Holly. A huge influence on future stars The Beatles, The Rolling Stones, Eric Clapton and Elton John, Holly famously wrote, recorded and produced his own material, and his individual vocal style was characterized by his vocal hiccups and the way he could alternate between his regular voice and falsetto stylings.
Check out: That’ll Be The Day

71: Jerry Lee Lewis

Tranh cãi luôn theo Jerry Lee Lewis, đến nỗi mọi thứ, từ chơi piano hưng cảm của anh ta đến sự nổi dậy địa ngục huyền thoại của anh ta thường che khuất sự thật rằng kẻ giết người tự phong là một ca sĩ nhạc rock, sắc thái và sự khác biệt. Không có nghi ngờ về sức mạnh và niềm đam mê của màn trình diễn của anh ấy trên các hit thường xanh, ren Chantilly, một số người khác, một số người theo chủ đề có hương vị quốc gia của anh ấy, như bạn sẽ Hãy có một cơ hội khác cho tôi, cũng có thể bắt được anh ấy ở vị trí tốt nhất của anh ấy. Hãy chọn ra ngoài: những quả bóng lửa tuyệt vời
Check out: Great Balls Of Fire

Những quả bóng lửa tuyệt vời (trực tiếp)

Bấm để tải video

70: David Gilmour

David Gilmour có nhiệm vụ không thể chối cãi là bước vào đôi giày của Mercurial Syd Barrett khi anh gia nhập Pink Floyd. Tuy nhiên, anh đã chứng tỏ mình là một người thay thế có thể khi Floyd đi theo một hướng đi theo định hướng hơn, cắt các album cổ điển bao gồm Meddle, Dark Side of the Moon và ước bạn ở đây vào đầu những năm 70. Gilmour cũng là ca sĩ chính của ban nhạc cho đến khi Roger Waters bước lên trên động vật. Các bản nhạc như không sợ hãi, học tập để học, và một mặt tối, s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s s củaPink Floyd. However, he proved himself an able replacement as Floyd followed a more prog-oriented direction, cutting classic albums including Meddle, Dark Side Of The Moon and Wish You Were Here in the early-to-mid-70s. Gilmour was also the band’s primary singer until Roger Waters stepped up on Animals. Tracks such as “Fearless,” “Learning To Fly,” and Dark Side…’s “Breathe” are great examples of Gilmour’s gentle, feathery delivery.
Check out: Learning To Fly

69: James Hetfield

Thủ lĩnh của Metallica, James Hetfield, ban đầu đã hát trong một sổ đăng ký cao hơn nhiều, nhưng kể từ album thứ ba cổ điển của ban nhạc, Master of Puppets, anh ấy đã cải thiện đáng kể và hiện sở hữu một trong những giọng nói chỉ huy nhất trong Heavy Rock. Nhiều người sẽ lập luận rằng việc giao hàng sâu hơn cổ điển của anh ấy đã được đưa ra vào thời điểm album đen năm 1991, và anh ấy đã duy trì tiêu chuẩn cao của mình kể từ đó, một lần nữa nghe có vẻ mới và được tiếp thêm sinh lực trong bản phát hành mang tính bước ngoặt mới nhất của ban nhạc, Hardwired đã tự hủy. OUT: Nhập Sandman frontman James Hetfield initially sang in a much higher register, but since the band’s classic third album, Master Of Puppets, he’s improved dramatically and now possesses one of the most commanding voices in heavy rock. Many would argue that his “classic” deeper delivery was in place by the time of 1991’s Black Album, and he’s maintained his high standard ever since, again sounding fresh and reinvigorated on the band’s latest landmark release, Hardwired… To Self-Destruct.
Check out: Enter Sandman

68: Dan Reynolds

Một trong những giọng nói khác của Rock Rock hiện đại nhất, Thưởng thức thủ lĩnh Dragons Dan Reynold đã được ca ngợi rộng rãi vì baritone lôi cuốn của mình. Reynold ban đầu không an toàn về giọng nói của anh ấy, và thậm chí đã trải qua ca phẫu thuật để loại bỏ một polyp trên các hợp âm của anh ấy trong khi ban nhạc của anh ấy là cổ điển đầu tiên của anh ấy, thời gian của anh ấy đã leo lên bảng xếp hạng Billboard. Tuy nhiên, những lời khen ngợi của anh ấy đã kiếm được rất nhiều, và anh ấy đã đi từ sức mạnh này sang sức mạnh khác, với những bản hit gần đây như Hồi tín đồImagine Dragons frontman Dan Reynolds has been widely praised for his charismatic baritone. Reynolds was initially insecure about his voice, and even underwent surgery to remove a polyp on his vocal chords while his band’s early classic “It’s Time” climbed the Billboard chart. However, his plaudits are well earned, and he’s since gone from strength to strength, with recent hits such as “Believer,” “Thunder,” and “Natural” showing that he’s currently at the top of his game.
Check out: Thunder

67: David Johansen

David Johansen, sỏi sỏi, baritone ướt đẫm thái độ là một trong những thành phần dễ nhận biết nhất trong DNA DNA búp bê New York. Kể từ đó, anh ta đã vượt ra ngoài Proto-Punk vô chính phủ của Búp bê, thu hút sự chấp nhận rộng rãi cho các bản ghi âm liên quan đến nhạc jazz của anh ta với tư cách là Buster Poindexter trong những năm 80, và tạo ra hai album rất đáng tin cậy, có độ tin cậy của Americana với Harry Smiths vào đầu năm 00. Khủng hoảng tính cáchAmericana-flecked albums with The Harry Smiths in the early 00s.
Check out: Personality Crisis

66: Ian Gillan

Người hành trình nhạc rock cứng đáng tin cậy Ian Gillan lần đầu tiên tìm thấy thành công thương mại đứng trước Deep Purple vào năm 1969. Sau một số album thành công, bao gồm năm 1972 có ảnh hưởng, người đứng đầu bảng xếp hạng của Vương quốc Anh, anh ấy rất thích một câu thần chú thành công, sau đó thay thế một thời gian ngắn Ronnie James Dio trong Black Sabbath. Có lẽ thoải mái nhất khi kết thúc nhạc blues và đá cứng thẳng, anh trở lại Deep Purple cho những người lạ hoàn hảo năm 1984 và tiếp tục thành công trong bảng xếp hạng, với album mới nhất năm 2017 của ban nhạc, Infinite, tăng lên số 6 trong Vương quốc Anh. Người lạDeep Purple in 1969. After several successful albums, including 1972’s influential, UK chart-topping Machine Head, he enjoyed a successful spell fronting Gillan and then briefly replaced Ronnie James Dio in Black Sabbath. Perhaps most comfortable belting out blues and straightahead hard rock, he returned to Deep Purple for 1984’s Perfect Strangers and continues to notch up chart success, with the band’s latest 2017 album, Infinite, rising to No.6 in the UK.
Check out: Perfect Strangers

65: Michael Stipe

Ban đầu được biết đến với giọng hát hay, lẩm bẩm là một phần của sự quyến rũ của R.E.M. Key Key Discs ban đầu thì thầm và tính toán, Michael Stipe bắt đầu phát ra rõ ràng hơn khi các bài hát của anh ấy dựa vào các cuộc thi chính trị-xã hội trên cuộc thi phong phú và tài liệu mạnh mẽ. Vào thời điểm ban nhạc của anh ấy đã sẵn sàng cho các đấu trường, vào cuối những năm 80, Stipe đã chứng minh anh ấy là một trong những ca sĩ đơn lẻ nhất của Rock - điều mà anh ấy sẽ xác nhận hết lần này đến lần khác trong các bản hit lớn nhất của ban nhạc như là mất tôn giáo của tôi, Mặt trăng, "và" mọi người đều đau. "Kiểm tra: mất tôn giáo của tôiR.E.M.’s key early discs Murmur and Reckoning, Michael Stipe began enunciating more clearly as his songs took on socio-political leanings on Lifes Rich Pageant and the punchy Document. By the time his band were ready for arenas, in the late 80s, Stipe had proved he was one of rock’s most singular singers – something he would confirm time and again on the band’s biggest hits such as “Losing My Religion,” “Man On The Moon,” and “Everybody Hurts.”
Check out: Losing My Religion

64: Elvis Costello

Mặc dù được ca ngợi rộng rãi vì các kỹ năng sáng tác của mình và sự khéo léo trữ tình, Elvis Costello cũng nhanh chóng nổi lên như một trong những ca sĩ nguyên bản nhất của Punk Rock. Người sở hữu một baritone mũi với một sân đa dạng và một giao hàng có khả năng uốn lượn thành một kẻ chế nhạo âm thanh, anh ta vẫn có thể nhận ra ngay lập tức, mặc dù thanh quản của anh ta đã trưởng thành khi anh ta tiếp tục giải quyết các album bắt nguồn từ R & B, cũng như Thương hiệu của anh ấy có tính axit rock'n'roll. Hãy kiểm tra: (Có gì buồn cười 'Bout) Hòa bình, tình yêu và sự hiểu biết?Elvis Costello also quickly emerged as one of punk rock’s most original singers. The possessor of a nasal baritone with a diverse pitch and a delivery capable of curdling into an aural sneer, he remains instantly recognizable, even though his larynx has matured as he’s gone on to tackle albums rooted in R&B, jazz and country, as well as his trademark acidic rock’n’roll.
Check out: (What’s So Funny ’Bout) Peace, Love And Understanding?

