Ví dụ về phép biện chứng tự phát

 Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì? Có những hình thức lịch sử nào của phép biện chứng? Có sự đối lập căn bản nào giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức?

–     Biện chứng là gì?

+ Khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Khái niệm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.

Biện chứng khách quan là chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất; còn biện chứng chủ quan là chỉ biện chứng của ý thức.

Có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Theo quan niệm duy tâm: biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan; còn theo quan điểm duy vật: biện chứng khách quan là cơ sở của biện chứng chủ quan. Ph. Ăngghen khẳng định: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giói tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”.

Sự đối lập nhau trong quan niệm đó là cơ sở phân chia phép biện chứng thành: phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

–    Phép biện chứng là gì?

Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới.

Với tư cách là học thuyết triết học, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các nguyên tắc phương pháp luận chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn.

–    Các hình thức lịch sử của phép biện chứng

Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ bản [cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học]:

+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” [học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ] và “ngũ hành luận” [học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ] của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”… Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm biện chứng của Heraclit.

+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới – trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm [duy tâm khách quan] nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.

+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập trường duy vật mới.

–     Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức

Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong việc nhận thức thế giới là ở chỗ: phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ phổ biến, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; còn phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng không trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; nó tuyệt đối hoá tính chất ổn định, cô lập của các sự vật, hiện tượng. Do đó, phương pháp siêu hình chỉ có giá trị trong một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp biện chứng mới có thể cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực tế.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một thuật ngữ quen thuộc trong triết học. Đây cũng chính là một trong số những hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng có những vai trò và ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Tuy nhiên, chắc hẳn hiện nay vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu rõ về chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính vì vậy mà bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu củ nghĩa duy vật biện chứng là gì? Nội dung cơ bản và ví dụ cụ thể?

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là gì?

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được biết đến là hai trường phái triết học lớn trong lịch sử triết học, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có sự đối lập căn bản trong quan niệm về nguồn gốc, bản chất và tính thống nhất của thế giới.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng được biết đến chính là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới được ra đời  đã có vai trò quan trọng và giúp có thể khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.

Theo quan điểm duy vật thì nguồn gốc, bản chất và tính thống nhất của thế giới là vật chất, còn theo quan điểm duy tâm thì đó là ý thức [hay tinh thần].

Ta nhận thấy rằng, chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà chủ nghĩa duy vật biện chứng còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chính là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học Mác – Lênin về bản chất chính là triết học duy vật, bởi triết học đó coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm vụ của bộ não người đó chính là phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh đó sẽ có tính biện chứng, bởi vì thông qua đó mà con người nhận thức được mối quan hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; bên cạnh đó cũng sẽ nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó.

Xem thêm: Phân tích 3 tình huống để làm rõ tác động của quy luật giá trị

Chủ nghĩa duy vật biện chứng như đã phân tích cụ thể ở trên chính là hình thức cao nhất trong các hình thức của chủ nghĩa duy vật. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Giải quyết duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học; Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ là phương pháp giải thích, nhận thức thế giới, mà chủ nghĩa duy vật biện chứng còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp công nhân trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội; Quan niệm duy vật về lịch sử là cuộc cách mạng trong học thuyết về xã hội; Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng, lý luận với thực tiễn tạo nên tính sáng tạo của triết học Mác – Lênin.

2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tiếng Anh là gì?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tiếng Anh là: Dialectical materialism.

3. Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng như sau:

– Trước tiên chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về lịch sử hình thành của chủ nghĩa duy vật:

Chủ nghĩa duy vật tính từ khi được hình thành cũng đã trải qua hàng nghìn năm phát triển, chủ nghĩa duy vật phát sinh ngay từ thời kỳ cổ đại từ chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại đến chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại [các nước Tây Âu thế kỷ XVII đến XVIII] và sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập.

Tư tưởng về chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại sẽ thường mang tính trực giác là chủ yếu, các tư tưởng này đều chưa mang tính nghiên cứu khoa học cao bởi thời kỳ đó chưa có sự xuất hiện của công nghệ nên sự nghiên cứu của con người về các sự vật, hiện tượng thời kỳ cổ đại về cơ bản đều sẽ chỉ mang tính trực giác và suy đoán. Những chủ thể là các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại thông thường sẽ phát triển các quan điểm khác biệt so với các trường phái triết học sau này.

