1884 triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước

Mục lục bài viết

  • 1. Hiệp ước Giám thân 1884
  • 2. Nội dung của Hòa ước

1. Hiệp ước Giám thân 1884

Hiệp ước Giám thân 1884 [còn được gọi là Hiệp ước Patơnôtơrơ] là văn kiện được kí giữa triều đình Huế và Chính phủ Pháp ngày 06.6.1884, sau khi Pháp đã kí với triều đình Mãn Thanh ngày 11.5.1884 Quy ước Thiên Tân về việc quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ.

Đại diện phía triểu đình Huế là Nguyễn Công Tường, Thượng thư Bộ lại kiêm phụ chính thứ nhất và một số quan chức khác. Đại diện phía Pháp là Patơnôtơrd [.J.Patenôtre], đặc phái viên của Chính phủ Pháp bên cạnh Hoàng đế Trung Hoa.

Hiệp ước gồm 19 điều với nội dung bao trùm là nước An Nam thừa nhận và chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Người An Nam sống ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp. Nội dung cơ bản là trên cơ sở của Hiệp ước Quý Mùi [1883], Hiệp ước Giáp Thân mang ý nghĩa là một bẵn khai tử đối với chủ quyển đối ngoại của triểu đình Huế. Hai bên điều chỉnh lại ranh giới ba miền Bắc, Trung, Nam. Từ phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào gọi là Nam Kỳ. Từ đây trở ra tới địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình gọi là Trung Kỳ và từ đây trở ra đến biên giới Việt Trung gọi là Bắc Kỳ. Nam kỳ được xác định là thuộc địa của Pháp, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ hợp lại được gọi là Nương quốc An Nam [Empire dAnnam] và được đặt dưới chế độ bảo hộ của Pháp.

Pháp đặt chức Tổng trứ sứ [Résident général] thay cho chức Trứ sứ theo Hiệp ước Quý Mùi, đóng ở ngay trong nội thành Huế, thực hiện chức năng thay mặt cho Chính phủ Pháp chủ trì mọi việc đối ngoại của Nam triều. Đồng thời, thực hiện tất cả các quyền hành của viên trứ sứ ở Huế trước đây. Tổng trứ sứ, ngoài ra, còn chỉ đạo mọi hoạt động của các viên công sứ Pháp đứng đầu tỉnh ở Bắc Kỳ. Pháp nắm độc quyển thuế thương chính ở Việt Nam, Các luật lệ, thể lệ về các loại thuế gián thu và chế độ thuế thương chính ở Nam Kỳ đều được chúng đem ra áp dụng ở Bắc Kỳ.

Triều đình Huế chấp thuận cho Pháp được tự do lựa chọn địa điểm đóng quân trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Làm như vậy, triểu đình Huế cũng là muốn nhờ cậy Pháp giúp đỡ trong việc bình định các cuộc khởi nghĩa trong nước và các cuộc xâm lược từ bên ngoài.

Sau khi kí Hiệp ước này, triều đình Huế buộc phải đem ấn bạc mà trước đó vua nhà Thanh đã cho vua nước Nam - một biểu trưng về sự lệ thuộc của Nam triều vào triều đình nhà Thanh, đến sứ quán Pháp ở Huế để phá đúc thành khối bạc trước mặt đại diện của Pháp.

2. Nội dung của Hòa ước

Nội dung Hòa ước gồm 19 khoản căn bản dựa trên Hòa ước Quí Mùi [năm 1883] nhưng được sửa lại một số điều như:

>> Xem thêm: Tìm hiểu chung về hòa ước Nhâm Tuất năm 1862

Khoản 1: Nước Việt Nam thừa nhận sự bảo hộ của Pháp là nước sẽ thay mặt Việt Nam trong mọi giao tiếp với ngoại quốc và bảo hộ người Việt Nam ở nước ngoài.

Khoản 3: Tại các tỉnh nằm trong giới hạn từ giáp Nam Kỳ đến giáp Ninh Bình, các quan lại triều đình sẽ tiếp tục cai trị nhân dân như cũ, trừ các việc thương chính, công chính cùng các việc cần có chủ trương nhất trí, cần có kỹ sư Pháp hay người châu Âu giúp.

Về hình thức của điều ước này, tuy thực Pháp có trả lại cho triều Nguyễn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía bắc; tỉnh Bình Thuận ở phía nam và triều Nguyễn quyền có đội quân riêng. Mục đích nhằm xoa dịu phản ứng có thể có của triều đình nhà Thanh và tranh thủ mua chuộc, lung lạc thêm một bước nữa để giai cấp phong kiến Việt Nam đầu hàng.

Hòa ước Pa-tơ-nốt đã cắt Việt Nam chia ra làm ba xứ: Bắc Kỳ [Tonkin]; Trung Kỳ [Annam]; Nam Kỳ [Cochinchine] với ba chế độ khác nhau, mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng. Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp; Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng trên danh nghĩa triều đình nhà Nguyễn vẫn được quyền kiểm soát. Đó là điểm chính trong toàn bộ chính sách chia để trị của chủ nghĩa thực dân.