Elvis Costello & các điểm tham quan - (Bout) rất buồn cười)

Bấm để tải video

63: John Lydon

John Lydon khiêu khích hoặc tôn trọng hoặc đẩy lùi, nhưng cho dù bạn yêu hay ghét anh ta, punk rock punk punk của anh ta đã cung cấp cho X Factor Factor cho một số hồ sơ thay đổi trò chơi nhất được biết đến với Rock. Giọng nói của anh ấy cũng đã nhận được những lời khen ngợi cao cấp từ các quý không thể, không chỉ là nhạc jazz tuyệt vời Ornette Coleman, người đã làm việc với Album Pil Circa. Tôi đã khá khiêm tốn bởi thực tế rất nhiều người jazz đã cho tôi danh tiếng vào khoảng thời gian đóPiL circa Album. “I was quite humbled by the fact a lot of jazz people were giving me kudos around that time,” Lydon told Record Collector in 2016.
Check out: Public Image

62: Jimi Hendrix

Một loạt các bản thu âm, sách và video đã lập luận một cách thuyết phục rằng Jimi Hendrix là thiên tài guitar có tầm nhìn của mọi thời đại. Tuy nhiên, biểu tượng quá cố hiếm khi thu hút những lời khen ngợi như một giọng ca chính, và nó được ghi chép rõ ràng rằng anh ta chứa đựng những dự trữ tự nghi ngờ liên quan đến khả năng hát của mình. Tuy nhiên, Hendrix đã có một baritone phong phú, khói, thực sự trở thành của riêng mình khi anh ta giải quyết các bản ballad, blues hoặc chất liệu bị ảnh hưởng nhiều hơn của anh ta, và nó vẫn là một phần có giá trị thấp trong DNA của anh ta.Jimi Hendrix was the visionary guitar genius of all time. However, the late icon rarely attracts plaudits as a vocalist, and it’s well-documented that he harboured reserves of self-doubt in relation to his singing ability. Nonetheless, Hendrix had a rich, smoky baritone which really came into his own when he tackled ballads, blues or his more soul-inflected material, and it’s still a much under-valued part of his DNA.
Check out: All Along The Watchtower

61: Lemmy

Một trong những nhân vật mang tính biểu tượng nhất từ ​​thế giới đá và kim loại nặng, Lemmy chắc chắn là một trong những ca sĩ nhạc rock Rock theo nghĩa kỹ thuật. Tuy nhiên, giọng khàn, thuốc lá và giọng nói rượu whisky của anh ấy, cùng với guitar bass ầm ầm của anh ấy, là những thành phần không thể thiếu của âm thanh đặc trưng của Motorhead. Những người vĩ đại ngày nay như James Hetfield và Dave Grohl chỉ là hai trong số nhiều người hâm mộ nhiệt tình của anh ấy. Hãy xem ra: Tôi biết cách chếtMotörhead’s hallmark sound. Present-day greats such as James Hetfield and Dave Grohl are just two of his many enthusiastic fans.
Check out: I Know How To Die

60: Ian Curtis

Sự tự sát bi thảm của Ian Curtis đã ngăn chặn sự nghiệp của Joy Division, nhưng ban nhạc của anh ấy đã phát hành một loạt các đĩa có ảnh hưởng nhất sau punk, và baritone melancholic của Curtis, và giao hàng mãnh liệt đóng vai trò chính trong thành công của họ. Mặc dù có thể nhận ra ngay lập tức theo cách riêng của mình, Curtis cũng bị ảnh hưởng bởi anh hùng của anh ta, Iggy Pop, và thậm chí đã mượn một bộ sưu tập Frank Sinatra từ ông chủ của Factory Records Tony Wilson trước khi ghi lại bản hit cổ điển của Joy Division : Tình yêu sẽ chia cắt chúng taIggy Pop, and even borrowed a Frank Sinatra hits collection from Factory Records’ boss Tony Wilson before recording Joy Division’s classic hit “Love Will Tear Us Apart.”
Check out: Love Will Tear Us Apart

59: Ronnie Van Zant

Người đứng đầu ban đầu mang tính biểu tượng của Lynyryd Skynyrd, thường được nhớ lại với giọng hát baritone của anh ấy, đó là một đặc điểm của ban nhạc của anh ấy trong các bài hát truyền thuyết về huyền thoại của anh ấy là Free Freebird, và Sweet Sweet Home Alabama. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tầm trung ngọt ngào và êm dịu và cũng có thể xử lý các bản ballad như người đàn ông đơn giản ám ảnh với sự bất ngờ thực sự. Hãy kiểm tra: Người đàn ông đơn giản’s iconic original frontman is generally recalled for his baritone vocals, which were such a feature of his band’s legend-enshrining tracks “Freebird” and “Sweet Home Alabama.” However, he also had a sweet and mellow mid-range and could also handle ballads such as the haunting “Simple Man” with real aplomb.
Check out: Simple Man’

58: Trent Reznor

Mặc dù có lẽ bị hạn chế về khả năng kỹ thuật, thủ lĩnh của Nine Inch Nails, Trent Reznor mang đến cho ban nhạc của anh ấy những bài hát của anh ấy với sự hoảng loạn và sức thu hút mà một mình anh ấy, và anh ấy đã phát triển một tiếng croon đáng sợ, đã xác định phong cách của anh ấy. Stereogum thậm chí còn gợi ý rằng, không có nhạc sĩ cực đoan khác của người Hồi giáo ngoài Ozzy Osbourne đã đi theo con đường của mình cho đến nay trong bản nhạc pop chính thống. Hãy kiểm tra: Ngày thế giới biến mấtNine Inch Nails’ frontman Trent Reznor delivers his band’s songs with a panache and charisma that’s his alone, and he’s developed a creepy, nasally croon which has defined his style. Stereogum even suggested that “no other “extreme’ musician besides Ozzy Osbourne has wormed his way so far into mainstream pop.”
Check out: The Day The World Went Away

57: Tom Petty

Người quá cố được đánh giá cao của Tom Petty & The Heartbreakers có một giọng nói baritone nhẹ đặc biệt và bền bỉ, rất hoàn hảo cho việc lái xe ban nhạc của anh ấy, nhạc rock cổ áo xanh của Byrds-esque. Giống như ban nhạc của anh ấy, giọng nói của Petty đã tạo ra cả sự dẻo dai và dịu dàng, vì vậy không có gì ngạc nhiên , Tôi không thể quay lại, và bản song ca không thể xóa nhòa với ca sĩ Fleetwood Mac Stevie NicksTom Petty & The Heartbreakers had a distinctive and enduring light baritone voice, which was perfect for his band’s driving, Byrds-esque blue-collar rock. Like his band, Petty’s voice oozed both toughness and tenderness, so it’s no surprise he was one of rock’s most durable and distinctive presences, with four decades’ worth of classics to his name, including “Listen To Her Heart,” “Free Fallin’,” “I Won’t Back Down,” and the indelible duet with Fleetwood Mac singer Stevie Nicks “Stop Draggin’ My Heart Around.”
Check out: I Won’t Back Down

Tom Petty và The Heartbreakers - Tôi sẽ không lùi bước (video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

56: Bryan Adams

Nổi tiếng với những người đàn ông Husky đặc biệt và khả năng thanh nhạc đáng tin cậy nhất quán của anh ấy, siêu sao người Canada Bryan Adams đã tăng hơn 75 triệu doanh số trên toàn thế giới. Nổi bật bao gồm rất nhiều bản hit thường xanh như Mùa hè năm 69 ,, "Điều đó đứng đầu bảng xếp hạng Vương quốc Anh không dưới 16 tuần. Hãy xem: (mọi thứ tôi làm) Tôi làm điều đó cho bạnBryan Adams has notched up over 75 million sales worldwide. Stand-outs include numerous evergreen hits such as “Summer Of ’69,” “Run To You,” US chart-topper “Heaven” and, of course, 1991’s legendary power ballad “(Everything I Do) I Do It For You,” which topped the UK charts for no less than 16 weeks.
Check out: (Everything I Do) I Do It For You

55: David Lee Roth

Biểu tượng, lập dị và mạnh mẽ, giọng ca chính Diamond Diamond, David Lee Roth là một trong những thành phần xác định của Van Halen, cùng với phù thủy guitar của Eddie Van Halen, và anh trở thành một kỹ thuật viên giọng hát mạnh mẽ và mạnh mẽ của mình trong sự nghiệp solo sau đó. Mạnh mẽ, có tâm hồn và hoạt hình, giọng nói đa năng của Roth, có một giai điệu đen tối, gần giống với Ian Gillan và anh ấy có thể thắt nó ra với những người giỏi nhất trong số họ.
Check out: Jump

54: Eric Clapton

Guitar God Eric Clapton chỉ chuyển sang hát không cần thiết khi bị áp lực phải thực hiện giọng hát chính trong album Lone của Blind Faith vào năm 1969. Tuy nhiên, mặc dù anh ấy đã sớm thấy mình có một giọng nói nổi bật, và anh ấy vẫn có thể đặt dấu ấn không thể tưởng tượng được của mình lên Tất cả mọi thứ từ các rocker gritty đến blues oi bức và những bản ballad dịu dàng. Hãy thử nghiệm: LaylaEric Clapton only turned to singing out of necessity when pressured to perform lead vocals on Blind Faith’s lone album in 1969. Despite his initial reluctance, however, he soon found he had a distinguished voice, and he can still put his inimitable stamp on everything from gritty rockers to sultry blues and tender ballads.
Check out: Layla

53: Little Richard

Rock xôngn hèRoll Tiên phong nhỏ Richard, phong cách hét lên của Richard, đã cung cấp cho thể loại này một trong những âm thanh giọng hát có thể nhận dạng và có ảnh hưởng nhất của nó. Nhà văn âm nhạc của Hoa Kỳ Richie Unterberger được cho là đã tóm tắt nó tốt nhất khi ông viết rằng việc giao hàng tốc độ cao của Richard, các trill ngây ngất và lực lượng vui mừng quá mức trong tiếng hát của ông là rất quan trọng trong việc tăng điện áp từ R & B mạnh mẽ, nhưng khác, nhưng khác biệt, nhưng khác Rock'n'roll ”.Check Out: Tutti FruttiLittle Richard’s raspy shouting style provided the genre with one of its most identifiable and influential vocal sounds. US music writer Richie Unterberger arguably summarised it best when he wrote that Richard’s “high speed deliveries, ecstatic trills and the overjoyed force of personality in his singing was crucial in upping the voltage from high-powered R&B into the similar, yet different, guise of rock’n’roll”.
Check out: Tutti Frutti