Bắt đầu từ thời kỳ phục hung cho đến thế kỷ XVIII, thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được gọi là chủ nghĩa siêu hình. Tuy phổ biến vẫn là chủ nghĩa duy vật bằng trực giác nhưng tại thời kỳ cạn đại này, các chủ thể là những nhà triết học đã dựa váo khá nhiều phương pháp thực nghiệm mà không còn mang nặng về tính chủ quan và trực giác như trước nữa.

– Quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng:

Xem thêm: Tồn tại khách quan là gì? Tồn tại khách quan là tồn tại thế nào?

Cũng giống như chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng cũng xuất hiện từ thời cổ đại.

+ Phép biện chứng thời kỳ cổ đại: Phép biện chứng cổ đại được hình thành và phát triển từ tư tưởng của triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại.

+ Phép biện chứng thời kỳ cận đại: Từ thời kỳ phục hưng cho đến khoảng thế kỷ XVIII, phép biện chứng trong thời kỳ lúc này không được thể hiện một cách rõ ràng và cụ thể. Đa số với các nhà triết học trong giai đoạn này thì tư tưởng về phép biện chứng chủ yếu dựa trên quan điểm duy tâm. Sau này, Karl Marx còn đưa ra nhận xét về tư tưởng của Hegel là phép biện chứng lộn sâu xuống đất.

4. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Các quy luật cơ bản của phép duy vật biện chứng:

Phép biện chứng duy vật gồm có 3 quy luật cơ bản cụ thể sau đây:

– Thứ nhất: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có nội dung bao gồm:

+ Các khái niệm về mâu thuẫn và mặt đối lập, thống nhất, đấu tranh và chuyển biến của các mặt đối lập;

+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có nội dung là đưa ra vai trò của thống nhất, đấu tranh và chuyển biến của các mặt đối lập trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng;

Xem thêm: Bản chất là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?

+ Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn của quy luật.

– Thứ hai: Quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có nội dung bao gồm:

+ Vị trí của quy luật trong phép biện chứng là một nội dung của quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại.

+ Nội dung quy luật: Các khái niệm: “chất”, “lượng”, “độ”, “điểm nút”, “bước nhảy”.

+ Biện chứng giữa chất và lượng.

 + Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.

– Thứ ba: Quy luật phủ định của phủ định có nội dung bao gồm:

+ Vị trí của quy luật trong phép biện chứng.

Xem thêm: Quan hệ nhân quả là gì? Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả theo Mác – Lênin?

+ Các khái niêm: “phủ định”, “phủ định của phủ định”.

+ Tính chu kỳ và khuynh hướng xoáy ốc của sự phát triển.

+ Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.

Các phạm trù cơ bản của phép duy vật biện chứng:

Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm có 6 phạm trù cơ bản như sau:

– Cái chung – Cái riêng là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

– Nội dung – Hình thức là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

– Nguyên nhân – Kết quả là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

– Tất nhiên – Ngẫu nhiên là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

– Khả năng – Hiện thực là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

– Bản chất – Hiện tượng là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

5. Ví dụ về chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Dù đã đưa ra định nghĩa cụ thể nhưng để các chủ thể là người đọc có thể dễ dàng hình dung hơn về phép duy vật biện chứng, sau đây chúng tôi xin đưa ra các ví dụ về phép duy vật biện chứng cụ thể như sau:

– Một ví dụ về phép duy vật biện chứng theo quy luật phủ định của phủ định:

Ví dụ như một con rắn giống cái được được coi là cái khẳng định, nhưng khi con rắn giống cái đó đẻ trứng thì quả trứng được đẻ ra đó sẽ được coi là cái phủ định của rắn giống cái. Sau đó quả trứng rắn cũng sẽ cần phải trải qua thời gian vận động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con rắn con. Vậy con rắn con lúc này sẽ được coi là cái phủ định của phủ định, mà phủ định của phủ định thì sẽ trở thành cái khẳng định. Sự vận động và phát triển theo quy luật phủ định của phủ định này luôn diễn ra liên tục vận động và phát triển và có tính chu kỳ.

– Một ví dụ về phép duy vật biện chứng theo quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại:

Sau khi tan làm, đối tượng X đi xe máy với quãng đường 10 cây số từ cơ quan để có thể về đến nhà. Lúc này, tất cả sự thay đổi trong quãng đường mà X di chuyển từ cơ quan đến trước khi về đến nhà được coi là sự thay đổi về lượng, cho đến thời điểm X về đến nhà thì đó là có thay đổi về chất. Như vậy trong trường hợp cụ thể được nêu này, chúng ta có thể thấy sự thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất.

Video liên quan

Chủ Đề