Hòa ước này hoàn toàn xóa những biểu hiện quyền lực còn lại của chế độ phong kiến Việt Nam độc lập, kể cả ấn vàng nặng 5,9kg của vua Gia Long đúc từ khi khai lập nhà Nguyễn năm 1802 cũng bị nấu chảy ra trước sự chứng kiến của các quan chức cao cấp thực dân.

Đến đây, chế độ phong kiến Việt Nam với ý nghĩa là một vương triều độc lập đã sụp đổ. Việt Nam đã trở thành thuộc địa của tư bản Pháp, các triều vua Nguyễn tồn tại sau đó chủ yếu do thức dân Pháp lập nên như một con bài cần thiết cho sự vận hành guồng máy thống trị của chủ nghĩa thực dân mà thôi.

Luật Minh Khuê [tổng hợp]

chào e, a xin trả lời như sau:

từ năm 1858-1884 triều đình huế kí với pháp 4 bản hiệp ước gồm :

-Hiệp ước Nhâm Tuất kí ngày 5/6/1862

-Hiệp ước Giáp Tuất kí ngày 15/3/1874.

-Hiệp ước Quý Mùi [Hacmang] kí ngày 25/8/1883

-Hiệp ước Patonot kí ngày 6/6/1884.

nhận xét: các hiệp ước trên là những hiệp ước bán nước và dần đầu hàng thự cdaan pháp của nhà nguyễn để rồi nước ta mất hoàn toàn vào tay pháp sau bản hiệp ước năm 1884, biến nước ta thàn nước tuộc địa nửa phong kiến

Từ năm 1858-1884 triều đình huế kí với pháp 4 bản hiệp ước gồm : -Hiệp ước Nhâm Tuất kí ngày 5/6/1862 -Hiệp ước Giáp Tuất kí ngày 15/3/1874. -Hiệp ước Quý Mùi [Hacmang] kí ngày 25/8/1883 -Hiệp ước Patonot kí ngày 6/6/1884.   nhận xét: các hiệp ước trên là những hiệp ước bán nước và dần đầu hàng thực dân pháp của nhà nguyễn để rồi nước ta mất hoàn toàn vào tay pháp sau bản hiệp ước năm 1884, biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến

theo em hiệp ước 1884 là quan trọng nhất vì đây là năm mà nhà nguyễn mất hoàn toàn vào tay thực dân Pháp

Từ năm 1858-1884 triều đình huế kí với pháp 4 bản hiệp ước gồm : -Hiệp ước Nhâm Tuất kí ngày 5/6/1862 -Hiệp ước Giáp Tuất kí ngày 15/3/1874. -Hiệp ước Quý Mùi [Hacmang] kí ngày 25/8/1883 -Hiệp ước Patonot kí ngày 6/6/1884.

-Hiệp ước thứ nhất là hiệp ước Nhâm Tuất: ngày mùng 5 tháng 6 năm 1862 triều đình Huế kí hiệp ước Nhâm Tuất những cho chúng nhiều quyền lợi. Bản hiệp ước có nội dung như sau, triều đình Huế thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh Đông Nam Kì và đảo Côn Lôn ,mở ba cửa biển cho Pháp vào buôn bán, cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô bãi bỏ cấm đạo trước đây bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 280 vạn lượng bạc khác xe trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình Quốc được dân chúng ngưng kháng chiến. -Hiệp ước thứ hai là hiệp ước Giáp Tuất: sau chiến thắng Cầu Giấy phát hoang mã còn quân dân ta thì phấn khởi càng hăng hái đánh giặc. Trong khi đó triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp hiệp ước Giáp Tuất vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 . Theo đỏ pháp xây rút khỏi Bắc Kỳ còn triều đình thi chính thức thừa nhận 6 Tỉnh Nam Kỳ hoàn toàn thuộc Pháp, hiệp ước đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ ngoại giao và thương mại của Việt Nam. -Hiệp ước Hác măng còn gọi là Quý Mùi: tháng 8 năm 1883 hạm đội Pháp bắt đầu bắn phá dữ dội ở các pháp đại ở cửa Thuận An Bắc Kỳ. Chúng đổ bô lên khu vực này triều đình xin đình chiến . Cái uy của Pháp lên nhanh Huế và đưa ra một bản hiệp ước triều đình chấp nhận. Nội dung: triệu đi Nguyễn Chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở bắc kì và trung kì, các tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung kỳ để nhập vào đất Nam kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh thanh-nghệ-tĩnh được sát nhập vào Bắc Kỳ, những mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Cũng sự khác ở các tỉnh bắc kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình ngắm các quyền trị an và nội vụ. Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do pháp nắm. Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc kỳ về Trung Kỳ. -Hiệp ước pa-tơ-nốt : năm 1884 phát lại bắc triều đình Huế kí tiết bản hiệp ước với có nội dung cơ bản giống với hiệp ước hắc măng chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực Trung Kỳ nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.

Video liên quan

Chủ Đề