52: Eddie Vedder

Pearl Jam nổi lên như một trong những hành động lớn nhất của Grunge, nhưng thủ lĩnh kiên cường và lôi cuốn của họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ họ ở bàn hàng đầu của Rock. Baritone của Vedder, có thể nhận ra ngay lập tức, nhưng anh ta có nhiều phạm vi hơn nhiều tín dụng, và anh ta cũng có thể đạt được các ghi chú cao hơn với thẩm quyền. Hãy kiểm tra: màu đen (từ MTV không được cắm) emerged as one of grunge’s biggest acts, but their resilient and charismatic frontman has played a significant role in keeping them at rock’s top table. Vedder’s craggy baritone is instantly recognisable, but he has more range than many credit him with, and he can also reach higher notes with authority.
Check out: Black (from MTV Unplugged)

51: Joe Strummer

Các huấn luyện viên thanh nhạc không thể nghi ngờ rằng, thủ lĩnh biểu tượng của Clash, Joe Strummer vì sự thiếu khả năng kỹ thuật, những câu nói tội nghiệp của anh ấy và sự tức giận hầu như không kiểm soát trong việc giao hàng của anh ấy. Tuy nhiên, hầu hết những người hâm mộ nhạc rock sành điệu sẽ nhanh chóng tranh luận rằng những sự không hoàn hảo này - kết hợp với những dự trữ đam mê dường như không thể chối cãi của Strummer, và sự sáng chói của anh ấy mà ban nhạc của anh ấy đã cộng hưởng ngày hôm nay.The Clash’s iconic frontman Joe Strummer for his lack of technical ability, his poor phrasing and the barely-controlled anger in his delivery. Yet most discerning rock fans would just as quickly argue that these imperfections – combined with Strummer’s seemingly unquenchable reserves of passion and his narrative brilliance –ensure that his band’s greatest songs resonate today.
Check out: London Calling

50: Thom Yorke

Bên cạnh một cơ thể đáng kể của công việc với Radiohead, Thom Yorke đã hợp tác với các nghệ sĩ đa dạng như Unkle và Björk, và sản xuất các tác phẩm nhạc phim được ca ngợi rộng rãi như Suspiria được đưa vào danh sách giải thưởng của Học viện. Giọng hát của anh ấy rộng rãi là một kỳ hạn, nhưng anh ấy có một âm sắc độc đáo và falsetto của anh ấy có một chất lượng kỳ lạ, dị thường đã được ca ngợi rộng rãi và thường được bắt chước-nhưng không bao giờ được cải thiện.Björk, and produced widely-praised soundtrack work such as the Academy Award-shortlisted Suspiria. His singing voice is broadly a tenor, but he has a unique timbre and his falsetto has an eerie, androgynous quality which has been widely-praised and often imitated – but never bettered.
Check out: Just

49: George Harrison

George Harrison thường bị lu mờ bởi những người đồng nghiệp John Lennon và Paul McCartney, nhưng anh ta không phải là một giọng ca chính. Một kỳ hạn cao, Harrison thường hát những bản hòa âm cao trong các bài hát của Beatles, nhưng anh ấy cũng có thể hát trong một sổ đăng ký thấp hơn khi được yêu cầu. Anh ấy có một giọng hát rất tốt, với chất lượng rực rỡ, vẫn rất đặc biệt. Hãy chọn ra ngoài: Trong khi cây đàn guitar của tôi nhẹ nhàng khóc was often overshadowed by his fellow-Beatles John Lennon and Paul McCartney, but he was no slouch as a vocalist. A high tenor, Harrison often sang high harmonies on Beatles songs, but he could also sing in a lower register when required. He had a very decent vocal range, with a bright, ringing quality that remains highly distinctive.
Check out: While My Guitar Gently Weeps

Trong khi cây đàn guitar của tôi nhẹ nhàng khóc (Remastered 2009)

Bấm để tải video

48: Perry Farrell

Jane nghiện và khiêu dâm cho thủ lĩnh Pyros Perry Farrell có một giọng nói tenor rất khác biệt, tươi sáng và khá thô thiển với chất lượng mũi. Nó có các nhà phê bình của nó, nhưng nó cũng rất kỳ dị và, đó là cách mà Farrell, bản hòa quyu độc đáo với sự rung cảm ảo giác của Jane, nó khó có thể tưởng tượng bất kỳ giọng ca nào khác cung cấp âm dương cho ban nhạc Yang Yang. and Porno For Pyros frontman Perry Farrell has a very distinct, bright and rather raspy tenor voice with a nasal quality. It has its critics, but it’s also highly singular and, such is the way Farrell’s unique tonality blends with the sprawling, psychedelic vibes of Jane’s Addiction, it’s hard to imagine any other vocalist providing the yin to the band’s yang.
Check out: Irresistible Force

47: Marilyn Manson

Marilyn Manson từ lâu đã được ca ngợi là một trong những nhân vật khét tiếng và gây tranh cãi nhất được biết đến với Rock. Tuy nhiên, trong khi hình ảnh khiêu khích của anh ấy và những trò hề trên giai đoạn (và ngoài) gây sốc của anh ấy thường chộp lấy các tiêu đề, âm sắc đáng sợ đặc biệt của anh ấy và sự phân phối mạnh mẽ mạnh mẽ .Check Out: Antichrist Superstar has long been hailed as one of the most notorious and controversial figures known to rock. Yet, while his provocative image and shocking on- (and off-) stage antics usually grab the headlines, his distinctive creepy timbre and powerfully aggressive vocal delivery – which includes a propensity for truly eerie, blood-curdling screaming – shouldn’t be overlooked.
Check out: Antichrist Superstar

46: Van Morrison

Sự nghiệp của Van Morrison, Chameleonic đã chứng kiến ​​anh ta giải quyết mọi thứ từ họ R & B đất đai cho đến những sự trừu tượng mơ mộng của những tuần lễ rất nhiều. Mặc dù tỷ lệ làm việc sung mãn của anh ấy cho thấy không có dấu hiệu buông xuôi, nhưng khả năng của anh ấy cũng không phải là tiếng hát của anh ấy trên tất cả các bản phát hành mới nhất của anh ấy, chẳng hạn như linh hoạt nhạc jazz và bộ sưu tập bản gốc và bản gốc của Tiên tri. Đi đến nơi tình yêu làVersatile and The Prophet Speaks’ consummate collection of covers and originals.
Check out: Got To Go To Where The Love Is

45: Lou Reed

Anh ấy đã cắt răng như một nhạc sĩ nội bộ cho Pickwick Records, nhưng Lou Reed đã tạo ra một mẫu nhạc rock hoàn toàn mới với bản vẽ New York nửa nói của anh ấy khi anh ấy đứng trước Velvet dưới lòng đất. Mặc dù họ đã bán một vài hồ sơ vào thời điểm đó, Velvets có ảnh hưởng đáng kể đến David Bowie đang phát triển nhanh Và mất mát, nhưng nó đã phân chia các nhà phê bình cho đến cái chết của anh ta, vào tháng 10 năm 2013. Kiểm tra: Venus in FursThe Velvet Underground. Though they sold few records at the time, the Velvets were a significant influence on the fast-rising David Bowie, who produced Reed’s mainstream breakthrough album, Transformer, in 1972. Reed’s deadpan delivery remained the ideal vehicle for later career classics New York and Magic And Loss, but it divided critics right up to his death, in October 2013.
Check out: Venus In Furs

44: John Fogerty

Creedence Clearwater Revival đã ghi nhận một chuỗi các bản hit dường như vô tận vào cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Tuy nhiên, nếu bạn không biết họ đến từ khu vực Vịnh San Francisco, bạn có thể cho rằng họ đến từ miền Nam sâu thẳm, vì phong cách giọng hát đất của John Fogerty, cho rằng anh ấy đã được rửa tội ở đồng bằng Mississippi. Tôi gặp khó khăn trong việc giải thích rằng, Fog Fogerty đã từng nói với Rolling Stone. Tôi đã từng đến Mississippi khi tôi viết cuốn Mary Mary Mary, hay hoặc Louisiana khi tôi viết bài sinh ra trên Bayou, nhưng bằng cách nào đó, tất cả đều có vẻ quen thuộc với tôi. Hãy kiểm tra: Green River notched up a seemingly endless string of hits in the late 60s and early 70s. However, if you didn’t know they hailed from San Francisco’s Bay Area, you’d probably assume they were from the Deep South, as John Fogerty’s earthy vocal style suggested he’d been baptised in the Mississippi delta. “I had trouble explaining that,” Fogerty once told Rolling Stone. “I hadn’t been to Mississippi when I wrote “Proud Mary,’ or Louisiana when I wrote “Born On The Bayou,’ but somehow it all just seemed familiar to me.”
Check out: Green River

43: Sting

Giọng nói của Sting có một sự khẩn cấp hưng cảm khi anh ấy bắt đầu ghi bàn với cảnh sát, trong đó có tin nhắn của Rox Roxanne và trong một chai, nhưng nó đã trưởng thành trong nhiều năm qua, và sự nghiệp solo của anh ấy đã mang lại những màn trình diễn hoàn hảo như những gì được tìm thấy trên Những lĩnh vực vàng của vàng và người khác nếu tôi mất niềm tin vào bạn. Trên đường đi, anh ấy thường xuyên thể hiện sự linh hoạt của mình với tư cách là một giọng ca’s voice had a manic urgency when he started scoring hits with The Police, among them “Roxanne” and “Message In A Bottle,” but it has matured steadily over the years, and his solo career has yielded consummate performances such as those found on “Fields Of Gold” and “If I Ever Lose My Faith In You.” Along the way he’s frequently demonstrated his versatility as a vocalist, with the haunting “Every Breath You Take” and the yearning “King Of Pain” providing another two of his personal bests.
Check out: Every Breath You Take

