Công thức chung của tư bản là gì và mâu thuẫn của nó

Câu 7: Công thức chung và mâu thuẫn của công thức chung?

a, Công thức chung:

-Với tư cách là tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền vận động theo công thức: H-T-H

-Còn với tư cách là tư bản, tiền vận động theo công thức chung của tư bản: T-H-T

- So sánh sự vận động trong hai trường hợp:

*Giống nhau:

Đều gồm 2 nhân tố tiền và hàng, đều có sự kết hợp của hai hành động đối lập, nối tiếp nhau, thể hiện mối quan hệ giữa những người trao đổi

* Khác nhau:

- Trình tự các hành vi khác nhau: lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng bán và kết thúc bằng mua, còn công thức chung của tư bản bắt đầu bằng mua và kết thúc bằng bán.

- Điểm xuất phát và kết thúc: lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng bán và kết thúc bằng mua trong khi công thức chung của tư bản bắt đầu bằng mua và kết thúc bằng bán.

- Điểm xuất phát và kết thúc: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hàng và kết thúc bằng hàng còn công thức chung của tư bản bắt đầu bằng tiền và kết thúc cũng bằng tiền.

- Động cơ, mục đích của sự vận động: lưu thông hàng hóa giản đơn mục đích là giá trị sử dụng còn công thức chung của tư bản mục đích là giá trị và giá trị lớn hơn. Tư bản vận động theo công thức: T-H-T’ trong đó T’=T+t ; t là số tiền trội hơn gọi là giá trị thặng dư kí hiệu là m.

- Giới hạn của sự vận động: công thức lưu thông hàng hóa giản đơn có giới hạn còn công thức chung của tư bản không có giới hạn. Công thức này được viết là: T-H-T’-H-T’’...

b, Mâu thuẫn của công thức chung:

- Giá tị thặng dư được tạo ra ở đâu: Từ công thức T-H-T’ nhiều người lầm tưởng cả sản xuất và lưu thông đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư nhưng trong mọi trường hợp tiền và lưu thông đều không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhưng giá trị thặng dư vẫn lớn lên đồng thời với lưu thông nên nảy sinh những mâu thuẫn.

- Trong lưu thông có thể xảy ra hai trường hợp:

+ Trao đổi ngang giá: hai bên trao đổi không được lợi về giá trị, chỉ được lợi về giá trị sử dụng

+ Trao đổi không ngang giá: gồm 3 trường hợp

Trường hợp 1: Bán cao hơn giá trị, khi đó được lợi khi bán nhưng mua bị thiệt vì người bán cũng đồng thời là người mua

Trường hợp 2: Mua thấp hơn giá trị, khi đó được lợi khi là người bán và bị thiệt khi là người mua.

Trường hợp 3: Mua rẻ bán đắt. Tổng giá trị toàn xã hội không tăng lên bởi vì số giá trị mà người này được là số giá trị mà người khác bị mất

- Vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.

Kết luận:

- Phải lấy quy luật nội tại của lưu thông tư bản để giải thích sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, tức là lấy việc trao đổi ngang giá làm điểm xuất phát.

- Sự chuyển hóa của người có tiền thành nhà tư bản phải tiến hành trong phạm vi lưu thông và đồng thời lại không phải trong lưu thông.

Vậy tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải lưu thông”. Đó là mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.

Tư bản vận động theo công thức T-H-T trong đó T = T + t. Vậy t được sinh ra như thế nào? Như vậy chỉ có 2 trường hợp: trong lưu thông và ngoài lưu thông.

a. Trong lưu thông [Trao đổi, mua bán]: Dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư – Trường hợp trao đổi ngang giá [mua bán đúng giá trị ] chỉ là sự chuyển hoá hình thái giá trị từ H – T và ngược lại . Do đó, tiền không lớn lên, giá trị không tăng thêm. – Trao đổi không ngang giá: Mua rẻ [thấp hơn giá trị] thì có lợi trong khi mua. Nhưng khi bán, bán thấp hơn giá trị thì chịu thiệt thòi. Bán đắt [cao hơn giá trị]: cái được lợi khi là người bán thì sẽ chịu thiệt khi là người mua. Mua rẻ, bán đắt: điều này chỉ giải thích sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không giải thích sự làm giàu của tư bản nói chung

Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm

b. Ngoài lưu thông [xét hai nhân tố] không có sự tiếp xúc hàng tiền:

Nhân tố [T] tiền: “tiền” tự nó không lớn lên. Xét nhân tố [H] hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng: + Tiêu dùng vào sản xuất, tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó chuyển dịch dần vào sản phẩm – không tăng lên. + Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân – cả giá trị và giá trị sử dụng đều mất đi. Như vậy cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm. Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá [trong lưu thông ] nhưng nhà tư bản không bán hàng hoá đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đó [ngoài lưu thông] tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó – hàng hoá đó là sức lao động. Như vậy công thức đầy đủ có thể viết: Sức lao động T – H sản xuất hàng hoá …H – T TLSX

Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là tư bản vận động vừa trong lưu thông nhưng đồng thời vừa không trong lưu thông.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • công thức chung của công thức tư bản chủ nghĩa
  • mâu thuẫn chung của công thức tư bản
  • mâu thuẫn công thức chung của tư bản
  • mâu thuẫn công thức chung tư bản
  • mau thuan kinh te tu nhan
  • tại sao công thức chung của tư bản có mâu thuẫn
  • ,

    Trong công thức T – H – T’, trong đó T’ = T + T. Vậy, giá trị thặng dư [T] do đâu mà có?

    Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư, nhằm mục đích che giấu nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản. Tuy nhiên trong lưu thông, dù người ta trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.

    –   Xét trường hợp trao đổi ngang giá

    Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi vì có được những hàng hoá thích hợp với nhu cầu của mình.

    Như vậy, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá không tạo ra giá trị thặng dư.

    –   Xét trường hợp trao đổi không ngang giá:

    Xảy ra ba trường hợp:

    + Trường hợp thứ nhất, nếu giả định mọi người đều bán hàng hóa cao hơn giá trị. Trong thực tế không có nhà tư bản nào lại chỉ đóng vai trò là người bán hàng hóa, mà lại không là người đi mua các yếu tố sản xuất để sản xuất ra các hàng hóa đó. Do đó khi là người mua, họ lại phải mua cao hơn giá trị. Do đó, số lời mà họ thu được khi là người bán thì sẽ mất đi khi là người mua. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị đã không hề mang lại một chút giá trị thặng dư nào.

    + Trường hợp thứ hai, nếu giả định mọi người đều mua hàng hóa thấp hơn giá trị. Trong trường hợp này cũng tương tự như trường hợp ở trên, cái mà anh ta thu được do mua rẻ, sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán vì cũng phải bán thấp hơn giá trị thì các nhà tư bản khác mới mua. Rút cục giá trị thặng dư vẫn không được đẻ : từ hành vi mua rẻ.

    + Trường hợp thứ ba, giả định trong xã hội tư bản có một số kẻ giỏi bịp bợm, lừa lọc, bao giờ họ cũng mua được rẻ và bán được đắt. Nếu xét riêng bản thân thì họ là những người được lợi.

    Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì giá trị thặng dư mà họ thu được lại chính là cái mà người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hóa trong xã hội không vì hành vi cướp đoạt, lừa gạt của họ mà tăng lên. Ăn cắp lẫn nhau trong cùng giai cấp không thể là cách làm giàu phổ biến của giai cấp tư sản được. Giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình.

    Sau khi xem xét, lật đi lật lại vấn đề thì lưu thông vẫn không thể đẻ ra giá trị, không thể làm tăng thêm giá trị được, dù trao đổi ngang giá hay trao đổi không ngang giá.

    Như vậy lưu thông đã không đẻ ra giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá trị thặng dư có thể đẻ ra ở ngoài lưu thông?

    –  Ở ngoài lưu thông chúng ta xem xét hai trường hợp

    + ở ngoài lưu thông, nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của những hàng hóa ấy không hề tăng lên một chút nào.

    + Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hàng hoá, thì phải bằng lao động của mình.

    Đến đây, C. Mác đã khẳng định “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.

    Đây chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. Vấn đề ở đây là người có tiền cần phải tìm thấy trên thị trường một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó, thì sáng tạo ra được giá trị, hơn nữa lại sáng tạo ra một giá trị lốn hơn giá trị bản thân nó. Nói cách khác, người có tiền phải tìm thấy trên thị trường một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có thuộc tính là nguồn gốc của giá trị. Hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao động.

    Video liên quan

    Chủ Đề