42: Hoàng tử

Được ca ngợi là một nhạc sĩ bậc thầy, người có thể vượt qua bất cứ ai trên hầu hết mọi nhạc cụ trên hành tinh, Prince, phạm vi của một ca sĩ gần như rộng như sự thay đổi phong cách trong âm nhạc của anh ấy. Những album đầu tiên của anh ấy đã chứng kiến ​​anh ấy ảnh hưởng đến một falsetto kỳ dị đã chơi theo sở thích của anh ấy để làm mờ ranh giới - một phong cách mà sau này sẽ phát triển thành giọng nói quyến rũ nhất trong danh sách các ca sĩ rock nam hay nhất này. Khi anh ta không bỏ những lời hô hào sôi nổi, làm việc với các điệu nhảy thành điên cuồng, sự sắp xếp giọng hát của anh ta thường tiết lộ một ảnh hưởng phúc âm đôi khi bị bỏ qua. Nói tóm lại, Hoàng tử là một trong những giọng nói cảm xúc nhất trong âm nhạc - và anh ấy đã có một tiếng hét để chứng minh điều đó. Hãy xem ra: Những người đẹpPrince’s range as a singer was almost as wide as the stylistic shifts in his music. His early albums saw him affect an androgynous falsetto that played up to his penchant for blurring boundaries – a style that would later evolve into the most seductive voice on this list of the best male rock singers. When he wasn’t dropping funky exhortations that worked dancefloors into a frenzy, his vocal arrangements often revealed a gospel influence that sometimes gets overlooked. In short, Prince’s was one of the most emotive voices in music – and he had one hell of a scream to prove it.
Check out: The Beautiful Ones

41: Roger Waters

Mặc dù trong nhiều năm, giọng ca chính thứ hai của Pink Floyd, sau Syd Barrett và sau đó là Dave Gilmour, nhiều người sẽ cho rằng Roger Waters luôn là động lực của ban nhạc. Về mặt hình thức, Waters đã ghi được một vài khoản tín dụng ban đầu trên các bài hát như mục vụ của Grant Grantchester Meadows, và người độc ác cẩn thận với chiếc rìu đó, Eugene, nhưng anh ta chỉ bắt đầu thách thức Gilmour trên động vật năm 1977, trước khi nổi lên mạnh mẽ hơn trên tường và The The Cắt cuối cùng. Hãy chọn ra khỏi giấc mơ của xạ thủ
Check out: The Gunner’s Dream

40: Kurt Cobain

Thay vì như Hendrix hay Elvis Costello, biểu tượng grunge quá cố Kurt Cobain luôn đối phó với sự khen ngợi về kỹ năng sáng tác của anh ấy và chơi guitar của anh ấy, nhưng anh ấy hiếm khi đủ khả năng của mình như một giọng ca chính Có mùi giống như tinh thần tuổi teen, hộp Lithium, và hộp hình trái tim. Nó có lẽ được thể hiện tốt nhất trên Nirvana, MTV được đánh giá cao, trong đó anh ta đổ trái tim và tâm hồn của mình vào các phiên bản bị loại bỏ của các bản nhạc chính của ban nhạc và một loạt các bản cover được truyền cảm hứng.Nirvana’s widely-acclaimed MTV Unplugged, wherein he pours his heart and soul into stripped-down versions of the band’s key tracks and a series of inspired covers.
Check out: All Apologies (from MTV Unplugged)

Nirvana - Tất cả các lời xin lỗi (MTV Unplugged)

Bấm để tải video

39: Roy Orbison

Một trong những người sáng lập của Rock. Tuy nhiên, đó là sự kết hợp giữa phong cách sáng tác và sáng tác của anh ấy, thực sự khiến Orbison trở nên khác biệt, và sức mạnh của nó đã khiến Elvis Presley đề cập đến nhạc sĩ có ảnh hưởng, sinh ra ở Texan là ca sĩ vĩ đại nhất thế giới. Bạn đã nhận được nóRoy Orbison had a one-of-a-kind voice with a three-octave range and what one writer referred to as a “glass-shattering falsetto”. It was the combination of his melancholic baritone and graceful songwriting style that truly set Orbison apart, however, and its power led Elvis Presley to refer to the influential, Texan-born musician as “the greatest singer in the world.”.
Check out: You Got It

38: Brian Johnson

Cựu thủ lĩnh Geordie Brian Johnson đã phải đối mặt với viễn cảnh khó khăn khi thay thế Bon Scott lôi cuốn khi anh gia nhập AC/DC vào năm 1980, nhưng anh nhanh chóng tự mình lập ra trong ban nhạc của ban nhạc, một cách phi thường, nhiều người bán trở lại màu đen. Sông sán của ông, Robert Plant-esque Wail vẫn là một phần thiết yếu trong việc trang điểm cho ban nhạc cho đến năm 2016 khi ông bị buộc phải nghỉ hưu theo lời khuyên y tế do mất thính giác. Mặc dù vậy, những tin đồn hiện vẫn tồn tại rằng Johnson đã trở lại trong khi AC/DC chuẩn bị một album mới. Hãy kiểm tra: Bạn đã lắc tôi suốt đêm dàiRobert Plant-esque wail remained an essential part of the band’s make-up until 2016 when he was forced to retire on medical advice due to hearing loss. Despite this, rumours currently persist that Johnson is back in the fold as AC/DC prepare a new album.
Check out: You Shook Me All Night Long

37: Rod Stewart

Giọng nói khàn khàn đặc biệt của Rod Stewart, lần đầu tiên trở nên nổi tiếng khi anh ấy thực hiện một số kỷ lục đầy cảm hứng với nhóm Jeff Beck và phải đối mặt vào cuối những năm 60 và đầu thập niên 70. Ban đầu hoạt động đồng thời, sự nghiệp solo của anh bắt đầu với năm 1969, một chiếc áo mưa cũ đã giành chiến thắng, mặc dù năm 1971, mỗi người kể về một câu chuyện - với bản hit đặc trưng của Mag Mag Maggie May - biến anh thành một cái tên quen thuộc. Vào năm 2008, Billboard đã đặt Stewart ở vị trí số 17 trong danh sách các nghệ sĩ hàng đầu mọi thời đại nóng bỏng của họ, và anh ấy vẫn là một trong những người biểu diễn công nghiệp nhất trong ngành. Hãy kiểm tra: Maggie May’s distinctively raspy voice first came to prominence when he made some awe-inspiring records with The Jeff Beck Group and Faces in the late 60s and early 70s. Initially running concurrently, his solo career began with 1969’s An Old Raincoat Won’t Ever Let You Down, though 1971’s Every Picture Tells A Story – featuring signature hit “Maggie May” – made him a household name. In 2008, Billboard placed Stewart at No.17 on their Hot 100 All-Time Top Artists list, and he’s still one of the industry’s most consummate performers.
Check out: Maggie May

36: Michael Hutchence

Không giống như một số ca sĩ nhạc rock nam hay nhất, Michael Hutchence của Inxs, được ca ngợi chủ yếu là một nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp, nhưng anh ta sở hữu một baritone mạnh mẽ với nhiều phạm vi. Hứa hẹn từ khi di chuyển, anh ấy đã tự mình trở thành một ca sĩ lưu ý với những người nghe như những tên trộm và album kick, và những màn trình diễn đam mê của anh ấy trong các bản thu âm như Need Need You Tonight vẫn là một trong những người giỏi nhất trong thập niên 80. Hãy kiểm tra: Đừng bao giờ xé chúng ta raINXS’ Michael Hutchence was lauded primarily as an electrifying live performer, but he possessed a robust baritone with plenty of range. Promising from the get-go, he established himself as a singer of note with the Listen Like Thieves and Kick albums, and his passionate performances on hit records such as “Need You Tonight,” “Never Tear Us Apart,” and “Mystify” remain among the best in 80s pop.
Check out: Never Tear Us Apart

35: Elton John

Elton John ban đầu đã hát trong một phạm vi cao hơn nhiều vào thời điểm album đột phá hàng triệu người của mình, Goodby Goodby Yellow Brick Road của năm 1973 Sau khi anh ấy đã phẫu thuật bằng giọng nói ở Úc trước năm 1988, Reg Strikes trở lại. Ngôi sao ủng hộ việc phát âm giọng nói ngày sau của anh ấy (Hồi Nó thực sự được cải thiện trong vài năm qua, có nhiều sự cộng hưởng hơn với nó, anh ấy nói với Billboard vào năm 2004), nhưng bất cứ thời gian nào trong sự nghiệp của anh ấy, có rất nhiều thứ để xử lý Savour. : Bài hát của bạn originally sang in a much higher range at the time of his million-selling breakthrough album, 1973’s Goodbye Yellow Brick Road, though he explored a much deeper range after he worked with R&B producer Thom Bell in 1977, and his timbre again naturally deepened after he had vocal surgery in Australia prior to 1988’s Reg Strikes Back. The star favours his latter-day vocal delivery (“It’s really improved over the last few years, there’s more resonance to it,” he told Billboard in 2004), but whichever period of his career you prefer, there’s plenty to savour.
Check out: Your Song

Elton John - Bài hát của bạn (Colosseum, Las Vegas 2005)

Bấm để tải video

34: Rob Halford

Có khả năng xen kẽ giữa tiếng gầm gừ cổ họng và falsetto chia đôi tai, Judas Priest, Rob Halford là chủ sở hữu của một giọng nói đa năng với giọng hát rộng. Cùng với Ronnie James Dio và Bruce Dickinson của Iron Maiden, Halford được coi là một trong những người tiên phong của phong cách giọng hát giả sau đó được áp dụng bởi Stackes of Power-Metal Frontmen và anh ta thường xuyên xuất hiện gần đầu danh sách đáng tin cậy nhất đang tìm cách trả tiền để trả tiền Tribute cho các ca sĩ hay nhất trong kim loại/hard rock. Hãy kiểm tra: Phá vỡ luật phápRonnie James Dio and Iron Maiden’s Bruce Dickinson, Halford is widely regarded as one of the pioneers of the pseudo-operatic vocal style later adopted by scores of power-metal frontmen and he regularly appears near the top of most credible lists seeking to pay tribute to the best singers in metal/hard rock.
Check out: Breaking The Law

33: Joey Ramone

Dee Dee Ramone đã từng nói về người bạn cùng nhóm Joey Ramone của mình, tất cả các ca sĩ khác [ở New York] đã sao chép David Johansen [của búp bê New York], nhưng Joey hoàn toàn độc đáo. Người theo chủ nghĩa bass quá cố đã sai. Thường được bắt chước, không bao giờ được cải thiện, các vết nứt đặc trưng của Joey, tiếng gầm gừ, tiếng nấc, tiếng crooning và giọng nói trẻ trung-his-năm được tạo ra cho một trong những giọng nói dễ nhận biết nhất của Punk.
Check out: Danny Says

32: Bruce Dickinson

Billboard đã gợi ý rằng Bruce Dickinson đã giành được biệt danh của mình, The Air Raid Siren, do sức mạnh dữ dội của tiếng hát của anh ấy. Có thể có một số sự thật trong đó, mặc dù thủ lĩnh Iron Maiden có một giọng hát rộng và có thể kêu gọi một người thuê bán hoạt động, vì vậy-giống như những người đương thời được đánh dấu nhiều bên, cũng như grit, ruột và hỏa lực. Hãy kiểm tra: Số lượng con thú
Check out: The Number Of The Beast

31: Steve Perry

Một giọng ca ca sĩ, cựu thủ lĩnh hành trình đã trở thành ngôi sao độc tấu Steve Perry, người tenor đặc biệt đã chọn các giải thưởng trên bảng, và anh ấy có thể đánh số các biểu tượng âm nhạc từ Jon Bon Jovi cho Nữ hoàng Brian Brian May trong số những người hâm mộ của anh ấy. Đối với sự khéo léo về giọng hát của mình, cựu thẩm phán thần tượng người Mỹ và người đàn ông hành trình Randy Jackson có lẽ đã đặt nó tốt nhất khi anh ta nói, Khác khác với Robert Plant, ở đó, không có ca sĩ nào trong rock thậm chí có thể đến gần Steve Perry. Sức mạnh, phạm vi, giai điệu - anh ấy đã pha trộn một chút Motown, một anh em nhỏ Everly, một Zeppelin nhỏ - và tạo ra phong cách của riêng mình.Jon Bon Jovi to Queen’s Brian May among his fans. As to his vocal dexterity, former American Idol judge and Journey session man Randy Jackson perhaps put it best when he said, “Other than Robert Plant, there’s no singer in rock that can even come close to Steve Perry. The power, the range, the tone – he mixed a little Motown, a little Everly Brothers, a little Zeppelin – and created his own style.”
Check out: No Erasin’

30: David Coverdale

David Coverdale sinh ra ở Yorkshire là người sở hữu một baritone mượt mà với một sự thay đổi đáng kinh ngạc, đã đứng vững trong năm thập kỷ và tìm thấy anh ta Helming Glorious Rock Records với cả màu tím và da trắng Album -Page với Led Zeppelin Legend Jimmy Page. Anh ấy từ lâu đã được người hâm mộ và những người đương thời đánh giá cao, với cựu tay guitar Whitesnake Doug Aldrich nói, anh ấy có giọng nói lớn nhất và một giai điệu khổng lồ.Whitesnake, as well as the widely-acclaimed Coverdale-Page album with Led Zeppelin legend Jimmy Page. He’s long been highly rated by fans and contemporaries, with former Whitesnake guitarist Doug Aldrich saying, “He has the biggest voice and a giant tone.”
Check out: Fool For Your Loving

29: Alice Cooper

Đó là mức độ của sân khấu liên quan đến hành động giai đoạn ban đầu của Alice Cooper, rằng các vụ hành quyết giả, máu giả, làm mất búp bê và những con rắn sống đều có xu hướng làm lu mờ ban nhạc của anh ấy và thực tế là chính Cooper là một ca sĩ hơn một nửa. Thật vậy, giọng hát hoang dã, khàn khàn của anh ấy nhiều hơn là làm cho sự hiện diện của họ cảm thấy trên (Un) Holy Trinity của những album đầu thập niên 70, Killer, School's Out và Billion Dollar Babies, trong khi đó, Poison Poison, từ năm 1989, thấy anh ấy đã quá giang lên sức mạnh -Ballad Bandwagon và khởi động lại sự nghiệp của anh ấy trong phong cách. Hãy kiểm tra: dưới bánh xe của tôipower-ballad bandwagon and relaunching his career in style.
Check out: Under My Wheels

28: Hoa Brandon

Một trong những giọng nói lôi cuốn nhất của Đá đương đại, những bông hoa Brandon của Killers sở hữu một người thuê thấp đầy kịch tính, đã tạo ra một nhóm các bản hit khác nhau từ -Đất đai, cộng hưởng chính trị của vùng đất tự do. Hoa vẫn đặc biệt tự hào về bản hit chữ ký của kẻ giết người, ông Mr. Brightside, Tell Tell SPIN Tạp chí vào năm 2013, Hồi Nó đã đứng trước thử thách của thời gian và tôi tự hào về điều đó. Tôi không bao giờ chán khi hát nó. Hãy kiểm tra: Ông BrightsideThe Killers’ Brandon Flowers possesses a dramatic low tenor which has already graced a bucketload of hits ranging from the gospel-tinged “All The Things We’ve Done” through to “The Man’ and 2019’s hard-hitting, politically-resonant “Land Of The Free.” Flowers remains especially proud of The Killers’ signature hit, “Mr. Brightside,” telling Spin magazine in 2013, “It’s stood the test of time and I’m proud of it. I never get bored of singing it.”
Check out: Mr. Brightside

The Killers - Ông Brightside (Video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

27: Anthony Kiedis

Được biết đến với kỹ thuật rap nhanh chóng của mình, baritone đặc biệt của Anthony Kiedis dần dần tự tiết lộ khi ớt đỏ nóng đỏ chuyển từ funk-punk điên cuồng trong những năm đầu của họ cho đến một hỗn hợp thân thiện với punk, psychedelia và đấu trường chính thống hơn của họ . Mặc dù không thích phiêu lưu hay nhào lộn như đồng nghiệp chris Cornell và Axl Rose, Kiedis vẫn là một người biểu diễn đáng gờm trong các nhiệm kỳ của mình. Hãy kiểm tra: dưới cây cầuRed Hot Chili Peppers shifted from the frantic funk-punk of their early years through to a more mainstream-friendly mixture of punk, psychedelia and arena-rock. Though not as adventurous or acrobatic as fellow-baritones Chris Cornell and Axl Rose, Kiedis remains a formidable performer on his own terms.
Check out: Under The Bridge

26: Bob Dylan

Không ai dám không đồng ý rằng Bob Dylan là một trong những ca sĩ kiêm nhạc sĩ mang tính biểu tượng nhất trong số họ, nhưng với tư cách là một giọng ca, anh ta được cho là đại diện cho bình marmite lớn nhất được biết đến với rock. Tuy nhiên, trong khi một số người ghét chất lượng khắc nghiệt, khắc nghiệt của giọng nói của Dylan, những người khác khen ngợi nó vì sự phân loại của nó và khả năng Dylan, để thấm nhuần mọi âm tiết với ý nghĩa. Khi bạn coi anh ấy đã đặt dấu ấn không thể bắt chước của mình vào các phong cách đa dạng như đất nước (đường chân trời ở Columbia), phúc âm (đi tàu chậm), blues (thời gian ra khỏi tâm trí) và bản balladry của máu trên đường ray, thật khó để không đồng ý. : Thanh Xuân mãi mãiBob Dylan is one of the most iconic singer-songwriters of them all, but as a vocalist he arguably represents the largest jar of Marmite known to rock. However, while some hate the harsh, grating quality of Dylan’s voice, others praise it for its phrasing, and Dylan’s ability to imbue every syllable with meaning. When you consider he’s put his inimitable stamp on styles as diverse as country (Nashville Skyline), gospel (Slow Train Coming), blues (Time Out Of Mind) and the heartbroken balladry of Blood On The Tracks, it’s hard to disagree.
Check out: Forever Young

25: Neil Young

Khó phân loại (về mặt kỹ thuật, anh ấy là một người truy cập) và dễ nhại lại, Neil Young là một người biểu diễn mang tính biểu tượng khác có ý kiến ​​phân cực giọng hát của người khác. Tuy nhiên, canon đáng tin cậy của anh ta đã thấy anh ta đặt một vòng quay đơn lẻ trên tất cả mọi thứ, từ Rock Rock, con ngựa điên cuồng của người đến đất nước của thu hoạch và cuộc sống giận dữ, bị tấn công chính trị với chiến tranh. Ngay cả những kẻ gièm pha của anh ta cũng phải thừa nhận rằng Rock ,Nroll sẽ nghèo hơn đáng kể nếu không có sự hiện diện của người Canada này.Neil Young is another iconic performer whose passionate, yet nasally vocal delivery polarises opinion. However, his sizeable canon has seen him put a singular spin on everything from the raging rock’n’roll of Crazy Horse to the country stylings of Harvest and the furious, politically-charged Living With War. Even his detractors would have to concede that rock’n’roll would be significantly poorer without the presence of this ornery Canadian.
Check out: Like A Hurricane (from Live Rust)

24: Bruce Springsteen

Bruce Springsteen nhận được những lời khen ngợi cho chủ nghĩa trữ tình cổ áo màu xanh, sống động và khả năng kể chuyện của anh ta, nhưng baritone lớn, khàn khàn của anh ta hiếm khi khiến anh ta thất vọng. Với hơn mười giải Grammy cho tên của mình, Springsteen là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất trong thế hệ của ông. Tăng cường, mạnh mẽ, và là một trong những người biểu diễn trực tiếp nổi tiếng nhất của Rock. Những người như Born Sinh ra để chạy, sinh ra ở Hoa Kỳ, Đường Thunder Thunder, và Hồi giáo cải trang rực rỡ, hầu như không phải là phần của một tảng băng thực sự khổng lồ. receives acres of praise for his vivid, blue-collar lyricism and his narrative abilities, but his big, raspy baritone has rarely let him down. With more than ten Grammy Awards to his name, Springsteen is one of the most celebrated musicians of his generation. Intense, powerful, and one of rock’n’roll’s most celebrated live performers, his shows often clock in at over three hours and his albums are littered with landmark vocal performances. The likes of “Born To Run,” “Born In The USA,” “Thunder Road,” and “Brilliant Disguise” are barely the tip of a truly gargantuan iceberg.
Check out: Brilliant Disguise

23: phà Bryan

Thanh lịch và may mắn với một con croon quyến rũ để phù hợp, cựu thủ lĩnh Roxy Music đã trở thành ngôi sao độc tấu Bryan Ferry đã là một trong những người đàn ông sành điệu nhất trong Pop trong hơn bốn thập kỷ. Ngoài việc là một nhạc sĩ rất sung mãn, Ferry còn nổi tiếng với tư cách là người phiên dịch các bài hát của người khác, bao gồm các tiêu chuẩn Songbook tuyệt vời của Mỹ mà anh đã thu âm cho những điều ngu ngốc năm 1973 và lựa chọn các bài hát của Bob Dylan mà anh tự làm trong Dylanesque năm 2007. Kiểm tra: Do The StrandRoxy Music frontman turned solo star Bryan Ferry has been one of the most stylish men in pop for over four decades. In addition to being a highly prolific songwriter, Ferry is also widely renowned as an interpreter of other people’s songs, including the Great American Songbook standards he recorded for 1973’s These Foolish Things and the selection of Bob Dylan songs he made his own on 2007’s Dylanesque.
Check out: Do The Strand

22: Phil Lynott

Mặc dù Thin Lizzy chủ yếu là một bộ trang phục đá cứng gấu mình, thủ lĩnh Phil Lynott thường xuyên thể hiện khía cạnh nhạy cảm hơn của mình, đối phó với những lời khen ngợi cho lời bài hát sâu sắc, đầy chất thơ và sự lôi cuốn tự nhiên của anh ấy. Phân phối giọng hát nhuốm màu đặc biệt của anh ấy cũng đủ linh hoạt để làm chủ các tài liệu từ những bản ballad mở rộng (Vẫn còn yêu bạn), đến các rocker crunching (Hồi Jailbreak,) “Nhảy múa dưới ánh trăng, trên đó Lynott tỏ lòng tôn kính đối với linh hồn mắt xanh của Van Morrison. Hãy kiểm tra: Nhảy múa dưới ánh trăngThin Lizzy were primarily a rip-roaring hard rock outfit, frontman Phil Lynott frequently displayed his more sensitive side, copping plaudits for his insightful, poetic lyrics and his natural charisma. His distinctive, Celtic-tinged vocal delivery was also versatile enough to master material ranging from expansive ballads (“Still In Love With You”), to crunching rockers (“Jailbreak”), tender pop songs (“Sarah”) and even the timeless “Dancing In The Moonlight,” on which Lynott paid affectionate homage to Van Morrison’s blue-eyed soul.
Check out: Dancing In The Moonlight

21: Ronnie James Dio

Sở hữu một giọng nói mạnh mẽ, cộng hưởng lớn hơn nhiều so với tầm vóc vật lý nhỏ bé của anh ấy sẽ gợi ý, Ronnie James Dio sinh ra ở New Hampshire đã trở nên nổi bật như một phần của bối cảnh kim loại và đá cứng đầu thập niên 80 và đầu thập niên 80. Nổi tiếng với phong cách trữ tình theo chủ đề thời trung cổ và khả năng làm chủ cả những người rocker khó nhất và những bản ballad nhẹ nhất, anh đã thu âm các album mang tính bước ngoặt với Rainbow, Black Sabbath và Dio được công nhận rộng rãi. Trong khi anh ấy đã qua đời vào năm 2010, anh ấy vẫn là một trong những người đứng đầu kim loại có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Hãy kiểm tra: Holy DiverRainbow, Black Sabbath and the widely-acclaimed Dio. While he passed away in 2010, he remains one of the most influential metal frontmen of all time.
Check out: Holy Diver

20: Bon Scott

Một người nước ngoài sinh ra ở Scotland với giọng nói giống như nó đã được ngâm mình một cách tự do trong rượu whisky, Bon Scott của AC/DC đã tự mình trở thành một trong những thủ lĩnh thực sự tuyệt vời của Rock trước khi chết sớm, ở tuổi 33, vào tháng 2 năm 1980. Tham gia AC/DC sau khi Một câu thần chú phía trước tình huynh đệ trang phục Aussie Prog-rock, sự lôi cuốn và phân phối giọng hát của Scott là một trong những yếu tố wow của các album của ban nhạc vào cuối những năm 70, cuối cùng- họ đến giải đấu lớn của Rock. Hãy kiểm tra: đường cao tốc đến địa ngục
Check out: Highway To Hell

19: Jim Morrison

Thường được khen ngợi vì lời bài hát thơ mộng và sự hiện diện sân khấu gợi cảm, năng lực giọng hát của Jim Morrison, thường bị bỏ qua. Những bản demo ban đầu tiết lộ anh ta là người lo lắng và thiếu kinh nghiệm, nhưng anh ta nhanh chóng tự tin thông qua tiếng cười thường xuyên, và vào thời điểm các cánh cửa ghi lại album đầu tay có tựa đề, có tựa đề vào cuối năm 1966, anh ta đã đóng đinh rất nhiều tiếng croon đặc trưng của mình. Như bất kỳ số lượng tiểu sử nào đã tiết lộ, Morrison đã có một xu hướng vượt quá cá nhân-bắt đầu gây tổn hại cho giọng nói của anh ấy-nhưng dù sao thì baritone phong phú của anh ấy vẫn giữ được sự nghiệp sáu năm của anh ấy. Hãy xem: Yêu tôi Hai lần
Check out: Love Me Two Times

18: iggy pop

Đối với nhiều người hâm mộ âm nhạc, Iggy Pop là hiện thân của rock. Thật vậy, huyền thoại của anh ta đã được lưu giữ sau khi anh ta bò từ đống đổ nát của Stooges với ba album bán kết dưới vành đai của anh ta. Tuy nhiên, với tư cách là một giọng ca, baritone sâu thẳm của anh ta chỉ xuất hiện trên tên ngốc và ham muốn cuộc sống, hai điểm nhấn do David Bowie sản xuất từ ​​năm 1977. Nó chỉ được cải thiện với sự trưởng thành, với sự hợp tác của Josh Homme rất nhiều, bài đăng Trầm cảm, thưởng cho anh ta với 20 thành công đầu tiên của Billboard trong sự nghiệp lâu dài và quanh co của anh ta. Hãy kiểm tra: Hành khách (với Josh Homme, trực tiếp tại Royal Albert Hall của London)
Check out: The Passenger (with Josh Homme, live at London’s Royal Albert Hall)

17: David Bowie

Mặc dù các ngôi sao nhạc pop thực sự không có biểu tượng hơn David Bowie, nhưng công tước da trắng mỏng manh tự phong không phải là một giọng ca sinh ra tự nhiên, với các giáo viên trường học của anh ta đánh giá giọng nói của anh ta chỉ đơn giản là đầy đủ. Tuy nhiên, Bowie đã mài giũa kỹ năng của mình và đạt được sự thành thạo với giọng nói của mình, thường được mệnh danh là một baritone nhưng thực sự có phạm vi tuyệt vời và - giống như Kinks, Ray Ray Davies - chứa một tiếng Anh độc đáo. Từ album đầu tay có tựa đề cho đến ★, David Bowie đã cho chúng tôi một sự bối rối của sự giàu có. Chúng tôi thực sự đã thắng được nghe của anh ấy như một lần nữa. Hãy kiểm tra: Không gian kỳ quặcThe Kinks’ Ray Davies – contained a unique Englishness. From his self-titled debut album through to ★, David Bowie bequeathed us an embarrassment of riches. We really won’t hear his like again.
Check out: Space Oddity

16: Jon Bon Jovi

Jon Bon Jovi rộng rãi là một kỳ hạn, nhưng với một loạt các giọng hát kéo dài từ bốn đến năm quãng tám, mang lại cho anh ta nhiều sự linh hoạt. Thủ lĩnh Bon Jovi cũng có chất lượng khác biệt, hơi nhiều mũi của anh ta, cho phép anh ta chinh phục tài liệu đa dạng như Blaze Americana của vinh quang và những bản ballad tan chảy (tôi sẽ ở đó cho bạn) cũng như Evergreen, những bài quốc ca có kích thước đấu trường như You You Cho tình yêu một cái tên xấu, Hồi giáo Bad Medicine, và và người sống ở khắp nơi“Blaze Of Glory” and melting ballads (“I’ll Be There For You”) as well as evergreen, arena-sized anthems such as “You Give Love A Bad Name,” “Bad Medicine,” and the ubiquitous “Livin’ On A Prayer,” which turned his band into superstars.
Check out: Bad Medicine

15: Chuck Berry

Chuck Berry, chơi guitar nóng bỏng, những màn trình diễn trực tiếp rực rỡ của anh ấy và các kỹ năng trữ tình sống động của anh ấy đã ảnh hưởng đến những người biểu diễn bán kết, từ Keith Richards đến Bruce Springsteen. Tuy nhiên, phong cách phát âm rõ ràng và phong cách giọng hát táo bạo của Missouri cũng có thể nhận ra ngay lập tức và là một phần không thể xóa nhòa của một gói đáng chú ý. Có lẽ John Lennon đã đặt nó tốt nhất khi anh ấy đề nghị, nếu bạn cố gắng đặt cho Rock Khănn, một cái tên khác, bạn có thể gọi nó là Chuck Berry. Hãy kiểm tra: Johnny B Goode’s sizzling guitar playing, his dazzling live performances and his vivid lyrical skills have influenced seminal performers ranging from Keith Richards to Bruce Springsteen. However, the Missouri-born trailblazer’s clear enunciation and gutsy vocal style were also instantly recognisable and an indelible part of a remarkable package. Perhaps John Lennon put it best when he suggested, “If you tried to give rock’n’roll another name, you might call it Chuck Berry.”
Check out: Johnny B Goode

14: Chris Cornell

Người sở hữu một giọng hát đáng chú ý, đa octave, Chris Cornell bị bỏ lỡ nhiều là một trong những giọng ca đa năng nhất được biết đến với rock. Sự khéo léo của anh ấy đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập Soundgarden ngoài các đối thủ thời grunge của họ và sau đó nó cho phép anh ấy đặt dấu ấn không thể bắt chước của mình vào một sự nghiệp solo nổi bật và ba album được đánh giá cao mà anh ấy đã thu âm với Hard Rock Supergroup Audioslave. Khi các màn trình diễn của anh ấy trên các bài hát, từ The Woozy, Psychedelic Black Black Hole Sun, Hồi The Complex Spoonman, Hồi và The Visceral Jesus Christ Pose Chứng minh, Cornell là một giọng ca thực sự không sợ hãi. Hãy kiểm tra: SpoonmanSoundgarden apart from their grunge-era rivals and it later allowed him to put his inimitable stamp on a distinguished solo career and the three highly-regarded albums he recorded with hard rock supergroup Audioslave. As his performances on songs ranging from the woozy, psychedelic “Black Hole Sun,” the complex “Spoonman,” and the visceral “Jesus Christ Pose” prove, Cornell was a truly fearless vocalist.
Check out: Spoonman

13: Bono

Trong những ngày đầu của U2, Bono đã vượt qua sự kết hợp giữa tuổi trẻ, năng lượng và chutzpah, nhưng anh đã học được một cách nhanh chóng nghề của mình và đến khi ban nhạc của anh thu âm các album mang tính bước ngoặt của họ The Incetpetta Fire và Joshua Tree, anh đã đặt giọng hát nhỏ giọt với sự khéo léo Và cảm xúc về các bài hát như Hồi Pride (nhân danh tình yêu), có thể không có bạn, và tôi vẫn chưa tìm thấy những gì tôi đang tìm kiếm. Trong những năm 90, anh ấy đã thêm một số falsetto vào kho vũ khí của mình, nhưng những bài hát có kích thước đấu trường, có tên của U2 (một ngày, một ngày đẹp trời sở trường của anh ấy. Hãy kiểm tra: có hoặc không có bạnU2’s early days, Bono got by through a combination of youth, energy and chutzpah, but he learnt his craft quickly and by the time his band recorded their landmark albums The Unforgettable Fire and The Joshua Tree, he was laying down vocals dripping with poignancy and emotion on songs such as “Pride (In The Name Of Love),” “With Or Without You,” and “I Still Haven’t Found What I’m Looking For.” During the 90s, he added some falsetto to his armoury, but the sweeping, arena-sized anthems that made U2’s name (“One,” “Beautiful Day,” “Sometimes You Can’t Make It On Your Own”) will always be his forte.
Check out: With Or Without You

12: Steven Tyler

Đôi khi, được mệnh danh là con quỷ của Screamin 'vì những tiếng hét cao và các màn nhào lộn trên sân khấu của anh ấy, Steven Tyler của Aerosmith sở hữu một trong những giọng nói bền bỉ nhất của Rock của các hành động đá cứng bán chạy nhất mọi thời đại. Tyler đã từng nói với Billboard triết lý của anh ta là đến Kick Kick Ass và để lại dấu chân, và giọng hát giết người của anh ta đã làm điều đó trong 50 năm qua, với những hit như Walk Walk theo cách này, tình yêu trong một thang máy, Janie có một khẩu súng, và cảm xúc ngọt ngào của người "Aerosmith’s Steven Tyler possesses one of rock’s most durable voices, with his high tenor and four-octave range playing a major role in his band becoming one of the best-selling hard rock acts of all time. Tyler once told Billboard his philosophy was to “kick ass and leave a footprint”, and his killer vocals have been doing just that for the past 50 years, with hits such as “Walk This Way,” “Love In An Elevator,” “Janie’s Got A Gun,” and “Sweet Emotion” chalking up all the proof anyone could ever need.
Check out: Love In An Elevator

11: Joe Elliott

Def Leppard, Joe Elliott có một thanh quản cực kỳ linh hoạt, vẫn cho phép anh ta đạt được những nốt cao trên các bản nhạc cổ điển như Hồi Photos, Hồi giáo Rock Rock của Ages, Hồi, Mur, trên đường bộ đau lòng, và đổ một ít đường lên tôi. Tài năng và năng khiếu rõ ràng là các thành phần chính, nhưng Elliott cũng đã cẩn thận để giữ giọng nói của mình trong bốn thập kỷ, làm việc với một huấn luyện viên thanh nhạc và thực hiện các thói quen khởi động giữ anh ta ở dạng cao nhất. Phạm vi giọng hát của tôi đã được cải thiện bằng cách thực sự đi xuống đăng ký, anh ấy nói với chúng tôi đài phát thanh WSFL vào năm 2018. Tôi nghĩ rằng chỉ cần qua tuổi, kinh nghiệm và sự trưởng thành, tôi cho rằng.’s Joe Elliott has an extremely versatile larynx that still allows him to reach the high notes on classic tracks such as “Photograph,” “Rock Of Ages,” “Bringin’ On The Heartbreak,” and “Pour Some Sugar On Me.” Talent and aptitude are obviously the main ingredients, but Elliott has also been careful to preserve his voice over four decades, working with a vocal coach and doing warm-up routines which keep him in top form. “My vocal range has improved by actually just going down in register,” he told US radio station WSFL in 2018. “I think that just comes through age, experience and maturity, I suppose.”
Check out: Hysteria

10: Rose Axl

Theo một bài báo trên The Telegraph năm 2014, AXL Rose có khả năng tiếp cận các ghi chú kéo dài sáu quãng tám, với tính năng cho thấy rằng người đứng đầu súng có súng quý n Và Beyoncé. Bạn có thể thảo luận về khoa học cả ngày, nhưng đủ để nói, phạm vi đáng chú ý của Rose đánh dấu anh ấy là một trong những giọng ca đáng gờ nhất của Rock, với những màn trình diễn năng động của anh ấy trên các bài hát từ các rocker anthemia ( Jungle Jungle) để tăng sức mạnh những bản ballad (Hồi đừng khóc, ngày tháng 11) đã đánh dấu từ lâu anh ta là một trong những người vĩ đại.Guns N’ Roses frontman “has a lower baritone than Barry White, and can reach higher notes than Tina Turner and Beyoncé”. You could discuss the science all day, but suffice it to say, Rose’s remarkable range marks him out as one of rock’s most formidable vocalists, with his dynamic performances on songs ranging from anthemic rockers (“Sweet Child O’ Mine,” “Welcome To The Jungle”) to power ballads (“Don’t Cry,” “November Rain”) having long since marked him out as one of the greats.
Check out: November Rain

Guns n 'Roses - Mưa tháng mười một

Bấm để tải video

9: Paul Rodgers

Nổi tiếng với phong cách thanh nhạc khàn khàn, nhưng có hồn của mình, cựu thủ lĩnh công ty tự do và xấu Paul Rodgers có thể không được hưởng trạng thái mang tính biểu tượng của một số tên gọi được gọi ở đây, nhưng anh ấy được đánh giá cao bởi những người giỏi nhất trong kinh doanh. Anh ấy thậm chí còn tham gia Freddie Mercury, khi anh ấy đi lưu diễn với Nữ hoàng Brian Brian May và Roger Taylor (với tư cách là Queen + Paul Rodgers) trong suốt 2005-06, với các chương trình dẫn đến album Cosmos Rocks 2008. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2005 với tạp chí Louder, Brian May cho biết, lửa và nước miễn phí là một trong những nguồn cảm hứng và ảnh hưởng thực sự của chúng tôi. Freddie là một fan hâm mộ lớn của Paul, - anh ấy là một trong số ít những ca sĩ mà anh ấy thực sự đã tìm kiếm.Free and Bad Company frontman Paul Rodgers may not enjoy the iconic status of some of the hallowed names here, but he’s highly regarded by the best in the business. He even took on Freddie Mercury’s mantle when he toured with Queen’s Brian May and Roger Taylor (as Queen + Paul Rodgers) across 2005-06, with the shows leading to 2008’s The Cosmos Rocks album. In a 2005 interview with Louder magazine, Brian May said, “Free’s Fire And Water is one of our real inspirations and influences. Freddie was a huge fan of Paul’s – he was one of the few singers he really looked up to.”
Check out: All Right Now

8: Elvis Presley

Không chỉ là một siêu sao nhạc rock, mà là một trong những nhân vật mang tính biểu tượng nhất của thế kỷ 20, Elvis Presley đã cách mạng hóa cảnh quan âm nhạc với sự hiện diện và sự hấp dẫn giới tính của anh ấy, với Paul McCartney sau đó thừa nhận, tôi nghi ngờ rất nhiều nếu The Beatles Đã xảy ra nếu nó không dành cho Elvis. Một thành phần chính của hiện tượng này là giọng nói của Presley, bắt đầu nhẹ hơn nhiều, nhưng sau đó đã trưởng thành thành một baritone với một thanh ghi thấp hơn và cho phép nhà vua lao vào Tin Mừng, Dixieland và Country khi anh ta trôi dạt từ rễ đá của mình. : Tâm trí nghi ngờ
Check out: Suspicious Minds

7: Ozzy Osbourne

Theo nghĩa kỹ thuật, Ozzy Osbourne không thể cạnh tranh với các loại Leviathans/kim loại cứng đa octave như Rob Halford, Bruce Dickinson hoặc Ronnie James Dio . Thật vậy, đơn giản là không thể tưởng tượng được bất kỳ ai khác đóng đinh bất kỳ tác phẩm kinh điển đầu tiên của Sabbath Black (Lợn chiến tranh, Hồi giáo Sabbath Sabbath, người đàn ông sắt sắt, người Hồi ) với thậm chí một mô -đun của niềm đam mê và sự hung dữ Ozzy đầu tư vào chúng. Hãy chọn ra: NIB (từ cuối - Live)
Check out: NIB (from The End – Live)

6: Paul McCartney

Nhìn chung, Paul McCartney có xu hướng được nhớ đến vì những bài hát dịu dàng hơn, hoài cổ hơn mà anh viết, cả cho The Beatles và một nghệ sĩ solo. Và, vâng, những điều trị du dương, chẳng hạn như ngày hôm qua, thì Black Blackbird, thì cô ấy rời khỏi nhà, Lôi Penny Lane, và Let Let It Be Bre bị vùi dập ở đây, ở đó và mọi nơi trong canon của anh ấy. Tuy nhiên, McCartney cũng là kiến ​​trúc sư chính của những giai điệu khó khăn của tầm cỡ của Hồi Tôi thấy cô ấy đứng đó, Hồi giáo trở lại, và trở lại trong Liên Xô, trong khi album trắng huyền thoại của anh ấy Mùi, thường được trích dẫn với việc phát minh ra thể loại kim loại nặng. Hãy kiểm tra: Helter Skelter“Yesterday”, “Blackbird”, “She’s Leaving Home,” “Penny Lane,” and “Let It Be” are littered here, there and everywhere in his canon. However, McCartney was also the primary architect of hard-rocking tunes of the caliber of “I Saw Her Standing There,” “Get Back,” and “Back In The USSR”, while his legendary “White Album” screamer, “Helter Skelter”, is often cited with inventing the heavy metal genre.
Check out: Helter Skelter

Helter Skelter (Remastered 2009)

Bấm để tải video

5: John Lennon

Giống như bạn cùng nhóm cũ của mình, John Lennon tương tự như một ca sĩ. Rebellious và biểu tượng, anh ấy thường vẽ là người hoài nghi thẳng thắn của Beatles, anh chàng có sự giận dữ và đắng đã cung cấp thuốc giải độc cho các bài hát tình yêu Fluffier của Paul McCartney. Tuy nhiên, một lần nữa, đó chỉ là một nửa câu chuyện. Trong khi baritone không thể nhầm lẫn của anh ta có thể phân phối sự giận dữ không bị kiểm soát của gà tây lạnh, mẹ của mẹ Mãi mãi ”hoặc vẻ đẹp vượt thời gian của" Tưởng tượng ". Hãy kiểm tra: Hãy tưởng tượng“Yer Blues”, it was just as adept at wrapping itself around the wistfulness of “In My Life,” the glorious melancholy of “Strawberry Fields Forever” or the timeless beauty of “Imagine.”
Check out: Imagine

TƯỞNG TƯỢNG. .

Bấm để tải video

5: John Lennon

Giống như bạn cùng nhóm cũ của mình, John Lennon tương tự như một ca sĩ. Rebellious và biểu tượng, anh ấy thường vẽ là người hoài nghi thẳng thắn của Beatles, anh chàng có sự giận dữ và đắng đã cung cấp thuốc giải độc cho các bài hát tình yêu Fluffier của Paul McCartney. Tuy nhiên, một lần nữa, đó chỉ là một nửa câu chuyện. Trong khi baritone không thể nhầm lẫn của anh ta có thể phân phối sự giận dữ không bị kiểm soát của gà tây lạnh, mẹ của mẹ Mãi mãi ”hoặc vẻ đẹp vượt thời gian của" Tưởng tượng ". Hãy kiểm tra: Hãy tưởng tượng’s pugnacious R&B growl was ideal for The Who’s early mod-inclined output, but as the iconic London band developed, so did their frontman. Pete Townshend once told Rolling Stone that his colleague had come on in leaps and bounds circa 1969’s legendary Tommy (“Roger then realised that he had a full range of sensibilities that he could tap into as a singer”), and from there on, masterful albums such as Who’s Next, Quadrophenia and The Who By Numbers demonstrated that Daltrey had grown into a powerhouse frontman who helped define what swaggering rock gods looked and sounded like.
Check out: Love Reign O’er Me

TƯỞNG TƯỢNG. .

Bấm để tải video

5: John Lennon

Giống như bạn cùng nhóm cũ của mình, John Lennon tương tự như một ca sĩ. Rebellious và biểu tượng, anh ấy thường vẽ là người hoài nghi thẳng thắn của Beatles, anh chàng có sự giận dữ và đắng đã cung cấp thuốc giải độc cho các bài hát tình yêu Fluffier của Paul McCartney. Tuy nhiên, một lần nữa, đó chỉ là một nửa câu chuyện. Trong khi baritone không thể nhầm lẫn của anh ta có thể phân phối sự giận dữ không bị kiểm soát của gà tây lạnh, mẹ của mẹ Mãi mãi ”hoặc vẻ đẹp vượt thời gian của" Tưởng tượng ". Hãy kiểm tra: Hãy tưởng tượng
Check out: Immigrant Song (live in 1972)

TƯỞNG TƯỢNG. .

4: Roger DaltreySticky Fingers’ majestic “Moonlight Mile.” If forced to choose just one performance, you might go for the provocative and truly captivating “Sympathy For The Devil,” but the times when Mick Jagger hasn’t delivered satisfaction are few and far between.
Check out: Sympathy For The Devil

Roger Daltrey sườn R & B Growl rất lý tưởng cho sản phẩm đầu ra của WHO WHO, nhưng khi ban nhạc London mang tính biểu tượng phát triển, thủ lĩnh của họ cũng vậy. Pete Townshend đã từng nói với Rolling Stone rằng đồng nghiệp của anh ta đã tham gia bước nhảy vọt và giới hạn vào khoảng năm 1969 Tommy (Hồi Roger sau đó nhận ra rằng anh ta có một loạt các sự nhạy cảm mà anh ta có thể khai thác với tư cách là một ca sĩ), và từ đó, thành thạo, thành thạo, thành thạo, thành thạo Các album như Who's Next, Quadrophenia và WHO theo các con số đã chứng minh rằng Daltrey đã phát triển thành một thủ lĩnh của nhà quyền lực, người đã giúp xác định những gì các vị thần rock vênh vang trông như thế nào.

Bấm để tải video

5: John Lennon

Giống như bạn cùng nhóm cũ của mình, John Lennon tương tự như một ca sĩ. Rebellious và biểu tượng, anh ấy thường vẽ là người hoài nghi thẳng thắn của Beatles, anh chàng có sự giận dữ và đắng đã cung cấp thuốc giải độc cho các bài hát tình yêu Fluffier của Paul McCartney. Tuy nhiên, một lần nữa, đó chỉ là một nửa câu chuyện. Trong khi baritone không thể nhầm lẫn của anh ta có thể phân phối sự giận dữ không bị kiểm soát của gà tây lạnh, mẹ của mẹ Mãi mãi ”hoặc vẻ đẹp vượt thời gian của" Tưởng tượng ". Hãy kiểm tra: Hãy tưởng tượngBohemian Rhapsody biopic brought Queen back into the limelight in 2018, and then they ended the year with the news that “Bohemian Rhapsody” was officially the most streamed song from the 20th Century. Perhaps more than anything, however, all the retrospective activity reminded us exactly why the flamboyant Freddie Mercury and his fearless, four-octave vocal range still rocks us like no other rock singer before or since – and why he’ll likely remain the champion of best male rock singers for many years to come.
Check out: Bohemian Rhapsody

Nữ hoàng - Bohemian Rhapsody (video chính thức được làm lại)

Bấm để tải video

Tìm kiếm thêm? Khám phá những ca sĩ nhạc nữ hay nhất mọi thời đại. Nghĩ rằng chúng tôi đã bỏ lỡ một trong những ca sĩ nhạc rock nam hay nhất mọi thời đại? Cho chúng tôi biết trong các ý kiến ​​dưới đây.. Think we missed one of the best male rock singers of all time? Let us know in the comments below.

Ai là nam nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại?

HỌA SĨ
Bán hàng kết hợp
01
ELVIS PRESLEY
21,7 triệu
02
Cliff Richard
21,5 triệu
03
Michael Jackson
15,5 triệu
04
ELTON JOHN
15,0 triệu
Top 10 nghệ sĩ nam độc thân bán hàng lớn nhất mọi thời đại RWWW.OfficialCharts.com

Ca sĩ nam số 1 mọi thời đại là ai?

25 ca sĩ nam vĩ đại nhất và nổi tiếng nhất mọi thời đại..
Michael Jackson ..
Stevie thắc mắc..
James Brown ..
Miễn cước Sinatra..
Stevie thắc mắc..
James Brown ..
Miễn cước Sinatra..
Billy Joel ..

John Legend ..

Những giọng hát tuyệt vời nhất mọi thời đại..
1 trên 31. Barbra Streisand.Kevin Mazur/Getty Images cho BSB.....
2 trên 31. Etta James.Charles Paul Harris/Michael Ochs Archives/Getty Images.....
3 trên 31. Aretha Franklin.....
4 trên 31. Whitney Houston.....
5 trên 31. Mariah Carey.....
6 trên 31. Elton John.....
7 trên 31. Freddie Mercury.....
8 trên 31. Adele ..

Ca sĩ nam Mỹ nổi tiếng nhất là ai?

Đọc tiếp khi chúng tôi đi sâu vào 19 ca sĩ người Mỹ nổi tiếng nhất và tại sao họ đã nhận được yêu sách nổi tiếng ...
Michael Jackson ..
Stevie thắc mắc..
James Brown ..
Prince..
Miễn cước Sinatra..
Billy Joel ..
John Legend ..
Ray Charles ..